Vở kịch con lâu mới hạ màn

Lao Ta | Tràn ngập trên không gian mạng mấy hôm nay là nỗi thất vọng, thậm chí tuyệt vọng về kết quả phiên tòa (giống như màn hài kịch) xử vụ giết chóc nhau giữa chính quyền và người dân vì cái “bãi cứt gà” Đồng Sênh. Tôi cũng thất vọng, chắc chắn thế, nhưng không hề tuyệt vọng. Kịch còn lâu mới hạ màn, thậm chí kể cả khi xương người chết liên quan đến vụ án đã mục. Sự thật luôn chỉ có một và trước sau thì nó cũng hiện hình. Không ai ém nhẹm đi được, kể cả khi có trong tay bom nguyên tử như nhà nước Liên Xô một thời. Bởi vì sau khi dọn dẹp tất cả các bằng chứng, thì vẫn còn đó các đương sự bằng xương bằng thịt và lương tâm con người. Tôi vốn bị các nhà tuyên giáo của chế độ gán cho tội hay thiên về mô tả cái ác, đến mức rùng rợn. Tôi không chối. Muốn mọi người ghê sợ cái ác, thì cách tốt nhất là đặc tả chân dung của nó. Ví dụ trong tiểu thuyết Đi tìm nhân vật, xuất bản lần đầu năm 2002, vừa thò mặt ra đã lập tức bị cấm, Việt Kiều Mỹ in lại sau đó một năm và mới đây, sau 15 năm thì được tái bản (nhờ sự cởi mở của ông Chu Hòa và bà Mai Hương, xin lần nữa tri ân hai vị), NHÂN VẬT chính vô tình đọc được cuốn Nhật kí của anh lính cộng sản Bắc Việt, trong đó anh ta kể lại trong một trận đánh giáp lá cà, anh ta vô cùng phấn khích lao vào chém giết đối phương cùng là người Việt, đặc tả cảnh thọc lưỡi lê vào ngực của anh lính Việt Nam cộng hòa mà anh ta được giáo dục là “Bọn ngụy”. Thậm chí anh ta còn thốt lên: “Giết người lúc ấy sao mà sướng thế!” Nhưng khi trở về doanh trại với tư cách phía giành chiến thắng, thay vì ăn mừng, anh ta không ngừng bị ám ảnh bởi những hành động kinh khủng của mình, đến mức không chịu nổi và đã dùng chính khẩu súng mà anh ta vừa giết ‘địch”, đặt mũi vào yết hầu, dùng ngón chân đạp vào cò súng. Kết quả đầu phía sau của anh ta vỡ toác (y như vết toác trên lưng cụ Kình trong vụ Đồng Tâm), óc phòi ra một đống tướng, miếng xương sọ bắn vào đĩa đựng thức ăn của nhà bếp khiến một anh lính đồng đội tưởng đó là miếng thịt hộp chiến lợi phẩm! Khủng khiếp đến thế là cùng! Nhưng hóa ra vẫn chưa là gì so với màn MỘT ANH LÍNH CƠ ĐỘNG NÀO ĐÓ hạ sát cụ đảng viên lão thành Lê Đình Kình (Bắn gẫy đầu gối, bắn thẳng hai phát vào ngực, sau đó chó nghiệp vụ kéo xác ra (màn kéo xác trong đêm tối bởi một con hung cẩu nặng 45-60 cân cũng kinh lắm đấy), sau đó rạch bụng theo kiểu mổ lợn…Thôi, mọi người hãy tự tưởng tượng tiếp). Hoàn toàn có thể xảy ra các tình huống sau: 1-Một hôm nào đó, con chó kéo xác cụ Kình bỗng dưng “day dứt lương tâm” mà tuyệt thực cho đến chết, hoặc cắn lưỡi chết, hoặc phát điên. Ô, cũng ra vấn đề lắm nhé ông Phạm Lưu Vũ nhỉ! 2-Giống như anh lính chiến trong tiểu thuyết của tôi, ANH LÍNH CƠ ĐỘNG NÀO ĐÓ, bỗng một đêm nào đó, sau một hồi đi lang thang vì bị ám ảnh bởi chính hành động của mình, đã tìm bằng được khẩu súng có nòng “to bằng cổ tay” mà anh ta dùng để hạ sát cụ Kình, chĩa ngược mũi lên yếu hầu mình và bóp cò. Khi đó kịch mới vào đoạn cao trào, chứ đâu đã hạ màn như ai đó bảo. Nhưng kịch sẽ còn hay hơn, nếu, cũng giống anh lính trong Đi tìm nhân vật, ANH LÍNH CƠ ĐỘNG NÀO ĐÓ để lại cho hậu thế một cuốn NHẬT KÝ với những lời tự thú kiểu như của anh lính nhân vật của tôi. (Vị nào muốn đọc đoạn tự thú kinh hoàng đó xin mở tiểu thuyết ĐI TÌM NHÂN VẬT trang 135, (bản in tại NXB Văn hóa dân tộc năm 2002), trang 133 (bản in ở Mỹ năm 2003), trang 115 (bản in lại tại NXB Hội nhà văn năm 2017). Còn nếu ai có thời gian xin đọc những bài viết của nhà văn Uyên Thao, Trần Phong Vũ (Hoa Kỳ) nhà phê bình Thụy Khuê (Pháp) nhà văn Phạm Lưu Vũ (Hà Nội)…về cuốn tiểu thuyết “tai tiếng” này. Định nói nốt tình huống thứ ba, nhưng độ KINH HÃI và HÀI của nó vượt quá khả năng chịu đựng của người viết, nên xin dừng lại. Chỉ tiếc mình sức tàn lực kiệt.  
......

Đạo đức Hồ Chí Minh: Từ Cát Hanh Long tới Lê Đình Kình

canhco’s blog – RFA Rất nhiều người cứ âm thầm tự hỏi “Đạo đức Hồ Chí Minh” là gì mà hệ thống tuyên truyển của Đảng nói không mỏi mệt về nó. Từ thời ông Hồ về nước cho tới khi mất đi, việc làm nào của ông được xem là đạo đức thì không thấy hệ thống Đảng lấy ra làm khuôn vàng thước ngọc cho dân, chì thấy nói một cách chung chung và không cần kèm theo chỉ dẫn hay chứng minh thì trách sao người dân lơ ngơ về hành vi đáng gọi là đạo đức của một lãnh tụ? Cho tới khi vụ Đồng Tâm xảy ra thì nhiều người tự hỏi: Những người đi sau ông Hồ có thực sự đang theo đuổi cái “đạo đức” mà họ được bồi dưỡng trong những bài học chính trị hay không, đặc biệt là ông Nguyễn Phú Trọng, người lãnh đạo toàn diện cả hai hệ thống Đảng và Nhà Nước. Khi nói tới cái chết của ông Lê Đình Kình nhiều người liên tục nhắc tới những đóng góp mà ông Lê Đình Kình đã bỏ ra suốt cuộc đời, hay đúng hơn là 56 năm tuổi đảng. Cái chết của ông dễ làm người ta liên tưởng tới một cái chết khác cách đây gần 70 năm khi cuộc Cải cách ruộng đất bắt đầu thì bà Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát Hanh Long là người đầu tiên bị đấu tố và tử hình. Ông Kình và bà Năm giống nhau ở điểm: Ông Kình bỏ ra gần 60 năm phục vụ cho Đảng, tức bỏ công sức cả đời ra cho tổ chức mà ông theo đuổi. Bà Năm bỏ gần hết cơ nghiệp gia đình ra để ủng hộ Việt Minh, tiền thân của Đảng hiện nay. Với số vàng và tài sản đóng góp kể cả bao che cho những cán bộ Việt Minh sau này giữ những cương vị quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh…..bà Nguyễn Thị Năm được xem là có công với cách mạng nhưng cái công đó bị chính ông Hồ Chí Minh khước từ. Ông Kình cũng bị khước từ những đóng góp suốt đời để nhận hậu quả là cái chết giữa đêm khuya. Ông Hồ Chí Minh được chính những kẻ viết sử của chế độ qua hồi ký, xác nhận đã khước từ trước cái chết của bà Cát Hanh Long, một trong những trang viết đáng tin cậy đó là của Hoàng Tùng (*), viết trong hồi ký “Những kỷ niệm về Bác Hồ” thì: “Thấy cố vấn Trung Quốc bảo phải xử tử Nguyễn Thị Năm, Hoàng Quốc Việt ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên ban lãnh đạo Cải cách Ruộng đất trung ương, phụ trách Cải cách ở Thái Nguyên đến báo cáo với Hồ Chí Minh ý kiến của cố vấn. Hồ Chí Minh hứa với Hoàng Quốc Việt sẽ nói với Trường Chinh, Trưởng ban chỉ đạo trong cải cách ruộng đất nhưng ông không làm. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã giữ im lặng vì sợ gây mâu thuẫn với cố vấn Trung Quốc.” Ông Hồ Chí Minh của quá khứ và ông Nguyễn Phú Trọng của hiện tại có khác gì nhau? Bởi một điều chắc chắn ông Nguyễn Phú Trọng phải được báo cáo xin chỉ thị trước khi hành quân hạ sát ông Kình, Thế nhưng không có văn bản nào có chữ ký của ông Trọng giống như ông Hồ Chí Minh không bao giờ ký vào bản án bà Nguyễn Thị Năm. Hai cái chết đều không có chữ ký của cấp cao nhất nước nói lên sự phủi tay trước trách nhiệm cần có, vậy thì có đạo đức không? Vụ án Đồng Tâm cũng không khác vụ đấu tố bà Cát Hanh Long là mấy. Ngày trước, Trong bài viết “Địa chủ ác ghê” của C.B. trên báo Nhân dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 kể tội bà là “Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người… Giết chết 14 nông dân, Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân…Nguyễn Thị Năm đã thú nhận thật cả những tội ác”. Thực tế nhiều nhà văn nhà báo phát hiện thì C.B là một trong những bút danh của Hồ Chí Minh trên báo Nhân dân từ năm 1951 đến 1957. Trước khi vụ án Đồng Tâm được chính thức xét xử, Thiếu tướng Tô Ân Xô, phát ngôn viên của Bộ Công An khẳng định “Lê Đình Kình là một loại cường hào địa chủ mới”. Giống như C.B viết về bà Nguyễn Thị Năm: toàn bộ các con cháu cụ Lê Đình Kình cũng như 29 người bị khởi tố đều thú nhận tội ác là đã giết 3 công an trong đêm cụ Kình bị giết. Sau cuộc cải cách ruộng đất ông Hồ Chí Minh được báo chí “viết lại” là rất bức xúc trước cái chết của bà Năm. Những “tay tổ” như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trường Chinh, Lê Văn Lương đều tiếc thương và khẳng định bà Năm bị giết là sai lầm. Vài năm nữa (nếu Cộng sản tiếp tục cầm quyền) người dân sẽ thấy đồng loạt các loại tướng tá như Tô Lâm, Tô Ân Xô, Lương Tam Quang, Trần Quốc Vượng và nhất là Nguyễn Phú Trọng sẽ lên VTV lau nước mắt mà tiếc thương cho ông Lê Đình Kình và con cháu của ông đã bị giết lầm trong lúc mà “Xã hội chưa thống nhất niềm tin với đảng”. Lịch sử luôn lập lại nhưng lần này có lẽ là lần sau cùng một chính quyền luôn luôn chiến thắng dân sẽ khó mà ăn ngon ngủ yên như gần 70 năm trước bởi giờ đây người dân đã kịp trang bị cho mình kiến thức thật sự từ mạng lưới toàn cầu, họ không còn dễ dàng cả tin vào những người đầy tớ mà chất phản phúc lúc nào cũng lộ ra trên những chiếc khăn tay chậm nước mắt sau khi giết chủ. (*)https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_N%C4%83m canhco’s blog  
......

Đồng Tâm - giữa vòng tròn bất tử

Phạm Minh Vũ| Năm 1960, tại Lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng CSVN, Hồ Chí Minh tuyên bố rằng: Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại! Kỷ niệm 90 năm thành lập đcs, Nguyễn Phú Trọng đầu năm đã nói rằng: “Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: "Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Vừa trải qua một cuộc cải cách ruộng đất, sát hại hơn 170.000 người, HCM đấu tố những ân nhân của mình trước đó đã từng một lòng trung thành tin tưởng vào cách mạng, đem hết tiền bạc của cải ra cho cách mạng, để rồi bị chính cái gọi là cách mạng cắt mạng những ân nhân đó. Rồi ông ta gọi đảng ta là vĩ đại. 60 năm sau, Nguyễn Phú Trọng nhân danh cách mạng để cắt mạng đồng chí lão thành của đảng mình,từng tuyên bố một lòng trung thành và tin tưởng vào đảng. Sát hại cụ kình xong, 20 ngày sau ông Trọng tuyên bố rõ to rằng: ‘’đảng ta thật vĩ đại, nhân dân ta thật anh hùng’’. Và hôm nay đem con cháu của lão thành LĐK ra đấu tố trên tất cả các phương tiện truyền thông, kết thúc bản án bằng cách tru di tam tộc, Bà Cát Hanh Long và Cụ Kình, cách nhau 1 thế kỷ ấy vậy mà số phận không khác nhau là mấy. Hôm nay (14.9.2020), mây đen vần vũ trên bầu trời Hà Nội và Sài Gòn, phải chăng ông trời cũng thấu cảm nỗi oan khiên tại Đồng Tâm? Những người nông dân chất phác, họ là những người lương thiện, họ chỉ biết làm nông, với người nông thì canh tác là sự sống, là máu là nước mắt, trải qua bao đời gắn bó với đất. Khi đất lên giá, bọn quan tham đã rắp tâm cướp cho bằng được. Cụ Kình và người dân Đồng Tâm đã chọn cách đấu tranh ôn hòa hòng giải quyết sự tranh chấp khi sự việc xảy ra, nhưng hết lần này tới lần khác, cho tới ngày xe thiết giáp và hàng ngàn quân kéo về, chế độ cs chưa bao giờ đối thoại với Đồng Tâm dù chỉ một lần cho ra lẽ. Cụ Kình và dân làng Đồng Tâm sẽ đi vào lịch sử vì hình ảnh nông dân đấu tranh bằng con đường pháp lý, và thái độ không khoan nhượng với bọn cường hào ác bá cộng sản, Cụ và Dân làng xứng đáng là anh hùng vì đã làm cho cường quyền phải thua lý lẽ, cách hành xử man rợ của nhà cầm quyền trong rạng sáng 9.01 là một minh chứng cho thấy lẽ phải nó không nằm trên luật pháp mà là trên nòng súng. Cụ Kình đã hi sinh, dân làng Đồng Tâm sẽ bị khuất phục bởi bộ máy đàn áp của chế độ, nhưng, những hành động phản kháng ôn hòa cùng với sự quyết tâm bám đất không khoan nhượng ấy, đã tiếp thêm lửa cho khắp nơi trên đất nước VN nhất là những nông dân, mà sắp tới có lẽ là họ sẽ bị nhà cầm quyền đưa lên đoạn đầu đài. Cụ và Dân làng đã cho đồng bào thấy bộ mặt kinh tởm của chế độ tự xưng “thật là vĩ đại” nó là như thế nào. Cuộc va chạm đẫm máu ở Đồng Tâm sẽ được lịch sử nhắc mãi không chỉ vì sự tàn ác, man rợ của chế độ cộng sản, mà là vì sự kiên cường của Hào khí Đông A. Cụ Kình biết sẽ nguy hiểm, sẽ mất mạng sau lần bị công an Hà Nội đánh gãy chân, nhưng vì bà con dân làng, tình yêu quê hương và đồng loại, Cụ quyết đấu tranh đến hơi thở cuối cùng. Dù Cụ đã mất, nhưng tinh thần đó vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc. Hôm nay, khắp nơi lòng người đã khóc cạn nước mắt vì bản án tòa tuyên, trời cũng tuôn mưa, Nhân dân ở bốn phương trời, trong và ngoài lãnh thổ VN họ tỏ ra phẫn nộ vì bản án bất công cùa tòa tuyên cho người vô tội. Khó mà quên giây phút Cụ Kình xuất viện trở về được cả xã Đồng Tâm đến chúc mừng, bao giọt nước mặt của dân làng rơi khi thấy Cụ. Cả nước hướng về ĐT như nhủ thầm rằng, mong ĐT chiến thắng trong cuộc đấu tranh ấy, ngày hôm nay thì công lý đã bị gục trước họng súng của chế độ đương quyền. Chế độ tuyên truyền Cụ Kình và những người nông dân ra tòa hôm nay là khủng bố, nhưng tôi chưa thấy một tên khủng bố nào được nhân dân lập bàn thờ khi mất, được nhân dân khóc tiếc thương như Cụ Kình cả. Vì sao vậy? Vì Đồng Tâm ở giữa vòng tròn bất tử, vòng tròn ấy chính là Nhân dân, chính là lòng Dân! #Đồngtâm #lêđìnhkình #nguyễnphútrọng #đảngcsvn
......

Vì sao công lý & CS không bao giờ đứng chung ?

Đỗ Ngà| Vụ án Đồng Tâm dự tính kéo dài trong 10 ngày nhưng chỉ trong 4 ngày là kết thúc. Trong 4 ngày này người dân lần lượt thấy rõ mồn một một bản cáo trạng đầy rẫy chi tiết bịa đặt. Chưa hết, tại tòa án nhờ các luật sư liên tục cập nhật tình hình nên hội đồng xét xử lộ rõ bộ mặt chà đạp lên quy trình tố tụng, và thêm vào đó là những hành động côn đồ của công an với các luật sư. Nói thẳng ra đây là một bản án bỏ túi, những mức án đã định trước khi tòa diễn ra. Một bản án đã có kết quả khi chưa xử mà bắt hội đồng xét xử và công an phải nặn ra những màn kịch để diễn cho đúng 10 ngày thì rõ ràng đó là yêu cầu quá sức đối với họ. Và thực tế họ chỉ mới diễn trong 4 ngày mà mặt nạ của họ bị rơi xuống đất sạch trơn. Mặt nạ đã vỡ thì diễn thế nào được nữa đây? Nên phải kết thúc sớm là điều tất yếu. Ngày 14/09/2020, trong cuộc họp báo cáo công tác năm của ngành tòa án và kiểm sát trình xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc để chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội tháng 10 sắp tới có cho biết rằng "Một bộ phận kiểm sát viên chưa chủ động tranh luận". Vâng! Đây là sự thật, và chắc chắn rằng vấn đề này sẽ tồn tại mãi mà không thể nào khắc phục được. Lý do tại sao như vậy? Nguyên nhân là do án bỏ túi. Án bỏ túi là một loại án được định sẵn bởi ý muốn của kẻ có quyền lực lớn. Tất nhiên nó trái sự thật nên quyền lực mới can thiệp chứ nếu nó đúng sự thật thì để tòa diễn ra đúng thủ tục chứ dùng quyền lực can thiệp làm gì cho tai tiếng? Để hợp thức hóa một bản án bỏ túi thì bắt buộc các cơ quan gồm: cảnh sát điều tra, hội đồng xét xử, và cơ quan công tố phải ngồi lại vẽ ra những tình tiết để hợp thức hóa bản án sai trái ấy. Nói chung đã là án bỏ túi thì mọi bước thực hiện công tác tố tụng chỉ là một vở kịch được dàn dựng. Vậy nên khi những “kịch sĩ” đối mặt với các luật sư bào chữa họ không bao giờ dám đối mặt một cách chủ động bằng cách dùng những lập luận dựa trên pháp luật được mà họ phải dùng chiêu. Chiêu đó là gì? Đó chính là thái độ cửa quyền gạt ra ngoài lề những câu chất vấn của luật sư. Đó là lý do tại sao “kiểm sát viên chưa chủ động tranh luận”. Đã “danh không chính” thì tất "ngôn không thuận” thôi. Loại án bỏ túi vốn dĩ về bản chất nó có danh không chính thì tất các “kịch sĩ” sẽ vướng vào khó khăn “ngôn không thuận” không thể khác được. Đã là án bỏ túi thì tất xảy ra oan sai. Mà đã bị oan sai thì tất người ta phải kêu gào hết mọi cấp xét xử miễm sao để có thể được minh oan. Hết phúc thẩm mà vẫn oan thì người ta gào đến giám đốc thẩm, giám đốc thẩm rồi mà vẫn oan người ta gào tiếp để cốt sao được tái thẩm. Nói chung, những đơn đề nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hầu hết là những án oan, thế nhưng trong báo cáo của ngành tòa án và kiểm sát ngày 14/09 thì chỉ có 47% đơn đề nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được xem xét, còn lại 53% là chính quyền làm lơ luôn. Thực ra một khi đã là án bỏ túi thì không bao giờ chính quyền xem xét giám đốc thẩm, trừ khi có sức ép quá lớn từ truyền thông và mạng xã hội như vụ án Hồ Duy Hải. Vụ án Hồ Duy Hải đã cho thấy công an điều tra tỉnh Long An ngụy tạo chứng cứ nhằm mục đích ép chết Hồ Duy Hải. Và sau đó là các cấp xét xử từ sơ thẩm đến giám đốc thẩm đều răm rắp phát ra một giọng điệu như nhau như chúng ta đã chứng kiến. Đây là một dấu hiệu cho thấy, chính quyền xử án theo một bản thiết kế lập sẵn chứ không phải mỗi cấp xét xử là một phiên tòa độc lập đúng với quy trình tố tụng. Đã là chà đạp lên luật pháp trắng trợn thì càng xử qua nhiều cấp tất mặt nạ dối trá càng bị lột ra nhiều hơn. Chính vì thế mới có chuyện 53% đơn đề nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bị vứt xó là vậy. Qua báo cáo của ngành tòa án và kiểm sát, kết hợp với thực tế những phiên tòa nổi tiếng những năm gần đây cho chúng ta thấy rất rõ bản măt của chế độ này. Làm án theo ý chí chủ quan của thế lực chính trị vẫn mãi là cách mà hệ thống tư pháp nước này vận hành, không thể khác được. Còn CS thì thần công lý vẫn không thể hiện diện ở xứ Việt Nam này được. Công lý và CS là hai phạm trù mà chúng ta thấy nó không thể đứng chung nhau được. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://tuoitre.vn/ket-qua-xet-xu-mot-so-vu-an-chua-duoc-du…  
......

Nếu bố bạn là Cụ Kình ?

Ảnh- Mộ cụ Lê Đình Kình đã xanh cỏ Tuan Ngo| Luật sư Ngô Anh Tuấn đang ở cuối tuổi “Tam thập nhi lập”, sắp bước vào tuổi “ Tứ thập nhi bất hoặc” - là tuổi hiểu được mọi sự trong thiên hạ. Tuy tuổi đời so với nhiều người thì còn trẻ, nhưng trí tuệ lòng tốt và bản lĩnh của LS Ngô Anh Tuấn thì nhiều người lớn tuổi hơn anh không sánh được. Trí tuệ, lòng tốt và bản lĩnh không đo bằng năm tháng. Anh là một trong số 13 vị luật sư tự nguyện bào chữa miễn phí cho các bị can trong Vụ án Đồng Tâm đang xét xử. Anh còn là luật sư tự nguyện bảo vệ quyền lợi cho bà Dư Thị Thành – vợ của cụ Lê Đình Kình. Với tất cả các luật sư tự nguyện bào chữa cho đồng bào Đồng Tâm – xin ngả mũ kính phục! LS Ngô Anh Tuấn sinh và lớn lên ở giải đất Mỹ Quan, Yên Lý - là một địa danh nổi tiếng của Phủ Diễn Châu. Mỹ Quan là quê của nhà cách mạng Phùng Chí Kiên, của các Giáo sư Toán học Nguyễn Tố Như, Nguyễn Nhuỵ và nhiều trí thức thành danh khác. Đất sinh ra người. Nhắc đến LS Ngô Anh Tuấn là bởi vì anh vừa đưa ra câu hỏi “NẾU BỐ BẠN LÀ CỤ KÌNH?” Chao ôi, một câu hỏi chỉ gồm 6 từ mà có phép nhiệm màu soi sáng cả vụ án Đồng Tâm đang tiêu tốn hàng triệu chữ của các quan toà và viện kiểm sát. - Nếu các quan toà chiều nay 14/9/2020 tuyên án nghe được câu hỏi “NẾU BỐ BẠN LÀ CỤ KÌNH?” - Nếu các kiểm sát viên kết tội nghe được câu hỏi “NẾU BỐ BẠN LÀ CỤ KÌNH?” - Nếu những người quyết định đưa hàng ngàn cảnh sát đến Đồng Tâm lúc 2-3 giờ sáng ngày 09/1/2020 nghe được câu hỏi “NẾU BỐ BẠN LÀ CỤ KÌNH?” - Nếu tất cả chúng ta nghe được câu hỏi “NẾU BỐ BẠN LÀ CỤ KÌNH?” Xin mời đọc câu hỏi của Luật sư Ngô Anh Tuấn dưới đây. Nếu bố bạn là cụ Kình? Bạn có muốn được biết tại sao bố mình bị người khác bắn chết trong phòng ngủ của chính căn nhà riêng của mình rồi được gán cho một tội danh giết người mà không cần phải thông qua xét xử? Trong phiên toà, không dưới 5 lần tôi đề nghị phải là rõ hành vi và nguyên nhân dẫn tới việc người ta phải bắn chết cụ Kình, một ông già hơn 80 tuổi tay phải chống gậy. Tuy nhiên, mỗi lần nhắc tới nội dung này, tôi đều bị vị Chủ tọa nhắc nhở là luật sư không được đề cập tới nội dung này vì nó không liên quan tới vụ án. Tôi không đồng ý vì rõ ràng trong trang 49 cáo trạng rành rành là cụ Kình đã phạm tội giết người theo Khoản 1, Điều 123 Bộ luật hình sự, vậy tại sao không được xem xét trong vụ án này? Không xem xét trong vụ án này thì sẽ xem xét trong vụ án nào khi mà đơn thư tố giác của bà Dư Thị Thành, vợ cụ Kình không nhận được bất kỳ câu phản hồi nào nhưng lại được cáo trạng nêu rõ là đơn này là không có cơ sở xem xét? Dẫu vậy, những nội dung tôi đề cập trong cả phần hỏi, phần tranh luận, đối đáp đều được gạt sang một bên... Nếu cụ Kình là cường hào ác bá thời hiện đại, liệu sau mấy chục năm làm quan chức địa phương, cụ có phải ở trong một căn nhà trên mức xập xệ một chút với tài sản trong nhà hầu như không có gì đáng giá? Là cường hào ác bá, liệu rằng người dân nơi đây có kính trọng và yêu thương như vậy không? Báo chí mà bạn được đọc về hình ảnh xấu xa của cụ chắc đủ rồi, bạn cứ thử tự mình về Đồng Tâm để có cái nhìn khách quan hơn. Gặp bất kỳ ai bạn cũng có thể nghe họ kể về cụ với đầy sự kính trọng, tự hào và thương cảm. Bạn chỉ được nghe điều bạn đọc trên báo chí khi bạn vào UBND xã để gặp lãnh đạo hoặc tới nhà các quan chức mà đã bị cụ tố cáo cho đi tù mà thôi... Ai chết cũng phải có lý do và hơn ai hết, người thân của người chết càng có lý do để được biết cái lý do ấy. Vậy tại sao, trong cùng một thời điểm, cùng một vụ án, người này chết thì được biết lý do còn người kia thì không, có sự phân biệt đối xử nào không? Hỏi thật, nếu bố bạn là cụ Kình, bạn sẽ hành xử ra sao trong tình huống này?    
......

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cục Gạch Thứ Hai

tuongnangtien’s blog – RFA Trong chế độ toàn trị, một tổng biên tập chỉ cần không chống chế độ, không nói ngược với đường lối của Đảng cầm quyền, biết luồn lách, biết dùng tờ báo của mình để nịnh bợ, dọa nạt và khống chế, biết té nước theo mưa, biết gió chiều nào che chiều ấy, giả vờ chống tham nhũng thì anh ta kiếm bẫm hơn bất cứ nhà buôn nào, có thế lực như một “ông vua không ngai.” – Lê Phú Khải Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.”   “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải,  theo nhận xét của của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).” Tôi vốn không “sính” chuyện thơ văn, cũng không sinh cùng thời (và sống cùng nơi) với hai vị nghệ sỹ nói trên nên chả dám vội vã đồng tình với cái nhìn hơi khắt khe thượng dẫn. Là một thường dân, tôi chỉ nghĩ giản dị rằng việc “xếp hàng cả hai cửa” là một cách ứng xử bình thường – nếu chưa muốn nói là khôn ngoan – của bất cứ ai. Gặp thời thế, thế thời phải thế! Mà cái thế nước hiện nay, theo như nguyên văn cách nói của G.S Tương Lai, lại “chông chênh” lắm! Cỡ Tổng Bí Thư trong một xứ sở đảng trị mà vẫn phải bám liền cái hai ghế (cho nó chắc ăn) thì nói chi tới nhà văn với nhà thơ, đám “người ăn kẻ ở trong nhà” của Đảng. Ngay đến qúi vị đại biểu quốc hội cũng thế, cũng vẫn phải chạy cái quốc tịch thứ hai mà! Nghĩ cho cùng thì chả có ai đáng trách. Sống trong hoàn cảnh xã hội bấp bênh thì trừ đám dân đen (không tóc) mới đành chịu trận, chứ giới quan chức có quyền hành và tiền bạc thì ai cũng phải lo sao cho bản thân và gia đình được an ổn mới thôi. Thảng hoặc, mới có trường hợp quá lố – đáng bị phàn nàn – theo như ghi nhận của hoạ sỹ Đỗ Duy Ngọc: “Một anh từng là tổng biên tập tờ báo lớn, sau khi thu vén được hàng triệu đô la bèn đưa hết vợ con qua Mỹ, sắm nhà to, xe đẹp còn anh thì qua lại hai nước, lâu lâu viết bài biểu diễn lòng yêu nước thương dân, trăn trở với tiền đồ tổ quốc, khóc than cho dân nghèo, kinh tế chậm lớn, đảng lao đao…” Thế Nguyễn Công Khế đã “biểu diễn lòng yêu nước” ra sao mà bị than phiền như vậy? Ngày 19 tháng 11 năm 2014, trong một cuộc phỏng vấn do Mặc Lâm (RFA) thực hiện, nhân vật này chê trách lãnh đạo những tờ báo hiện nay “sợ bị ‘mất ghế’ cho nên không dám dũng cảm để nói lên sự thật” mà “chỉ sa đà vào những chuyện vặt vãnh.” Trong suốt hai mươi năm làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên chả hiểu có bao giờ ông Khế đủ “dũng cảm” để nói lên cái sự thật trần trụi (hèn với giặc, ác với dân)  của chế độ đảng trị (và toàn trị) hiện hành không? Có bao giờ ông “dám” nêu lên vấn đề đa nguyên, và phân quyền như là những phương thức khả thi để đưa đất nước ra khỏi cái vũng bùn nhầy nhụa hiện tại chưa? An toàn hơn là những vấn đề liên quan đến thảm họa môi sinh, bất công xã hội, và nạn cướp đất vẫn diễn ra hằng ngày (ở khắp mọi nơi) ông cũng lặng thinh thôi. Ông chỉ sôi nổi trong những cuộc thi hoa hậu, hay những trận túc cầu giữa lúc cả nạn ngoại xâm lẫn nội xâm đang đe dọa sự tồn vong của đất nước thì trách chi thiên hạ “sa đà vào những chuyện vặt vãnh” ? Ngày 27 tháng 10 năm 2019, sau thông tin 39 người Việt bị chết ngạt trong một chiếc xe vận tải ở anh, ông Nguyễn Công Khế liền bàn về “con đường thoát nghèo” và đòi hỏi “mọi thứ phải là trên cơ sở của Nhà nước pháp quyền”! Ông cũng đặt vấn đề: “Một xã hội mà cán bộ không sống bằng đồng lương, thì phải sống bằng đồng ‘lậu’ thôi. Rất nhiều cán bộ hiện nay rất sợ câu hỏi này: Sao đồng lương anh như thế, mà anh có nhà như thế này, xe như thế kia, con anh đi du học.” Có lẽ đó là những câu hỏi mà Nguyễn Công Khế nên đặt ra cho chính mình, về khối tài sản của ông ở trong cũng như ngoài nước, về chuyến xuất ngoại êm ru của cả gia đình mình trong khi thiên hạ thì phải đi chui mà tiền mất mạng vong. Trong trường hợp ông Nguyễn Công Khế không cảm thấy thoải mái lắm trong việc tự vấn thì cũng chả sao, nỏ phải lăn tăn chi cả. Cái thời bao cấp đã qua. Đảng và Nhà Nước “đã dũng cảm và quyết tâm” đổi mới. Xứ sở đã thoát cảnh xếp hàng, đặt hai cục gạch, để mua nhu mua yếu phẩm từ lâu rồi. Bây giờ thì có thể mua nhà ở tận nước ngoài luôn: “Trên con đường dài dẫn ra biển Huntington Beach, Quận Cam, có những khu nhà rất đẹp mà chủ hầu hết là người Việt. Họ là những người rất trẻ, hoặc đó là những gia đình bình thường nhưng sống khép kín. Bạn tôi, một người đã sống ở nơi này, gần bằng thời gian của thế hệ người Việt đầu tiên đặt chân đến Mỹ sau tháng 4/1975, nói rằng đó là những khu định cư mới của ‘Việt cộng’. Những ngôi nhà đó được mua rất nhanh trong khoảng vài năm gần đây – mỗi căn từ 450.000 cho đến hơn 1 triệu USD, cho thấy có một nguồn ngoại tệ khổng lồ được chuyển ra khỏi nước Việt Nam, để xây dựng một ước mơ thầm kín và khác biệt bên ngoài tổ quốc của mình.” (Tuấn Khanh. “Người Việt cố Giàu Lên Để Làm Gì?” RFA 2015 -10 – 02). Tôi không biết “ước mơ thầm kín” của Nguyễn Công Khế ra sao (nếu có) chỉ cầu mong ông nên sống “khép kín” như bao người khác thôi, đừng láu táu hay bao biện quá. Loại người đứng chàng hãng – chân trong, chân ngoài – trên hai cục gạch như ông mà thỉnh thoảng vẫn học đòi (“phù thế giáo một vài câu thanh  nghị”) để tỏ lòng “yêu nước thương dân” thì e có hơi lố bịch, nếu chưa muốn nói là trơ tráo!    
......

Vì sao nợ công của chính quyền CS mãi là ẩn số ?

Đỗ Ngà| Nước Nhật mang nợ công lớn nhất thế giới, tính đến quý 1 năm 2020 thì con số đã lên đến 371% GDP. Thế nhưng có một điều rất kỳ lạ là các tổ chức tài chính lớn trên thế giới không ai cho rằng, Nhật có nguy cơ vỡ nợ cả, vì sao? Thực ra, nợ công của Nhật Bản được phân làm 2 phần, một là khoản nợ trong nước được chi trả bằng nội tệ, còn một là những khoản nợ nước ngoài được chi trả bằng ngoại tệ. Với Nhật Bản, khoản nợ nước ngoài chỉ chiếm 80% GDP, khoản nợ này là trong tầm tay của chính phủ Nhật. Còn lại 291% GDP là khoản nợ trong nước nên chính phủ Nhật có nhiều dư địa để xử lý. Nợ công nước Mỹ hiện nay khoảng 26.729 tỷ USD chiếm khoảng 120% GDP, trong đó khoảng 31% là nợ nước ngoài, trương đương 8.295 tỷ đô la. Thực ra đầu năm 2020 nợ công của Mỹ chỉ có tầm 101% GDP thôi, vì dich Covid – 19 buộc chính phủ bung tiền cứu trợ nên nợ công mới tăng đột biến như vậy. Nhưng cho dù có tăng thêm khoản nợ 20% GDP trong vòng 8 tháng thì nước Mỹ vẫn quá an toàn so với Nhật Bản. Vả lại, dù cho nợ công của Mỹ có tăng lên đến 400% GDP thì họ vẫn còn an toàn hơn Nhật Bản, vì sao? Vì cho dù đó là khoản nợ trong nước hay ngoài nước thì Mỹ vẫn chỉ dùng đồng nội tệ của họ để chi trả. Mà như đã nói, nợ bằng đồng nội tệ bao giờ cũng dễ thu xếp hơn là nợ bằng đồng tiền của nước khác. Nước Tàu hiện nay có nợ công chiếm khoảng 317% GDP, cao kỷ lục. Trong đó nợ nước ngoài chỉ chiếm 14,3% GDP, rất thấp. Mà như đã nói, nếu khoản nợ bằng nội tệ dù có tỷ lệ rất cao thì chính phủ vẫn có đủ dư địa để xử lý, với khoản nợ 302,7% GDP bằng đồng Yuan Tàu chính quyền Tàu Cộng vẫn không lo ngại. Nếu quả thực Tàu chỉ nợ nước ngoài tổng cộng chỉ 14,3% GDP quá an toàn, khoản nợ này rất bé. Thực chất khoản nợ nhỏ nhoi đó chỉ là phần nổi của tảng băng, còn phần chìm của nó thì không ai biết được. Thực ra Nhật Bản và Mỹ là nền kinh tế tự do, nhà nước không nhảy vào tranh ăn với doanh nghiệp tư nhân nên họ không nuôi một đám con cưng “doanh nghiệp nhà nước”. Vì vậy, khoản nợ nước ngoài của chính phủ Mỹ và Nhật trong đó không hề có những khoản nợ do chính phủ bảo lãnh. Nhưng Trung Cộng thì lại khác, những công ty quốc doanh vì không đủ uy tín để tự vay nước ngoài nên thường réo bố mẹ (tức chính phủ) đứng ra bảo lãnh cho chúng. Đó là tính đặc thù của nền kinh tế lai căng của Tàu mà các nước tự do không có. Thực chất, khoản vay của doanh nghiệp nhà nước được chính phủ bảo lãnh ấy là doanh nghiệp tự trả chứ không phải nhà nước. Thế nhưng nếu doanh nghiệp không đủ khả năng trả nợ thì sao? Thì lúc ấy chính phủ phải trả. Mà bất kỳ khoản chi trả nào của chính phủ, thì cuối cùng cũng đổ lên đầu dân dưới dạng thuế. Như vậy qua đây chúng ta thấy, khi nào doanh nghiệp quốc doanh mất khả năng trả nợ thì khi đó khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp này mới được tính vào nợ công chứ không phải khoản vay nào cũng được tính vào đấy được. Được biết, tính đến năm 2007 chính phủ Trung Cộng đã bảo lãnh cho đám doanh nghiệp quốc doanh của họ vay nước ngoài một lượng bằng 93% GDP, và đến năm 2018 con số đã lên đến 153% GDP, rất cao. Như vậy câu hỏi đặt ra là, khoản nợ 153% GDP của doanh nghiệp quốc doanh Tàu đã vay ấy, thì bao nhiêu phần trăm trong đó là doanh nghiệp không có khả năng trả và buộc chính phủ phải trả thay?! Rất khó xác định tỷ lệ này, vì một quốc gia CS như Tàu Cộng không bao giờ họ thống kê những con số bất lợi cho chính quyền. Chỉ biết rằng, nền kinh tế càng khủng hoảng thì tỷ lệ doanh nghiệp mất khả năng trả nợ càng cao, và trong đó doanh nghiệp quốc doanh không phải là ngoại lệ. Như vậy, kinh tế càng khủng hoảng thì khoảng nợ nước ngoài "thật sự" mà chính phủ Trung Cộng phải trả ngày càng phình ra, chính điều này mới làm cho chính quyền Trung Cộng lo ngại. Nó là một quả “bom nổ chậm”. Việt Nam là bản sao của Trung Cộng, và theo chính quyền CS Việt Nam thông báo thì nợ công Việt Nam năm 2016 là 63,7% GDP và giảm dần đến năm 2019 chỉ còn 56,1% GDP. Thế nhưng năm 2016 trong cuộc họp Quốc hội, ông Trương Trọng Nghĩa chỉ ra rằng, nợ công của Việt Nam nếu cộng thêm các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước do chính phủ bảo lãnh thì phải lên đến 210% GDP, tức tương đương với 431 tỷ đô la vào thời điểm đó. Nghĩa là khoản nợ của doanh nghiệp do chính phủ bảo lãnh khi đó là 143,6% GDP, con số rất cao. Một quả bom nổ chậm đang nằm chờ. Như đã nói, khi nào các khoản nợ của doanh nghiệp quốc doanh do chính phủ bảo lãnh mà doanh nghiệp không trả nổi, thì mới được gọi là nợ công. Như vậy, việc ông Trương Trọng nghĩa tính hết khoản vay 143% GDP vào nợ công là không đúng, và chính quyền gạt hoàn toàn các khoản vay này ra khỏi con số nợ công cũng sai nốt. Thực chất, chỉ có hạch toán cho rõ có bao nhiêu phần trăm trong 143% GDP mà các doanh nghiệp quốc doanh vay nước ngoài kia là nợ xấu? Thì khi đó người ta mới cộng con số này vào nợ công được. Thế nhưng rất tiếc, chính quyền CS Hà Nội cũng giống như đàn anh của nó ở Phương Bắc không bao giờ thông báo tình hình sức khỏe của các “quả bom nổ chậm” này. Hiện nay dịch Covid-19 kéo dài, doanh nghiệp điêu đứng và trong đó có mấy ông quốc doanh, thì tất nợ công thật phải phình to từng ngày, điều này làm chính phủ Nguyễn Xuân Phúc hiểu hơn ai hết. Theo Ngân Hàng Nhà Nước thông báo thì dự trữ ngoại tệ hiện nay là 92 tỷ đô la. Trong 8 tháng đầu năm 2020, Ngân hàng Nhà nước mua vào đến 20 tỷ đô. Như vậy ước tính trong 6 tháng thì họ mua khoảng 15 tỷ đô la, con số này vượt rất xa ngưỡng 2% GDP mà Mỹ đặt ra để quy kết Việt Nam “thao túng tiền tệ”. Mua đô ào ạt không ngại bị Mỹ trừng phạt thì điều đó chứng tỏ nhu cầu trả nợ nước ngoài đang là áp lực rất lớn với chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Khoản ngoại tệ mua vào lớn như vậy chắc chắn chính quyền CS sẽ dùng để bù vào khoản nợ bảo lãnh mà doanh nghiệp nhà nước mất khả năng chi trả. Qua cách giải quyết vấn đề như vậy, rõ ràng ta thấy chính quyền CS Việt Nam đang cố ghìm quả bom nổ chậm nằm im. Nếu không có Vaccine, nền kinh tế Việt Nam sẽ vô cùng khốn đốn, vì vậy nên chính quyền CS mới vội vã đặt mua Vaccine Nga để ngăn chặn Covid-19 sớm nhất có thể. Nỗ lực là tốt, nhưng khủng hoảng lâu thì mọi nỗ lực đều dẫn tới kiệt sức và khi đó quả bom nổ chậm có dịp được kích nổ. Trong khi đó các nước dân chủ cũng gặp khủng hoảng như vậy, nhưng nợ nước ngoài của họ không tăng vì họ không phải gánh trách nhiệm cho các ông doanh nghiệp nhà nước, từ đó nếu hết dịch nền kinh tế các nước dân chủ sẽ phục hồi nhanh hơn. Đấy là sự khác nhau rất rõ giữa nền kinh tế tự do và nền kinh tế lai căng kiểu CS Tàu. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://www.statista.com/…/public-debt-of-the-united-state…/ https://ticdata.treasury.gov/Publish/mfh.txt https://enternews.vn/bom-no-trung-quoc-sap-phat-no-174955.h… https://www.thesaigontimes.vn/…/cac-ngan-hang-trung-quoc-do… https://thoimoi.vn/no-cong-cua-viet-nam-trong-5-nam-qua-209… https://baodatviet.vn/…/no-cong-viet-nam-co-the-dat-dinh-v…/ http://tapchitaichinh.vn/…/du-tru-ngoai-hoi-dat-92-ty-usd-3…  
......

Câu chuyện hội nhập

Đỗ Ngà| Một doanh nhân đi công tác ở nước ngoài, anh ta mua một đôi giày Nike rất thời trang và cũng rất chất lượng có giá 200 Euro tại Châu Âu, về nhà xem lại bên trong có ghi “made in Vietnam”. Nike là là một công ty của Mỹ, nhưng không bao giờ Nike có dòng chữ “made in USA", vì sao? Vì thực chất công sản xuất cần cơ bắp nhiều chất xám ít thì gần như không một công ty đa quốc gia nào đặt xưởng sản xuất tại những đất nước  giàu có cả. Thực ra để có được đôi Nike vừa chất lượng vừa thời trang thì không phải chỉ sản xuất là đủ mà nó có cả quá trình thai nghén lâu dài. Với một công ty đa quốc gia có doanh thu hàng năm lên đến 28 tỷ đô thì không thể có chuyện chỉ mua vật liệu về sản xuất như nhưng anh thợ giày là xong, mà nó phải đi từng bước mà mỗi bước trong đó đòi hỏi nguồn nhân lực lớn và và chất xám đạt yêu cầu. Để đôi giày Nike đến được tay người tiêu dùng thì nó phải trải qua nhiều công đoạn gồm: 1. Nghiên cứu và Phát triển (R&D); 2. Thiết kế; 3. Mua sắm nguyên liệu; 4. Lắp ráp và sản xuất; 5. Vận chuyển; 6. Phân phối; 7. Marketing. Tất cả những công đoạn này kết nối lại, người ta gọi là chuỗi giá trị. Mà nếu những công đoạn này được thực hiện tại những quốc gia khác nhau thì người ta gọi nó là “chuỗi giá trị toàn cầu”. Theo quan điểm của ông Stan Shih nhà đồng sáng lập kiêm chủ tịch danh dự hãng máy tính Acer thì mỗi công đoạn của chuỗi cung ứng này làm ra giá trị gia tăng khác nhau. Bắt đầu là công đoạn Nghiên Cứu và Phát triển sanh lợi rất cao, sau đó những công đoạn tiếp theo sinh lợi ít dần, đến công đoạn lắp ráp và sản xuất là sinh lợi ít nhất. Rồi sau đó đến công đoạn vận chuyển sinh lợi nhiều hơn và cuối cùng là Marketing sinh lợi rất cao. Ông ta đưa ra một đồ thị hình vòng cung lõm có hình dáng như y hệt cái miệng của khuôn mặt cười nên người ta gọi nó là “Lý thuyết đường cong nụ cười” (smiling curve theory). Ở đáy của đường cong ấy chính là công đoạn “Lắp ráp và sản xuất”, công đoạn dùng nhiều cơ bắp, ít chất xám nên phần giá trị gia tăng nó làm ra cũng thấp nhất. Ở các công ty đa quốc gia, những nước tiến bộ sẽ đảm nhiệm khâu: Nghiên cứu và Phát triển, thiết kế, mua sắm nguyên liệu, vận chuyển, phân phối, và marketing. Còn công đoạn sản xuất và lắp ráp quẳng qua các nước nghèo. Quay trở lại chuyện đôi giày Nike 200 EURO, thì Việt Nam chỉ kiếm được 2/200 EURO giá trị đôi giày mà thôi. Người ta ước tính rằng, công đoạn sản xuất và lắp ráp kiếm được chưa tơi 1% giá trị sản phẩm. Nó chính là đáy của chuỗi giá trị. Cho nên, một đất nước mà cứ mãi dậm chân tại chỗ công tác gia công lắp ráp thì chúng ta phải hiểu, đất nước đó không hề phát triển hơn so với mặt bằng chung của thế giới (chú ý là không phát triển so với mặt bằng chung thế giới chứ không phải là không phát triển hơn so với chính nó trước đó). Nike là hãng giày thể thao của Mỹ, nhưng có một điều lạ là giày Nike chưa bao giờ được sản xuất tại Mỹ. Vào giữa thập niên 60, giày Nike được sản xuất ở Nhật, nhưng sau vài năm người Nhật không làm công đoạn sản xuất cho Nike nữa vì thế Nike chuyển sang Hàn Quốc và Đài Loan. Rồi cũng chỉ sau chưa tới một thập kỷ, vị thế này được chuyển sang cho Malaysia, rồi Thái Lan và Indonessia, và tiếp đó là dừng chân ở Việt Nam. Như vậy qua đây chúng ta thấy gì? Công đoạn thu được giá trị thấp nhất trong trong chuỗi cung ứng cứ dịch chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, điều này cho thấy những quốc gia này phát triển lên bậc cao hơn nên họ đã chối bỏ công đoạn gia công lắp ráp có giá trị gia tăng rẻ mạt. Còn Việt Nam thì đã gần 3 thập niên, chỉ dậm chân tại chỗ như vậy thì chúng ta nghĩ sao? Từ đó chúng ta thấy chính sách phát triển nguồn nhân lực của chính quyền CS có vấn đề. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước, và qua nhiều thập kỷ rồi nhưng ngành công nghiệp nghiệp này cũng chỉ dẫm chân tại chỗ ở khâu lắp ráp-khâu làm ra giá trị thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Và thê thảm đến mức, một số nhà máy lắp ráp của các thương hiệu lớn sau đó cũng chuyển sang nhập xe nguyên chiếc thay vì lắp ráp tại Việt Nam. Và mới đây, thì một số nhà máy bắt đầu lắp ráp trở lại. Nghĩa là nội chuyện đảm nhận khâu đơn giản nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu mà Việt Nam vẫn trầy trật lúc làm được lúc thì không thì điều đó đủ biết chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam như thế nào?! Ngành công nghiệp phụ trợ rất quan trọng, nếu các doanh nghiệp trong nước xây dựng được thì chắc chắn, chính họ sẽ có cơ hội tham gia vào công đoạn Nghiên Cứu và Phát Triển, Thiết kế và mua sắm nguyên liệu để nâng cao chất lượng nền kinh tế đất nước. Thế nhưng bao năm nay, nhiều nhà sản xuất ô tô nước ngoài vẫn không nhận được những nhà cung cấp phụ kiện thuần Việt đạt tiêu chuẩn của họ. Để tình trạng này diễn ra thì rõ ràng, đó là lỗi của ĐCS chứ không ai khác. Thu hút đầu tư nước ngoài vào là điều kiện cần nhưng chưa đủ, điều kiện đủ là Việt Nam có tận dụng nó để xây nhựng nền công nghiệp phụ trợ nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu và chuỗi giá trị toàn cầu và tiến dần đến nền kinh tế tri thức hay không? Đã nhiều thập niên sau cái gọi là “đổi mới” thì chúng ta thấy, điều kiện đủ là một thứ quá tầm với ĐCS Việt Nam. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://baotintuc.vn/…/doanh-nghiep-viet-van-kho-chen-chan-… https://vietnamnet.vn/…/o-to-chuyen-tu-nhap-khau-sang-lap-r… https://vnexpress.net/vi-sao-nganh-cong-nghiep-oto-viet-nam…  
......

Nguyễn Phú Trọng – Đem đất nước lên giá treo cổ

Phạm Minh Vũ| Sáng qua 12/9, tại Trụ sở TW Đảng, Bộ Chính trị đã làm việc với Thường vụ Quân ủy Trung ương, trong kết luận buổi làm việc ông trọng có đoạn nói rằng: Tuy nhiên, cần nhìn thẳng vào sự thật, những việc làm chưa tốt, nhất là trong quản lý sử dụng đất đai, vừa qua một số vụ việc tiêu cực đã xảy ra, phải làm sao quản lý cho tốt. không để xảy ra tiêu cực, một số hiện tượng đáng tiếc như thời gian vừa qua… Ông ta đề nghị công an phải đi đầu, quân đội đi đầu và có biện pháp xử lý nghiêm, xử lý mạnh tay hơn nữa đối với những ai chống lại đường lối của đảng, dù trong nội bộ hay bên ngoài [*]. Những lời giáo huấn của ông trọng với đàn em đã làm bật lên một sự thật mà đảng muốn giấu đó là chính trong nội đảng, nhất là thượng tầng chính trị đang có sự chia rẽ chưa từng thấy. Sự chia rẽ sâu sắc này qua ánh mắt cú vọ, răng thì nghiến ken két, miệng thì bung ra những lời mất kiểm soát của giáo sư trường đảng gần như bất lực. Dùng vũ lực để kiểm soát ý chí người khác thì thời kỳ tan rã của một chế độ đang hiện hữu, chính là một giáo sư trường đảng, hơn ai hết, ông trọng hiểu nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Sô-viết chính là sự chia rẽ của nội bộ đảng. Vì vậy, trong khả năng của mình, bảo vệ sự tồn vong của đảng là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, đây là sự chỉ đạo về vụ Đồng Tâm, có thể ngày mai, tòa tuyên án cũng theo sự chỉ đạo này ‘’mạnh tay, nghiêm trị’. Những lời lẻ ngạo mạn, khinh dân, xem thường kỷ cương phép nước, chà đạp lên Hiến pháp là cho phép công dân các quyền tự do, vậy mà, dưới góc nhìn của đảng cộng sản, ông trọng không cho phép ai đi ngược lại đường lối của đảng. Không những ông trọng thể hiện tính chất côn đồ trong não trạng của mình để phát ra những lời lẽ thiếu kiểm soát đó, nếu là ở các nước Dân chủ pháp trị, ông trọng sẽ bị bỏ tù, mà còn không hề che giấu sự ngông cuồng tự cho mình là đứng trên nhân dân, bắt nhân dân phục dịch, ông ta ví đảng là ông ta, ông ta là đảng, vì vậy chống đảng chính là chống ông ta. Tôi đang hỏi, một kẻ vô pháp vô thiên, coi trời bằng vung như ông ta, lại lãnh đạo một đất nước vẫn còn tồn tại trong thế giới văn mình này ư? Điều nguy hiểm nhất trong những phát ngôn xem ra ít hại ấy mà lại là tai hại nhất, đau đớn nhất cho dân tộc VN, đó là ông ta kéo kẻ thủ ở ‘’bên ngoài’’ vào ‘’bên trong’’, xem Nhân dân VN, là đảng viên chống lại ý đảng hoặc người ngoài đảng là kẻ thù chứ không phải Bắc Kinh. Nó nguy hiểm đến độ cần phải nghiêm trị, mà hình ảnh rõ nét nhất trong cách ‘’nghiêm trị’’ của ông ta nói đó chính là Cụ Kình- Đồng Tâm. Ông ta xem nhân dân như là kẻ thù, xem đồng bào như bia tập bắn, nổ súng sát hại Dân mà chẳng sợ chi, mở phiên đấu tố trên truyền hình để cho nhân dân xỉ vả cụ Kình và gia đình, mặc dù Cụ và gia đình rất tin đảng, không khác gì ông hồ năm xưa đã làm với Bà Năm. Tôi chưa bao giờ thấy trong cuộc đời ông ta nhắc tới 2 chữ kẻ thù là ‘’trung cộng’’, tôi chưa bao giờ thấy ông ta chỉ đạo quân đội, công an phải cảnh giác với các âm mưu xâm lược trên các mặt trận từ văn hóa, kinh tế, quân sự mà Bắc Kinh đang làm trên thế giới, nhưng, ông ta lại kêu gọi quân đội công an cảnh giác với Nhân dân VN, đó là cách làm điển hình của những kẻ tay sai, phản quốc. Công an là lực lượng bảo vệ nhân dân, quân đội là lực lượng bảo vệ tổ quốc, bản chất là vậy, nhưng ông ta luôn đánh đồng bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ chính là bảo vệ tổ quốc. Đây là một sự ngụy biện hết sức nguy hại. Khi đất nước đang thời kỳ khó khăn, nhân dân lầm than, đảng viên bất mãn, kẻ thù Bắc Kinh đang xâm chiếm chủ quyền Hoàng - Trường Sa, có thể nói vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc, thế mà, nguyễn phú trọng lại lên truyền hình đe dọa nhân dân đừng có thái độ chống đảng, đem cả súng đạn là quân đội, công an ra dọa dân. Một kẻ lãnh đạo cực kỳ bệnh hoạn. Trong khi giặc ở bên ngoài bờ cõi đâm chìm tàu ngư dân VN thì ông ta ngồi đây đi dọa dân, thật vô phúc cho dân tộc VN khi bị chèn ép, cai trị áp bức bởi bọn tay sai này. Khi Tổng thống Taiwan, Thủ tướng Ân Độ, Thủ tướng Nhật Bản lãnh đạo làm cho nhân dân họ ấm no, thái bình, họ bắt tay với Mỹ để chống lại sự bành trường Bắc Kinh, thì ở đây, ông ta huênh hoang dọa dân, lại cúi đầu trước Bắc Kinh, hèn hạ đến cái Tên cũng không dám gọi. Tôi tự hỏi, với sự ngạo mạn, ngông cuồng như ông ta, trong tay có mọi quyền hành như thế, hôm nay là Đồng Tâm, Cụ Kình, ngày mai sẽ đến lượt ai lên giá treo cổ? Tôi cũng không biết nữa…! —————————— * https://www.facebook.com/100025474742676/posts/697477157778103/?extid=vmeP4dOLfrvUnEbS&d=n  
......

Các vi phạm tố tụng hình sự nghiêm trọng phiên tòa Đồng Tâm

Hình minh họa gốc: Internet Nguyen Tien Trung|  Những điểm vi phạm luật #Tố_tụng_hình_sự nghiêm trọng trong vụ án #Đồng_Tâm: I. ĐỊNH TỘI TỪ TRƯỚC PHIÊN TÒA Thứ nhất, mở đầu phiên tòa, nhà cầm quyền cho trình chiếu các video clip cắt ghép để buộc tội người dân Đồng Tâm. Tức là bản thân quan tòa đã có sẵn định kiến trong đầu là dân Đồng Tâm có tội. Không cần tranh biện trước tòa giữa viện kiểm sát và luật sư để làm sáng tỏ vụ án nữa. Đây là một vụ án bỏ túi. II. KHÔNG GIAO BẢN COPY PHIM GỐC CẢNH TẤN CÔNG ĐỒNG TÂM Thứ hai, điều khôi hài là khi các #luật_sư yêu cầu đưa clip gốc ra, vì rõ ràng là khi #công_an tấn công vào Đồng Tâm đã có phân công người đi theo quay phim lại đàng hoàng. Tòa án #xã_hội_chủ_nghĩa đã từ chối trình chiếu đoạn phim gốc, và cũng từ chối giao cho các luật sư copy của đoạn phim gốc đó. Chắc chắn trong đoạn phim gốc do công an quay sẽ thấy rõ dân Đồng Tâm không hề chống người thi hành công vụ và cũng chẳng giết người. Do đó nhà cầm quyền mới từ chối giao đoạn phim gốc ra. III. KHÔNG THỰC NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG Thứ ba, trước rất nhiều tình tiết vô lý trong kịch bản của công an, ví dụ như cả ba chiến sĩ cùng rớt xuống một cái hố nhỏ, dân Đồng Tâm châm xăng vào chậu rồi đổ xuống hố nhiều lần mà không hề hấn gì (do xăng là chất cực kì dễ cháy dễ bay hơi nên dân Đồng Tâm sẽ bị cháy trước, cũng như giữa làn mưa đạn thì họ không thể có đủ thời gian để ung dung đổ xăng nhiều lần), và không đủ xăng, oxy và cả thời gian để cả ba chiến sỹ cháy ra tro trong một cái hố nhỏ như thế, các luật sư đã đề nghị phải thực nghiệm lại hiện trường để kiểm tra các chi tiết vô lý, trái với khoa học này. Điều này không phải chỉ để minh oan cho dân Đồng Tâm nhưng cũng là để làm sáng tỏ cái chết mờ ám của ba chiến sĩ. Tòa án, viện kiểm sát, luật sư #Nguyễn_Hồng_Bách đại diện cho gia đình ba cảnh sát chết, thậm chí cả báo chí xã hội chủ nghĩa cũng nhào vô, cho rằng thực nghiệm lại hiện trường là quá "dã man". Lý lẽ rất nực cười vì thực nghiệm để đảm bảo tính khoa học, phù hợp lời khai, tình tiết với dấu vết tại hiện trường. Một vụ trọng án đã có 4 người chết và 2 người có thể bị tử hình lại được xét xử cực kì sơ sài là tại sao? Chỉ có thể trả lời là thực nghiệm hiện trường sẽ khiến lộ ra sự thật: dân Đồng Tâm không hề chống người thi hành công vụ và cũng chẳng giết người. Lưu ý với luật sư Nguyễn Hồng Bách là việc giao cho các luật sư copy của bản phim gốc do công an quay cảnh tấn công vào Đồng Tâm không hề có gì là "dã man", tại sao ông cũng không dám ủng hộ? IV. CÓ DẤU HIỆU GIẾT DÂN VÀ TRA TẤN DÂN Thứ tư, các clip chiếu cảnh dân Đồng Tâm nhận tội đều thấy rõ mặt mũi người dân sưng húp, trầy xước. Chắc chắn họ đã bị đánh đập. Khi luật sư #Đặng_Đình_Mạnh hỏi 29 bị cáo là ai không bị tra tấn thì chỉ có 10 cánh tay ngập ngừng đưa lên, nghĩa là có ít nhất 19 người bị tra tấn trong thời gian bị giam giữ. Anh #Lê_Đình_Công thì nói rõ là bị điều tra viên #Phạm_Việt_Anh tra tấn "mười ngày như một". Cụ #Bùi_Viết_Hiểu và cô #Bùi_Thị_Nối đều khai rất rõ trước tòa là bị công an bắn thẳng vào ngực nhưng cả hai may mắn không chết. Tất cả những tình tiết giết dân và tra tấn dân này đều bị tòa lờ đi. Cụ Bùi Viết Hiểu cũng khai là thấy sát thủ bắn chết cụ #Lê_Đình_Kình từ phía trước. Điều này phù hợp với hình ảnh và clip quay lại xác cụ Kình sau đó khi xác cụ được trả về cho gia đình để mai táng. Cụ Kình bị bắn ở cự li gần vào ngực và vào đầu, cũng như bị súng lớn bắn văng đầu gối. Cụ #Dư_Thị_Thành là vợ của cụ Kình cũng xác nhận là khi cụ Thành bị cảnh sát lôi ra khỏi nhà thì cụ Kình vẫn còn sống và đã hoàn toàn bị cảnh sát khống chế một cách an toàn. V. KHÔNG CHO NHÂN CHỨNG VÀ NGƯỜI THÂN ĐẾN TÒA Thứ năm, cụ Dư Thị Thành là nhân chứng cực kì quan trọng như vậy nhưng thẩm phán lại không cho mời cụ Thành đến để làm chứng, đối chiếu lời khai. Chưa kể là thân nhân của các bị cáo là dân Đồng Tâm cũng là nhân chứng cũng không được tham gia phiên tòa mà bị xua đuổi ở bên ngoài. Điều này có nghĩa là các thẩm phán không muốn sự thật được sáng tỏ, không muốn phiên tòa bị người dân chứng kiến trực tiếp. VI. KHÔNG CHO LUẬT SƯ TIẾP XÚC THÂN CHỦ Thứ sáu, từ những điểm mờ ám đã nói ở trên thì không có gì khó hiểu khi tòa án không cho luật sư trao đổi với thân chủ trong thời gian diễn phiên tòa. Lại một lần nữa, điều này vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự. Mục đích nhằm vô hiệu hóa luật sư, không cho thông tin từ người dân Đồng Tâm đến được với luật sư và đến với người dân cả nước. VII. KHÔNG CÔNG KHAI "CÔNG VỤ" LÀ GÌ Thứ bảy, nhà cầm quyền cáo buộc dân Đồng Tâm "chống người thi hành công vụ" nhưng không hề dám đưa ra văn bản "công vụ" gì, viện lẽ đây là văn bản "tối mật". Trong cáo trạng thì đây là Kế hoạch số 419a/KH-PV01-PV02-MP do Công an #Hà_Nội lên phương án và Bộ Công an phê duyệt. Câu hỏi đặt ra là "công vụ" này "tối mật", dân không được biết thì làm sao có thể quy kết là "dân chống người thi hành công vụ"? Công an có bắc loa lúc nửa đêm đọc cho dân nghe bản Kế hoạch 419a này không? Chắc chắn là không. Và có gì đảm bảo Kế hoạch 419a này hợp hiến và hợp pháp? Việc này tạo ra một tiền lệ rất xấu là nhà cầm quyền có thể xua công an, cảnh sát giết dân rồi chỉ cần nói rằng dân “chống người thi hành công vụ”. Nếu ai hỏi “công vụ” gì thì chỉ cần nói “công vụ” này “tối mật”, không tiết lộ được. Như vậy thì bất kì ai cũng có thể bị giết vì một “công vụ” “tối mật”. Điều này vi phạm Hiến pháp do đảng #cộng_sản ban hành là tính mạng của công dân được pháp luật bảo hộ. VIII. KHÔNG TRANH BIỆN ĐẾN CÙNG TẠI TÒA Thứ tám, từ những điểm mờ ám, sai trái trên của tòa án, viện kiểm sát và công an mà thẩm phán đã phải sử dụng “tiểu xảo” rất kì quái. Đó là khi luật sư tiến hành bào chữa để vạch ra những điểm đó thì thẩm phán nói luật sư sẽ bào chữa sau, sau đó bất ngờ tuyên bố kết thúc phần tranh luận. Các luật sư đều ngỡ ngàng vì còn rất nhiều câu hỏi từ các luật sư chưa được trả lời. Một vụ án cực kỳ nghiêm trọng có tới bốn người chết và có hai người có thể bị tử hình, xét xử 29 người nhưng phiên tòa chỉ được tiến hành trong có bốn ngày, từ thứ hai đến thứ năm, chứng tỏ phiên tòa được xét xử rất sơ sài và vội vã, không hề hợp lý và chính đáng. TIẾP TỤC ĐẤU TRANH VÌ CÔNG LÝ Còn vô số vi phạm tố tụng hình sự nghiêm trọng khác của nhà cầm quyền trong phiên tòa Đồng Tâm nhưng tôi chỉ đưa ra đây tám điểm nghiêm trọng nhất theo quan điểm của tôi. Chắc chắn thời gian tới, các luật sư, các luật gia Việt Nam và quốc tế sẽ còn rất nhiều điều để phân tích về vụ án này, thậm chí có thể phải đưa sự việc lên Liên Hiệp Quốc. Tôi viết những dòng này không chỉ để đấu tranh cho người dân Đồng Tâm mà cho cả các chiến sĩ cảnh sát, công an, và cả quân đội. Nếu lực lượng vũ trang phải hi sinh thì đó phải là cái chết để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân, chứ không phải là một cái chết mờ ám trong một cuộc tấn công vào một làng quê Việt Nam. Tôi không chỉ muốn làm sáng tỏ cái chết của cụ #Lê_Đình_Kình và minh oan cho người dân Đồng Tâm, tôi cũng muốn làm minh bạch cái chết của ba chiến sĩ. Các anh không thể chết một cách mờ ám và cái chết của các anh bị nhà cầm quyền lợi dụng để lại đi gây ra những bản án, những cái chết oan sai khác. FB Nguyễn Tiến Trung      
......

Trò hòa đồng tổ quốc với chế độ của các chế độ độc tài

  Eduardo Galeano. Hoai Linh Ngoc Duong Những kẻ-không-là-ai-cả Những con rận mơ sẽ mua được một con chó để sở hữu, và những kẻ-không-là-ai-cả mơ sẽ thoát khỏi sự nghèo khổ: vào cái ngày kỳ diệu ấy, vận may sẽ bất ngờ đổ mưa xuống cuộc sống của họ — mưa như trút những thùng nước lớn. Nhưng vận may chẳng hề đổ mưa hôm qua, hôm nay, ngày mai, hay bao giờ cả. Thậm chí nó chẳng hề ban phát một cơn mưa phùn nhè nhẹ, bất kể những kẻ-không-là-ai-cả đã nỗ lực nhọc nhằn đến chừng nào để triệu thỉnh nó. Ngay cả khi họ cảm thấy bàn tay trái của họ nhột nhạt, hay họ tỉnh giấc vào buổi sáng vì cảm thấy bàn chân bên phải được ai đánh thức, hay họ thay những cái chổi để bắt đầu một năm mới. Những kẻ-không-là-ai-cả: không là con cháu của ai cả, không là sở hữu chủ của cái gì cả. Những kẻ-không-là-ai-cả: những kẻ không nhân thân, những kẻ không tiểu sử, chạy như những con thỏ, chết giữa dòng đời, bị bạc đãi bằng mọi cách: Họ không là gì cả, chỉ có thể là. Họ không nói ngôn ngữ nào cả, chỉ nói tiếng lóng. Họ không có tôn giáo nào cả, chỉ có sự mê tín. Họ không sáng tạo nghệ thuật, chỉ làm những đồ thủ công. Họ không có văn hoá, chỉ có tập quán. Họ không phải là những con người, chỉ là sức người. Họ không có mặt, chỉ có tay. Họ không có tên gọi, chỉ có những con số. Họ không xuất hiện trong sử ký của thế giới, chỉ được liệt kê trong bản tin hình sự trên những tờ báo địa phương. Những kẻ-không-là-ai-cả, họ còn rẻ hơn viên đạn giết chết họ. *** Tiếp theo là những đoản văn về tình trạng chính trị và xã hội của một đất nước dưới chế độ độc tài: Hệ thống / 1 Các nhà chức trách không thi hành chức trách. Các nhà chính trị phát ngôn nhưng không nói bất kỳ điều gì. Cử tri chỉ bỏ phiếu nhưng không chọn lựa. Giới truyền thông đưa tin bịa đặt. Các nhà trường dạy sự ngu dốt. Các quan toà trừng phạt những nạn nhân. Quân đội tuyên chiến với nhân dân của chính mình. Công an không chống tội ác vì chính họ quá bận bịu gây tội ác. Những sự phá sản thì được công hữu hoá, nhưng những lợi tức thì được tư hữu hoá. Tiền bạc thì tự do hơn nhân dân. Nhân dân làm đầy tớ cho mọi sự. Hệ thống / 2 Đây là thời của loài kỳ nhông: không ai dạy bảo chúng ta về lòng nhân đạo nhiều bằng những con thú ấy. Những kẻ chuyên che đậy thì được sùng bái, văn hoá của chiếc mặt nạ thì được tôn vinh. Người ta nói thứ ngôn ngữ hai mặt của những nghệ sĩ giả trang. Ngôn ngữ hai mặt, phán đoán hai mặt, đạo đức hai mặt: một thứ đạo đức cho lời nói, một thứ đạo đức cho hành động. Thứ đạo đức cho hành động thì được gọi là chủ nghĩa hiện thực. Quy luật của hiện thực là quy luật của quyền lực. Để cho hiện thực không có vẻ phi hiện thực, nhà cầm quyền bảo chúng ta rằng đạo đức phải là vô đạo đức. Hệ thống / 3 Nếu anh không lanh lẹ, anh sẽ chết. Anh bị bắt buộc phải làm một kẻ lừa đảo hay một kẻ bị lừa đảo, một kẻ láo khoét hay nạn nhân của sự láo khoét. Đây là thời của những ý nghĩ: "Việc gì tôi phải lưu tâm đến điều đó, tôi làm được gì cho điều đó, đừng dính vào, hãy tìm cơ hội tốt nhất." Đây là thời của những kẻ lường gạt: sản phẩm thì vô dụng, óc sáng tạo thì vô ích, lao động thì vô giá trị... Những tội lỗi Guồng máy ấy sách nhiễu những người trẻ tuổi; nó cầm tù, nó tra tấn, nó giết chóc. Họ là bằng chứng của sự quan trọng của nó. Nó vất họ ra ngoài: nó bán họ như bán thịt người, nó bán sức lao động của họ với giá rẻ mạt ra ngoại quốc. Guồng máy vô sinh thù ghét bất cứ thứ gì vươn lên và chuyển động. Nó chỉ có thể làm nhân lên những ngục tù và nghĩa địa. Nó chỉ có thể tạo ra những tù nhân và những xác chết, những tên tình báo và những viên công an, những kẻ ăn mày và những người lưu vong. Trẻ là một tội ác. Hiện thực khởi động mỗi ngày vào lúc rạng đông; lịch sử cũng vậy, nó tái sinh vào mỗi buổi sáng. Đó là lý do tại sao hiện thực và lịch sử bị cấm đoán. Những cái chuồng Mỗi tháng lại có thêm một nhà tù. Đó là cái mà các kinh tế gia gọi là Kế Hoạch Phát Triển. Thế còn những cái chuồng vô hình? Những bản tường trình chính thức nào hay những văn kiện đối kháng nào ghi nhận những tù nhân của sự sợ hãi? Sợ mất việc làm, sợ không kiếm được việc làm; sợ nói, sợ nghe, sợ đọc. Trong đất nước câm nín, một tia sáng từ ánh mắt có thể khiến người ta vào trại tập trung. Chế độ kiểm duyệt giành thắng lợi khi mỗi công dân răm rắp tự kiểm duyệt ngôn từ và hành động của mình. Nhà nước độc tài sử dụng những đồn lính, những đồn công an, những toa xe lửa cũ, những con tàu hoang phế để nhốt những người tù. Thế còn căn nhà của mỗi người? Chứ không phải mỗi căn nhà là một nơi giam giữ hay sao? Những điều ác Bảng liệt kê những vụ tra tấn, giết và thủ tiêu không thể kể hết những điều ác của một chế độ độc tài. Guồng máy huấn luyện cho bạn quen với thói ích kỷ và dối trá. Đoàn kết là một tội lỗi. Guồng máy bảo rằng : người ta sợ nói, sợ nhìn nhau. Không ai muốn gặp ai nữa. Khi có một người nào đó bắt gặp đôi mắt của bạn và không nhìn đi chỗ khác, bạn nghĩ: “Gã này sẽ bắt ta.” Thủ trưởng nói với nhân viên, cũng là bạn của hắn: “Tôi phải báo cáo bạn. Họ đòi những danh sách. Tôi phải giao cho họ một cái tên người. Tha lỗi cho tôi, nếu được.” Tại sao việc đánh thuốc độc để sát hại tâm hồn không được ghi vào biên niên ký của sự bạo động? Những kỹ thuật Một người bị tử hình có thể gây xôn xao dư luận thế giới, nhưng hàng ngàn người mất tích thì chỉ gây nên sự hoang mang. Gia đình và thân nhân phải trải qua những hiểm nguy để tìm kiếm vô vọng từ nhà giam này đến nhà giam khác, từ đồn lính này đến đồn lính khác, trong khi đó thì những tử thi bị rữa nát trong rừng và trong những bãi đổ rác. Kỹ thuật của sự thủ tiêu không tạo ra những thánh tử đạo và những tù nhân. Những xác người bị mặt đất nuốt chửng, còn chính quyền thì rửa tay sạch sẽ: không có tội ác nào để tường thuật, và không có gì để mất công giải thích. Mỗi người chết thì phải chịu chết nhiều lần, và cuối cùng chỉ để lại một đám sương mù của nỗi kinh hoàng và một sự hoang mang trong tâm hồn. Lưu Vong I Những chiếc thuyền ra đi chở đầy những người trẻ tuổi thoát khỏi ngục tù, sự chết và cái đói. Sống là nguy hiểm; trốn thoát là một tội lỗi; ăn là một phép lạ. Nhưng còn có bao nhiêu người lưu vong ngay trong đường biên giới của tổ quốc mình? Có bản thống kê nào đếm những người bị đuổi việc và bị bắt buộc phải câm nín? Sự hy vọng là tội ác lớn hơn những hành động khác, chứ không phải sao? Chế độ độc tài là một sự ô nhục biến thành tập quán, một guồng máy làm cho bạn điếc và câm, không còn biết nghe, không còn biết nói, và mù loà trước những gì bị cấm nhìn thấy. Cái chết đầu tiên vì sự tra tấn đã gây nên dư luận xôn xao trong cả nước. Cái chết thứ mười vì bị tra tấn chỉ được báo chí tường thuật sơ sài. Cái chết thứ năm mươi được xem là “bình thường”. Guồng máy dạy cho nhân dân chấp nhận sự kinh khủng cũng giống như cách người ta làm quen với độ lạnh của mùa đông. II Guồng máy dạy rằng bất cứ ai chống lại nó thì đều là kẻ thù của tổ quốc. Chống lại sự bất công là một tội ác đối với tổ quốc. Ta là tổ quốc, guồng máy nói. Trại tập trung này là tổ quốc: đống rác thối tha này, miền đất hoang phế này. Bất cứ ai tin rằng đất nước của mình là ngôi nhà của mọi người thì bị ném ra khỏi ngôi nhà đó. Qua đoản văn này, Eduardo Galeano lật tẩy một trò điêu trá của chế độ độc tài: nó luôn luôn tự đồng hoá chính nó với "tổ quốc". Bất cứ ai phê phán chế độ, hay chống lại những sự sai lầm và tội ác của chế độ, thì đều bị kết án là "chống lại tổ quốc"! Suốt mấy mươi năm qua, chế độ Cộng Sản ở Việt Nam luôn sử dụng trò điêu trá này và luôn ra sức tẩy não thế hệ trẻ và nhồi nhét vào đầu óc họ cái ý tưởng rằng "chế độ Cộng Sản" là "tổ quốc". Thế nhưng, chỉ cần giở bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei, 1848) ra xem "Phần II: Những người vô sản và những người cộng sản" (II. Proletarier und Kommunisten), thì ai cũng có thể thấy rằng Marx và Engels đã khẳng định: "bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị" (daß der erste Schritt in der Arbeiterrevolution die Erhebung des Proletariats zur herrschenden Klasse), và nhấn mạnh: "Công nhân không có tổ quốc" (Die Arbeiter haben kein Vaterland). Khi những kẻ thống trị của một chế độ lại chính là những kẻ "không có tổ quốc", thì cái trò đồng hoá chế độ với "tổ quốc" là một trò điêu trá lố bịch nhất dưới ánh mặt trời, và trò điêu trá này chỉ có thể đánh lừa được những con cừu đã bị tẩy não. Eduardo Galeano Hoài Linh Ngọc Dương biên dịch và phóng tác    
......

Con cờ nhưng biết làm chủ số phận

Đỗ Ngà| Hiện nay có 15 quốc gia cung cấp 90,1% lượng dầu mỏ cho Trung Cộng. Trong nhóm này có thể chia làm 3 nhóm gồm: nhóm thân Tàu, nhóm thân Mỹ; và nhóm trung dung. Nhóm thân Tàu cung cấp tổng cộng 20,2%, trong đó Nga cấp 15,3%, Iran cấp 3% và Venezuela cung cấp 1,9%. Nhóm thân Mỹ cung cấp 37% với Ả rập Saudi cấp 16,8%, Iraq cung cấp 9,9%, Kuwait cấp 4,5%, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất cấp 3,1%, và Anh quốc cấp 2,7%. Còn lại là các quốc gia trung dung không thuộc phe nào cả. Như vậy, nếu xảy ra đối đầu Mỹ - Trung, thì Mỹ hoàn toàn có thể tác động vào nguồn cung 37% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Cộng. Nền kinh tế Trung Cộng có 2 tử huyệt lớn: Thứ nhất là công nghệ phần cứng gần như Trung Cộng phải phụ thuộc vào Mỹ. Sự phát triển của thung lũng silicon đã vượt rất xa phần còn lại của thế giới; thứ nhì, đó là an ninh năng lượng. Tàu là nước nhập khẩu dầu mỏ, khai thác trong nước chỉ đủ khoảng 10% nhu cầu. Ngược lại, Mỹ là nước có trữ lượng dầu mỏ rất lớn nên vấn đề an ninh năng lượng được đảm bảo. Nếu tác động vào nguồn cung, Mỹ sẽ có thể cắt được 37% lượng dầu mỏ, nhưng nếu chặn eo biển Malacca thì lại có thể cắt đến 44,2% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Cộng. Đây là một mối nguy mà Tàu không thể không nghĩ đến. Dựa án “Một vành đai, một con đường” là một kế hoạch tạo sân chơi riêng do Tàu làm chủ. Thực tế nó là một cái bẫy để gài những nước nghèo sa vào thòng lọng của Bắc Kinh và từ đó điều khiển những nạn nhân đi theo sự sai khiến của họ. Nếu kế họach thành công, Tàu sẽ không còn sợ bị Mỹ trừng phạt nữa, vì sao? Vì đã có những quốc gia này làm thị trường tiêu thụ hàng Tàu và cũng chính những quốc gia cung cấp năng lượng cho nền kinh tế Tàu. Thực tế, vành đai và con đường nó là 2 cánh tay ôm trọn khu vực Trung Đông vào lòng, khi được kết nối, nguồn năng lượng dầu mỏ có thể rót về Tàu theo 2 con đường này. Vì nó là sân chơi riêng của Tàu nên nếu có bị Mỹ cấm vận, Tàu cũng vẫn có đủ năng lượng dầu mỏ cho nền kinh tế. Kế hoạch này được thai nghén thừ thời Giang Trạch Dân, đến đời Hồ Cẩm Đào thì Trung Cộng vẫn chưa đủ tiềm lực để thực hiện. Mãi đến năm 2013, Tập Cận Bình mới khởi xướng và tiến hành thực hiện. Dự án “Một vành đai, Một con đường” đã được đưa vào kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ 13 của ĐCS Tàu giai đoạn 2016-2020, như thế chúng ta biết nó quan trọng như thế nào?! Hiện nay lượng dầu từ vùng vịnh vận chuyển sang Trung Cộng đều chủ yếu qua eo biển Malacca vào biển Đông. Tuy Trung Cộng đang cố chiếm trọn biển Đông nhưng không dễ, vì nơi đây Mỹ đang muốn nhảy vào gây ảnh hưởng. Còn eo biển Malacca thì khỏi nói, nó thuộc quyền kiểm soát của Mỹ. Như vậy con đường tơ lụa trên biển xuất phát từ dãy đô thị trên bờ biển Hoa Đông đi xuyên qua Biển Đông đến eo biển Malacca là gặp ngay Mỹ chốt chặn ở đó. Đây là một yếu điểm trên con đường vận chuyển dầu mỏ từ vùng vịnh về Tàu. Vì vậy Trung Cộng cần tìm giải pháp đi tắt. Từ vịnh Bengal đến Vân Nam bị ngăn cách bởi quốc gia Myanmar. Nếu lập được đường vận chuyển xuyên Myanmar thì rõ ràng đây là một giải pháp tối ưu. Chính vì thế mà Trung cộng muốn lập tuyến đường kết nối Côn Minh, cảng nước sâu Kyaukphyu ở vịnh Bengal và thành phố Yangon. Myanmar là một quốc gia có vị trí địa lý giáp Trung Cộng tương tự Việt Nam, và họ cũng trải qua thời gian dài dưới chế độ độc tài. Chính quyền của họ cũng đầy rẫy tham nhũng, điều này dễ dàng cho Trung Cộng dùng lá bài “ngoại giao bẫy nợ” để đưa Myanmar vào tròng và tiến hành chi phối kinh tế và chính trị lên quốc gia này. Chính vì vậy dự án lập đặc khu kinh tế Kyaukphyu và mạng lưới đường cao tốc, đường sắt và các khu công nghiệp, kết nối tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Những dự án này nằm trong Hành lang Kinh tế Campuchia - Myanmar (CMEC), và CMEC là một dự án nhỏ trong đại dự án Một vành đai, Một Con đường mà Tập cận Bình đã đưa ra. Trong một chuyến viếng thăm Tập sang Myanmar trước đó tập đã ký tổng cộng có 33 thỏa thuận xây dựng cơ sở hạ tầng dọc theo CMEC thế nhưng chính quyền của bà San Suu Kyi chỉ mới phê chuẩn 4 dự án trong số này. Còn lại các dự án kia Myanmar đã cho ngâm vô thời hạn vì họ không muốn trở thành con cờ dưới tay tàu Cộng. Và lúc này chính họ lại làm Bắc Kinh xuống nước, phải o bế nâng niu, cụ thể là Tập đã cử Dương Khiết Trì sang Myanmar thúc đẩy thực hiện dự án và hứa chi thêm viện trợ. Vậy qua đây chúng ra thấy gì? Đó là vấn nước nhỏ. Nước nhỏ vẫn có thể làm chủ cuộc chơi nếu nhìn ra tử huyệt của nước lớn và tận dụng nó. Rõ ràng Tàu đang muốn dụ Myanmar cắn câu nhưng Myanmar không cắn mà dùng vị trí quan trọng của mình buộc Trung Cộng phải lo lắng. Trong hoàn cảnh này, Myanmar hoàn toàn có thể làm chủ cuộc chơi, tách mình ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng. Không thể tiếp tay làm cho kẻ thù của mình hùng mạnh được, làm như thế thì trước sau gì nó cũng nuốt mình. Vấn đề của Myanmar hiện nay là không được để đồng tiền của Tàu cộng cám dỗ, nếu không đất nước sẽ dính vào bẫy nợ Trung Cộng giăng ra, và lúc đó có hối hận cũng không kịp. Myanmar họ đã làm đúng, còn Việt Nam? Việt Nam có thể làm được như Myanmar, nếu… cầm quyền ở xứ này không phải là ĐCS. -Đỗ Ngà- Tham khảo: http://nextbigfuture.com/…/tpp-ttip-and-one-belt-one-road.h… http://www.worldstopexports.com/top-15-crude-oil-suppliers…/ https://tuoitre.vn/vanh-dai-con-duong-i-ach-o-myanmar-khien…  
......

Ai có thể cứu được người dân Đồng Tâm vô tội?

Nguyễn Văn Đài   Như vậy chỉ sau 4 ngày xét xử, Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án TP Hà Nội đã tạm dừng phiên tòa để tiến hành phần nghị án. Bản án dành cho các nạn nhân người dân Đồng Tâm sẽ được tuyên vào ngày 14 tháng 9 năm 2020. Trước đó, ngày 7 tháng 9 năm 2020, Tòa án thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử những nạn nhân vô tội trong vụ án Đồng Tâm. Phiên tòa đã dự kiến kéo dài 10 ngày, nhưng chỉ với một ngày rưỡi thủ tục xét hỏi đã chuyển sang phần luận tội và đề nghị mức án của đại diện Viện kiểm sát thành phố Hà Nội. Đại diện VKS đã đề nghị 2 mức án tử hình với ông Lê Đình Công(sinh năm 1964) và ông Lê Đình Chức(sinh năm 1980); đề nghị án chung thân với ông Lê Đình Doanh(sinh năm 1988); ông Nguyễn Quốc Tiến và Bùi Viết Hiểu cùng bị đề nghị từ 16 tới 18 năm tù; ông Nguyễn Văn Tuyển bị đề nghị 14 tới 16 năm tù. Đây là 6 nạn nhân bị giữ nguyễn quyết định truy tố với tội danh giết người của VKS TP Hà Nội. 19 nạn nhân còn lại bị chuyển sang tội danh nhẹ hơn là chống người thi hành công vụ cùng với 4 nạn nhân bị truy tố cùng tội danh từ ban đầu. Phiên tòa đã kết thúc phần tranh luận giữa các luật sư với đại diện VKS cũng như phần bào chữa của các luật sư cho các nạn nhân và các nạn tự bào chữa, nói lời cuối cùng. Hội đồng xét xử đã tạm dừng phiên tòa vào chiều ngày 10 tháng 9 và sẽ nghị án và ra bản án với các nạn nhân. Câu hỏi đặt ra ai có thể minh oan cho các nạn nhân và cứu các nạn nhân vô tội? Thứ nhất là các luật sư đang bào chữa và bảo vệ cho các nạn nhân người Đồng Tâm trước Hội đồng xét xử. Các luật sư đã đưa ra các đề nghị đúng pháp luật, cần thiết và mang tính chất quyết định tới việc làm sáng tỏ nội dung vụ án như: thực nghiệm lại hiện trường vụ án, yêu cầu triệu tập nhân chứng, triệu tập đại diện quân đội, công an thành phố Hà Nội, văn bản làm rõ tính chất công vụ của lực lượng vũ trang đã tấn công vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm và rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, trả lại hồ sơ cho VKS,… Trong các nội dung đề nghị thì việc thực nghiệm lại hiện trường là quan trọng nhất vì sẽ làm sáng tỏ toàn bộ sự thật của vụ án Đồng Tâm. Tất cả các đề nghị chính đáng trên của các luật sư đã bị Hội đồng xét xử bác bỏ. Trong các phần tranh luận và bào chữa của mình, các luật sư cũng đã vận dụng tất cả các chứng cứ, viện dẫn pháp luật để chứng minh các nạn nhân chỉ là thực hiện quyền phòng vệ chính đáng để bảo vệ bản thân, người thân và tài sản của họ. Các nạn nhân không chống người thi hành công vụ và càng không có hành vi giết người. Có thể nói các luật sư với nhiệt huyết và tinh thần bảo vệ công lý cũng không thể bảo vệ cho các nạn nhân người Đồng Tâm vô tội hoặc ít nhất là đúng với tội danh thực sự mà họ đã vi phạm. Bởi những người quyết định sinh mạng của các nạn nhân không phải là Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án TP Hà Nội. Mà những người có quyền quyết định bản án lại là những quan chức cao cấp nhất của Bộ công an như Bộ trưởng Tô Lâm và các thứ trưởng,… Thứ hai, chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, Liên hiệp quốc có thể lên tiếng, can thiệp với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam để cứu các nạn nhân? Các tổ chức quốc tế và Liên hiệp quốc chỉ có thể lên tiếng, kêu gọi nhà cầm quyền CSVN tôn trọng nhân quyền và điều tra xét xử một cách công bằng. Nhưng nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay chưa bao giờ tôn trọng các kiến nghị, yêu cầu của Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế. Nhưng các lời kêu gọi, yêu cầu, hay lên án của LHQ và các tổ chức quốc tế có tác dụng làm gây khó khăn cho nhà cầm quyền CSVN trong các quan hệ với LHQ và các tổ chức quốc tế. Làm mất uy tín của nhà cầm quyền CSVN với cộng đồng quốc tế. Đồng thời các lời kêu gọi, yêu cầu, hay lên án của LHQ và các tổ chức quốc tế có tác dụng với chính phủ các nước để thúc đẩy chính phủ các nước có căn cứ để gây áp lực với nhà cầm quyền CSVN. Tức là LHQ và các tổ chức quốc tế không thể trực tiếp cứu các nạn nhân người Đồng Tâm. Còn với chính phủ các quốc gia như Hoa Kỳ, CHLB Đức hay Liên chính phủ như EU thì hoàn toàn có đủ sức mạnh để gây áp lực với nhà cầm quyền CSVN. Nhưng trải qua 20 năm đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam, tôi có rất nhiều các mối quan hệ với chính phủ, quốc hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Chính phủ các quốc gia trên thế giới chỉ can dự hay can thiệp mạnh khi các lực lượng đấu tranh hay phong trào dân chủ ở trong nước có một sức mạnh đáng kể. Tức là sự can thiệp của các quốc gia với nhà cầm quyền CSVN mạnh, yếu hay cực kỳ mạnh mẽ thì hoàn toàn phụ thuộc vào chính nội lực của của phong trào đấu tranh trong nước. Bởi vì nếu phong trào trong nước không có gì, thì chính phủ các nước phải làm tất cả, tác dụng rất hạn chế. Nhưng phong trào trong nước có sức mạnh thì sự can thiệp của chính phủ các nước sẽ có tác dụng nhân đôi, thậm trí tăng hiệu quả gấp triệu lần. Ví dụ: Ngày Chủ nhật tới đây, hàng trăm ngàn hay chỉ cần dăm chục ngàn người trong nước ở các thành phố như Hà Nội, Sài Gòn,… cùng xuống đường yêu cầu trả tự do cho người dân Đồng Tâm vô tội. Ngay lập tức, chính phủ các quốc gia sẽ lên tiếng và can thiệp mạnh mẽ với nhà cầm quyền CSVN. Nếu như cuộc biểu tình ủng hộ các nạn nhân người Đồng Tâm kéo dài thành cuộc Cách mạng thì chính phủ các nước sẵn sàng cô lập, cấm vận nhà cầm quyền CSVN. Tức là sự ủng hộ, cân thiệp từ bên ngoài luôn luôn tương thích với sự trỗi dậy từ bên trong. Điều này hòan toàn có thể dẫn tới sự sụp đổ của chế độ CSVN. Thứ ba, tôi khẳng định luôn là chỉ có chính Nhân dân Việt Nam yêu tự do, dân chủ và công lý mới có thể cứu được những người dân Đồng Tâm vô tội. Đồng thời cũng cứu được cả đất nước và dân tộc Việt Nam thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Tức là Nhân dân Việt Nam tiến bộ sẽ đoàn kết cùng nhau sử dụng mạng xã hội Facebook, Youtube,… để kêu gọi mọi người cùng sử dụng các quyền con người đã được qui định tại điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đó là: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội và tự do biểu tình. Tất cả mọi người hãy sử dụng MXH để kêu gọi người dân Việt Nam ở thành phố như Hà Nội, Sài Gòn,… vào sáng Chủ nhật ngày 13 tháng 9, hãy cùng tập trung ở các địa điểm trung tâm thành phố một cách hòa bình để bày tỏ sự ủng hộ với các nạn nhân người Đồng Tâm vô tội và kêu gọi nhà cầm quyền CSVN tôn trọng nhân quyền và phẩm giá con người. Nếu chúng ta làm được điều này thì ngày 14 tháng 9 năm 2020, bản án dành cho các nạn nhân người Đồng Tâm sẽ thay đổi có lợi cho các nạn nhân. nguyenvandai's blog  
......

Câu hỏi lớn nhất dành cho ông Bộ trưởng Tô Lâm trong vụ Đồng Tâm

Trần Đình Thu Trước hết vụ Đồng Tâm gây ra một dư luận quá nặng nề ở phạm vi quốc tế cũng như trong nước. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến bang giao quốc tế của Việt Nam trong một số trường hợp và gây thất vọng lớn trong nhân dân. Tôi được biết trong các lý do Hoa Kỳ chưa muốn nâng tầm quan hệ đối tác với Việt Nam có nguyên nhân liên quan vụ Đồng Tâm và một số vụ khác. Trong khi đó vụ Đồng Tâm hoàn toàn có thể xử lý bằng cách khác không gây tổn thất nhân mạng và thấu lý đạt tình. Nhân mạng một công dân và 3 sĩ quan công an không hề nhỏ. Theo luật sư Trần Đình Dũng thì vụ Đồng Tâm nếu xử lý theo quy trình hợp lý thì sẽ cho trinh sát thu thập chứng cứ về hành vi mua bán, tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép (việc này rất dễ), sau khi đủ bằng chứng thì tiến hành khởi tố vụ án, cho mời từng người lên lấy lời khai và tiến hành khám xét. Khi khám xét nếu bị phản ứng thì mới tập trung thêm lực lượng để phá án nếu không thì thôi và tất cả những việc đó đều có thể làm công khai giữa thanh thiên bạch nhật chứ không phải tập kích ban đêm. Nếu làm như thế thì sẽ hoàn toàn phù hợp pháp luật và không gây ra hậu quả nặng nề như hôm nay. Tuy nhiên rất tiếc bộ trưởng Tô Lâm đã không làm theo quy trình bình thường ấy mà đã chỉ đạo một cuộc tấn công khủng khiếp vào thôn Hoành vào lúc khuya khoắt giống như một trận công đồn dẫn đến tổn thất nhân mạng lớn và gây ra hệ lụy lớn lao như đã nói trên. Tôi muốn gửi câu hỏi cho bộ trưởng Tô Lâm vì sao vụ Đồng Tâm không làm đúng theo trình tự pháp luật như vậy mà thực hiện một cách trái pháp luật như đã diễn ra. Phải chăng bộ trưởng Tô Lâm muốn cho Việt Nam mất uy tín nặng nề với quốc tế?  
......

Công đoàn ‘vắt mồ hôi đổi rượu, đổi trà’

Trân Văn - Blog VOA Nếu phiên xử sơ thẩm “vụ án Đồng Tâm” là bằng chứng sinh động về nhận thức, cách hành xử của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam đối với nông dân thì Báo cáo Kiểm toán về việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (Tổng LĐLĐ VN) mà Kiểm toán Nhà nước (KTNN) vừa công bố (1) là một bằng chứng khác cho thấy nhận thức, cách hành xử khác của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam đối với công nhân cũng chẳng tử tế gì hơn… *** KTNN cho biết, tuy nhiều nơi còn nợ “quỹ công đoàn” (giới chủ doanh nghiệp phải trích 2% quỹ lương, còn người lao động phải nộp 1% lương để cùng nuôi hệ thống công đoàn do Tổng LĐLĐ Việt Nam dẫn dắt) nhưng năm ngoái Tổng LĐLĐ VN vẫn thu được hơn… 20.000 tỉ đồng từ nhiều nguồn: Công quỹ, doanh nghiệp và người lao động phải đóng góp theo… qui định của pháp luật, hỗ trợ của xã hội, đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của hệ thống doanh nghiệp do Tổng LĐLĐ VN lập ra. KTNN phát giác, trong khi tỉ lệ trung bình giữa chi/ngân quỹ được phân bổ ở các tổ chức công đoàn cấp thấp, lên tới 99,1% thì tỉ lệ này ở những tổ chức công đoàn cấp trên rất nhỏ: Ví dụ LĐLĐ cấp tỉnh, thành phố hoặc ngành chỉ chi 45,4% tổng số ngân quỹ được phân bổ và tỉ lệ chi của Tổng LĐLĐ VN chỉ có 8,3%. Nói cách khác, hệ thống chuyên… bảo vệ quyền lợi, chăm sóc cho người lao động tại Việt Nam chỉ nuốt vào chứ không nhả ra, cho nên đến giờ, tổng số tiền mà Tổng LĐLĐ VN đã… tích lũy được lên tới gần… 29.000 tỉ đồng! Một điểm đáng lưu ý khác, tuy Tổng LĐLD VN đề ra rất nhiều chương trình vận động xã hội hỗ trợ, chăm sóc công nhân nghèo nhưng vì thu xong vẫn không chi nên tỉ lệ thu từ các nguồn này ở Tổng LĐLĐ VN gấp 2,2 lần… tổng chi cho… cả năm! Năm ngoái, một trong những chương trình mà Tổng LĐLĐ VN vận động xã hội hỗ trợ, chăm sóc công nhân nghèo là “Tết sum vầy”. Dựa trên thông tin do Tổng LĐLĐ VN cung cấp, KTNN chỉ xác định được rằng “Tết sum vầy” thu được 11,3 tỉ va do không có… phiếu thu, không đủ chứng từ nên thiếu căn cứ để xác nhận tính chính xác và hợp pháp của khoản thu từ cuộc vận động này. Cũng theo KTNN, do… dư giả vì hạn chế chi, nhiều cơ quan thuộc Tổng LĐLĐ VN đã đem nguồn tiền lẽ ra phải dùng vào việc chăm sóc, hỗ trợ người lao động để… mua cổ phần, góp vốn, cho vay và những hoạt động sử dụng tiền của bá tánh này đều… chưa rõ ràng, minh bạch. Đặc biệt là do chưa quy định về thời hạn trả nợ, chưa đặt điều kiện ràng buộc về trách nhiệm trả nợ, cũng như không giám sát việc sử dụng vốn vay nên… khó có khả năng thu hồi vốn! *** Khác với thiên hạ, tại Việt Nam, Tổng LĐLĐ VN là tổ chức duy nhất đại diện cho tất cả người lao động Việt Nam. Tổng LĐLĐ VN có lẽ cũng là tổ chức công đoàn… thuộc loại hiếm thấy trên thế giới: Đảm nhận luôn vai trò thuộc hạ của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam! Đó cũng là lý do tuy nhận tiền do người lao động đóng góp (1% lương) nhưng thử tìm xem có bao nhiêu người lao động tại Việt Nam tin rằng hệ thống này hoạt động vì các quyền hợp pháp và lợi ích chính đáng của… họ? Cho đến nay, thành tích lớn nhất mà Tổng LĐLĐ VN thường khoe một cách hồn nhiên, từ thập niên này (2) sang thập niên khác (3) là tại Việt Nam chỉ có “ngừng việc tập thể” để đòi quyền lợi, chưa có cuộc đình công nào đúng nghĩa (theo luật, chỉ có thể xem là đình công nếu được các tổ chức thuộc Tổng LĐLĐ VN lãnh đạo). Do vậy, đến nay, công nhân vẫn vừa đóng phí công đoàn nuôi Tổng LĐLĐ VN, vừa tự tổ chức các cuộc “ngừng việc tập thể” để tranh đấu cho quyền lợi của mình một cách… bất hợp pháp! Có một điểm hết sức khôi hài là dù Tổng LĐLĐ VN kiên quyết đứng bên lề, không để hệ thống công đoàn do mình dẫn dắt, can dự vào việc đệ đạt yêu sách, tranh đấu cho quyền lợi của người lao động nhằm thực hiện chủ trương của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền là giữ gìn sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư nhưng ngay cả giới chủ doanh nghiệp cũng không ưa Tổng LĐLĐ Việt Nam vì ăn… dày quá! Cuối năm 2015, Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức cho doanh giới bình chọn “Mười qui định tốt nhất và mười qui định tồi nhất”. Qui định buộc doanh giới phải góp 2% quỹ lương (2% tổng số tiền lương trả cho công nhân) để nuôi Tổng LĐLĐ VN trong Luật Công đoàn được chọn là một trong “mười qui định tồi nhất” và đó là lý do Tổng LĐLĐ VN phải vội vàng xin Bộ Chính trị, Ban Bí thư “chỉ đạo Đảng – Đoàn ở VCCI ngưng việc bình chọn đối với Luật Công đoàn 2012” (4). Trong văn bản ấy, Tổng LĐLĐ VN lưu ý Bộ Chính trị, Ban Bí thư là trước nay, hệ thống nay tận tâm thực hiện và hoàn thành “các nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao”, cho nên đảng và nhà nước cần can thiệp để “uy tín” của Tổng LĐLĐ Việt Nam không bị vấy bẩn, cũng như để Tổng LĐLĐ VN tiếp tục nhận được khoản thu tương đương 2% quỹ lương mà doanh giới phải nộp. Có như vậy Tổng LĐLĐ Việt Nam mới đủ sức, tiếp tục dẫn dắt hệ thống công đoàn. *** Khi kinh tế Việt Nam giống như một chiếc xe xuống dốc không… phanh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam buộc phải bám vào CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Liên Âu - Việt Nam) để “duy trì sự ổn định chính trị”. Tuy nhiên CPTPP và EVFTA không dễ… nhằn. Để bảo đảm văn minh và công bằng, những quốc gia tham dự vào các hiệp định thương mại tự do đa phương luôn đòi đối tác phải thực thi Tuyên bố ILO 1998. Tuyên bố ILO 1998 có tám công ước được xem là căn bản: Côn­g ước số 87 và 98 về Tự do hiệp hội và Thương lượng tập thể. Công ước 29 và 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức và Bắt buộc. Công ước số 100 và 111 về Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và Nghề nghiệp. Công ước số 138 và 182 về Xóa bỏ lao động trẻ em. Tuyên bố ILO 1998 minh định quan niệm của thiên hạ: Văn minh là kiểm soát để nỗ lực thúc đẩy thương mại tự do không thể gạt bỏ nhân vị, nhân phẩm ở bất kỳ đâu. Mặt khác, thực hiện các giải pháp bảo vệ nhân vị, nhân phẩm thì tốn kém (nhà xưởng phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt nhằm ngăn ngừa ô nhiễm, nơi làm việc phải thoáng và đủ sáng, ngay cả nhà ăn, nhà vệ sinh cũng phải đúng tiêu chuẩn,…) nên không quốc gia nào tham dự những hiệp định thương mại tự do đa phương được miễn trừ vì có như vậy mới ngăn ngừa được tình trạng hạ giá thành bằng cưỡng bức lao động, tiết kiệm chi phí đầu tư vào nhà xưởng, ngăn ngừa - xử lý ô nhiễm… để cạnh tranh bất chính. Thiên hạ tự nguyện chấp nhận những ràng buộc đó vì chúng vừa nhân đạo, vừa giúp duy trì sự công bằng, còn Việt Nam, tuy là thành viên của ILO nhưng Việt Nam không phê chuẩn những công ước xác lập và bảo vệ các quyền căn bản của người lao động, cho đến khi tình thế đẩy đảng đến chỗ phải dựa vào các hiệp định thương mại tự do… Trong quá trình tìm đủ mọi cách để trở thành thành viên của TPP (Hiệp định Đối tác thương mại Xuyên Thái Bình Dương), CPTPP và EVFTA, Việt Nam đã phê chuẩn 5/8 công ước căn bàn của Tuyên bố ILO 1998, cho dù điều này chẳng khác gì xóa bỏ “thời vàng son” của Tổng LĐLĐ VN. Tháng 11 năm 2018, khi các đại biểu của Quốc hội khóa 14 thảo luận về việc phê chuẩn CPTPP, ông Ngọ Duy Hiểu, Đại biểu Quốc hội kiêm Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ VN, than rằng, phê chuẩn Công ước 98, chấp nhận sự xuất hiện của các công đoàn, hoạt động hoàn toàn độc lập với Tổng LĐLĐ VN là tạo ra “tiền lệ chưa từng có”. Ông Hiểu xem chuyện Tổng LĐLĐ VN phải cạnh tranh với các công đoàn độc lập, từ tập hợp thành viên đến chia sẻ nguồn lực về tài chính là… “thách thức lớn” và bất bình vì: Tổng LĐLĐ Việt Nam phải thực hiện chức năng của đoàn thể chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam còn các công đoàn độc lập chỉ bảo vệ, chăm lo quyền và lợi ích của người lao động (5)… *** Tháng tới, các đại biểu Quốc hội Việt Nam sẽ góp ý cho Dự luật sửa Luật Công đoàn sau khi đã bỏ phiếu sửa Luật Lao động hồi năm ngoái - cho phép thành lập các công đoàn độc lập. Chuyện thu tiền của các doanh nghiệp và người lao động để nuôi Tổng LĐLĐ VN, cũng như chia khoản tiền khồng lồ này cho Tổng LĐLĐVN và các công đoàn độc lập như thế nào sẽ là những chủ đề rất nóng… Trong tương lai, sự xuất hiện của những công đoàn độc lập đầu tiên sẽ khiến những vấn đề liên quan đến hoạt động của các tổ chức đại diện cho người lao động tại Việt Nam càng nóng hơn cả về bản chất lẫn làm thế nào để bảo đảm thực chất. Tuy nhiên bất kể thế nào thì số phận của Tổng LĐLĐ VN cũng giống như “chỉ mành treo chuông”. Sẽ có bao nhiêu người lao động chấp nhận tiếp tục đóng góp nuôi một hệ thống trên danh nghĩa là đại diện cho mình, bảo vệ các quyền hợp pháp và lợi ích chính đáng của mình nhưng chỉ chăm chăm hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà đảng giao phó và lợi dụng nhiệm vụ chính trị đó mà vắt mồ hôi của người lao động, đổi rượu, đổi trà? Vì sao đảng CSVN - “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, qua đó tự khoác thêm vai trò “đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” lại tạo điều kiện cho hệ thống đại diện người lao động hành xử tàn tệ như vậy? Chú thích (1) https://baodautu.vn/kiem-toan-tai-chinh-cong-doan-tren-lenh-lang-duoi-kho-han-d129060.html (2) https://tuoitre.vn/20-nam-qua-chua-co-cuoc-dinh-cong-nao-dung-luat-948135.htm (3) http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2016-09-08/chua-co-cuoc-dinh-cong-nao-theo-dung-quy-dinh-phap-luat-35381.aspx (4) https://vov.vn/tin-24h/dung-ngay-viec-binh-chon-tot-nhattoi-nhat-voi-luat-cong-doan-512054.vov (5) https://plo.vn/thoi-su/them-to-chuc-canh-tranh-voi-cong-doan-tien-le-chua-tung-co-801221.html  
......

Ai cũng có một gia đình…

Bà Dưong Thị Thành vợ Cụ Kình Phạm Minh Vũ| Cuối cùng phiên tòa cũng đã kết thúc, ngày thứ 2 tới đây bản án sẽ được tuyên, những ngày qua, diễn biến của phiên tòa cũng đã cho chúng ta thấy phần nào kết quả của bán án mà họ sẽ tuyên. Quả thực đây là cuộc đấu tố đồng bào thì đúng hơn là một phiên xét xử, thái độ những công tố viên hay các thẩm phán nói cho cùng, họ mong có thêm ít nhất 2 bản án tử hình cho hả dạ. Những ngày qua, mặc dù chúng ta biết là bản án đã có sẵn trong túi của chủ tọa phiên tòa, nhưng nó cũng bật ra được phần nào về cái đêm kinh hoàng ấy. Những lời vu cáo trong cáo trạng phần nào đã được giải mã, những cáo buộc về Cụ Kình cầm lựu đạn, hay châm lửa vào thau có xăng hất xuống, hoặc tấn công bằng lựu đạn đều đã bị bác bỏ bởi người dân Đồng Tâm. Nói cho cùng, đây là một phiên đấu tố thời hiện đại, một mặt là tiêu diệt sự đoàn kết của những nông dân hiền lành chống lại bọn lợi ích nhóm, chống lại bọn tham quan với ý định cướp đất, mặt khác chế độ cầm quyền muốn phô trương sức mạnh răn đe mạnh tay tới những ai ở địa phương khác dám chống lại họ, họ sẵn sàng đem đại bác, xe tăng, nửa vạn quân về tiêu diệt, về bình địa một ngôi làng nếu bọn cướp đất muốn. Dù bản án tuyên ra như thế nào đi nữa, thì chẳng thể thuyết phục được lòng người dân Việt Nam, trừ khi tuyên họ vô tội. Thật đen đủi cho dân tộc VN, tưởng đất nước là do dân làm chủ, tưởng tiếng bom đạn đã ngừng mấy chục năm nay, không ngờ, nó lại vang lên giữa bầu trời Thủ đô trong đêm, tiếng súng chát chúa, tiếng bom đạn nó được phát ra bởi một nhóm nhân danh là ‘’cách mạng’’. Từ đây đất nước nào có yên bình? Từ đây dân tộc có phút giây nào ngơi nghỉ? Khi bọn ‘’cách mạng’’ ấy nó áp đặt một chế độ cai trị tàn bạo, man rợ hơn cả thực dân phong kiến nó muốn lấy mạng ai thì lấy, muốn bỏ tù và đánh đập cho người đó nói theo ý của họ. Có ai tin rằng năm 2020 mà một đảng cầm quyền xua nửa vạn quân về để giết một đảng viên đồng chí của mình và dựng lên một câu chuyện ly kỳ là ông ta trên tay cầm lựu đạn đến khi chết? Đến trẻ con cũng không thể tin. Vậy mà báo chí, tòa án, viện kiểm sát vẫn tin, họ cho rằng những nông dân mất đất ấy là thủ phạm mới thật cay đắng. Đến thế kỷ này, có ai tin rằng những kẻ chấp pháp là cơ quan điều tra chúng tra tấn người dân đáng lý ra là nạn nhân mà 10 ngày như 1 không? Thật không thể tưởng tượng ra nổi. Hôm nay, một luật sư bảo vệ quyền lợi thân nhân của 3 cảnh sát bị chết, đặt những câu hỏi để khẳng định rằng phải có bản án tử hình mới cam. Luật sư này hỏi kiểu trách móc rằng: ''Ai đã cướp đi cha của đứa con mới 6 tháng tuổi? Ai đã cướp đi đồng chí của các vị đang ngồi ở đây? Ai đã cướp đi đồng bào…? Tôi không dám nhìn vào các hình ảnh thi thể của các liệt sỹ… Hành vi phạm tội của các bị cáo là được chuẩn bị kỹ lưỡng, phạm tội đến cùng, man rợ nên việc truy tố là đúng, chính xác'' Chúng ta không bàn đến hành vi của các bị cáo ở đây là có tội hay không có tội nữa, vì tất cả những ngày qua phiên tòa đã chứng minh một cách quá rõ, từ việc không thực nghiệm lại hiện trường, cho tới việc điều tra viên tra tấn các bị cáo, cho tới việc ngăn cản luật sư tiếp xúc các bị cáo đã chứng minh là vụ án có quá nhiều điều phi lý, chỉ một điểm phi lý là phải hủy phiên tòa để điều tra lại, đây có hàng trăm điểm phi lý, vì thế không thể tuyên án mà có án tử thì đó là ý chí kẻ giết người. Về cương vị luật sư, khi chưa có bằng chứng khách quan mà đã khẳng định họ giết người, chứng tỏ đó là ý của những kẻ cướp đất chứ không phải luật sư chân chính. Tôi suy nghĩ về những câu hỏi của vị luật sư đó nhiều hơn, Luật sư đòi mạng cha đứa bé 6 tuổi thì Bà Thành cũng có quyền đòi chồng bởi những kẻ mang danh công an giết chứ? Bà Thành cũng có quyền đòi con cháu của Bà, và vợ con của những 29 người kia cũng có quyền đòi Cha mẹ, vợ chồng của họ chứ? Họ cũng có gia đình cơ mà, gia đình họ đang êm ấm, hạnh phúc, cớ sao những kẻ cầm quyền chop bu xua quân về để giết người, bắt người và tra tấn làm cho biết bao người thân tàn ma dại, mà cuộc đột kích trong đêm đã sai pháp luật? Dân Đồng Tâm không đòi mắc mớ gì anh đòi? Nếu đất nước bị cai trị bởi những kẻ cầm quyền tàn bạo, những kẻ mê muội làm công cụ tay sai như 3 cảnh sát bị chết kia thì tang thương không chỉ dừng lại ở Đồng Tâm. Vì nguồn gốc mọi mâu thuẫn đến từ một chế độ không vì dân, kế đến do luật đất đai lạc hậu khi nhà nước quản lý đất đai mà không cho Nhân dân quyền tư hữu đất đai. Vì vậy, cứ thế này mãi, sẽ còn nhiều Đồng Tâm một khi những kẻ cầm quyền đói đất, chúng muốn ăn ở đâu thì chúng lại lên kế hoạch cướp như ở Đồng Tâm, cứ thế sẽ tiếp tục có nhiều cảnh đầu rơi máu chảy thê lương trên quê hương. Không phải là ngoại xâm, không phải thế lực ngoại bang nào bắn giết dân ta, không ai khác chính những kẻ cầm quyền hôm nay là giặc, là kẻ thù của dân tộc VN. Người chết cũng đã chết, đòi mạng những người vô tội kia thì có làm những kẻ công an như những con thiêu thân bị kẻ có quyền sai khiến, liệu họ có sống lại? Ai cũng có một gia đình, Người dân Đồng Tâm cũng vậy, và Cụ Thành cũng thế... #Dongtam  
......

Một chế độ bất nhân

  Phạm Minh Vũ| Chỉ sang ngày thứ 3 mà viện kiểm sát đã đưa ra mức án 2 tử hình, một chung thân quá gọn ghẽ, trong khi đó dự tính phiên tòa kéo dài 10 ngày: VKSND Hà Nội đề nghị tòa tuyên tử hình Lê Đình Công và Lê Đình Chức. 27 bị cáo còn lại bị đề nghị các mức án từ 15 tháng tù treo đến chung thân. Lê Đình Doanh được đề nghị mức án chung thân. Bùi Viết Hiểu và Nguyễn Quốc Tiến mức án 16-18 năm tù. Nguyễn Văn Tuyển bị đề nghị 14-16 năm tù. 23 bị cáo còn lại bị đề nghị mức án từ 15 tháng tù treo đến 7 năm tù giam về tội Chống người thi hành công vụ. Lê Đình Công, Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh Một vụ án có quá nhiều nghi vấn, nhiều mâu thuẫn từ việc tại sao đang đêm mà kéo về một ngôi làng vốn dĩ bình yên để đột kích bất hợp pháp, lại được quyền nổ súng bắn trực diện vào 2 cụ già có gần 60 năm tuổi đảng, một chết ngay tại chỗ một may mắn vẫn còn sống, để hôm nay tiếp tục hầu tòa, và họ đã tố cáo là bị tra tấn trong trại tạm giam một cách dã man, tàn bạo. Cho tới cái chết của 3 chiến sỹ công an, nguyên nhân cái chết đến giờ vẫn không ai biết vì theo mô tả của cáo trạng nó đi ngược lại khoa học hình sự, hiện trường thì bị dọn dẹp sạch sẽ một cách quá thô thiển, thậm chí các cơ quan chấp pháp chẳng đếm xỉa gì tới việc thực nghiệm lại hiện trường mà vẫn đòi kết án tử hình cho bằng được. Chết 3 người, nát thây mà sợi dây điện vẫn còn nguyên dưới đáy giếng thì thật không hiểu nổi tại sao? Đến việc mua 10 quả lựu đạn cũng quá ngây thơ khi các cơ quan cáo buộc cho rằng các bị cáo mua, mà mua trên mạng mới ngây dại. Việc bị cáo nhận mua không loại trừ bị tra tấn bắt nhận là đã mua. Hành vi của tòa, viện kiểm sát, điều tra từ đầu cho tới phiên tòa mở ra đều cho ta thấy rõ một điều đây là một cuộc hành quyết được mạo danh dưới phiên tòa công khai. Một cuộc tắm máu dân ta của bọn thực dân áp bức, từ việc phân thây cụ Kình đến đem nông dân Đồng Tâm ra xét xử là để khẳng định thêm một lần nữa chế độ cộng sản là một chế độ man rợ nhất. Thực dân Pháp chúng xâm lược dân ta, có thể ác, có thể tàn bạo là vì chúng khác sắc dân VN, không cùng chung dòng máu đỏ da vàng, nhưng người Pháp vẫn xét xử một phiên tòa ở đồng Nọc Nạng một cách công bằng và khách quan với thái độ sửa sai. Người Pháp đã sửa sai khi tuyên bản án đối với Dân ”thuộc địa” không cùng chung dòng máu, màu da mà lại được lòng dân khâm phục, thiên hạ hoan hỉ, người cộng sản các ông gọi đó là ‘’bọn thực dân áp bức’’. Còn cộng sản VN, các ông nhân danh Con Lạc Cháu Hồng để thanh toán đồng bào, đồng chí của mình trong đêm, trên giường ngủ, và bây giờ đào tận gốc trốc tận rễ bằng bản án muốn ‘’tru di tam tộc’’ của người chung dòng máu đỏ da vàng với các ông, thì các ông là bọn gì đây? Tội ác của người cộng sản phải nói rằng ‘’Trúc Nam Sơn Không ghi hết tội, Nước Nam Hải không rửa sạch mùi’’, một chế độ bất nhân./. #Dongtam  
......

Chuyện hy hữu trong phiên xữ vụ án Đồng Tâm "bị cáo chất vấn tòa án"

Có lẽ nỗi uất hận đã đạt đến đỉnh điểm khiến bà Bùi Thị Nối quên đi nỗi sợ hãi khi đứng trước bầy lang sói. Lịch sử sẽ ghi lại... Amy Truc Tran| Theo luật sư Manh Dang tường thuật lại phiên tòa xét xử Đồng Tâm sang ngày thứ 2, có một chi tiết có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử tòa án, một bị cáo leo lên ghế chất vấn ngược lại tòa án. ‘’Đến phần xét hỏi bà Bùi Thị Nối, rút kinh nghiệm ở phần thủ tục khi chứng kiến những hành vi “vô chính phủ” của bà, thì chủ tọa phiên tòa khi gọi tên đã nói ngay bà được đứng yên tại chỗ khai báo. Nhưng đã quá trễ, chỉ chực nghe gọi tên bà đã ngồi bật dậy chạy xăm xăm lên bục khai báo, 02 nữ cảnh sát dẫn giải vội chạy theo giữ tay, bà liên tục vung tay thoát khỏi sự áp giải của cảnh sát để tiếp tục chạy lên bục khai báo. Nhưng vượt chỉ độ 05 hàng ghế, thì thêm vài cảnh sát khống chế đã kịp chặn giữ, đưa bà về chỗ ngồi. Khi vừa về chỗ, được đưa micro thì bà chụp ngay lấy và đứng lên ghế để nói, các nữ cảnh sát lại phải vất vả kéo tay bà xuống và giữa chặt 02 cánh tay. Bà la lớn “Bỏ tay ra, xích ra, đứng xích ra …”, vung 02 tay yêu cầu họ buông tay bà. Khi đã rảnh tay, không chờ Hội đồng xét xử hỏi, bà tuôn lời chất vấn như liên thanh, đại loại “Tại sao có luật pháp mà không thi hành ? Tại sao không bắt bố Nối (tức cụ Kình) đàng hoàng, mà lại lừa ra đồng đánh gẫy chân bố Nối ? …”. Chủ tọa cắt lời hỏi “Bà mua xăng để làm gì ?” ,, bà vẫn liên tục chất vấn những câu đôi khi không đầu, không đuôi. Được hỏi đến lần thứ 3 :“Bà mua xăng để làm gì ?”, thì bà mới trả lời:“Mua xăng để thiêu chết bọn tham nhũng !!!”. Sau đấy, vẫn cứ phớt lờ các câu hỏi của chủ tọa, bà lại tiếp tục chất vấn tòa án theo ý mình … cho đến lúc chủ tọa “ngán ngẩm” quá, ra lệnh cho cảnh sát dẫn giải trục xuất bà ra khỏi khán phòng. Khoảng 05 đến 06 cảnh sát áp sát, khống chế đưa bà ra ngoài, bà vẫn ngoái cổ cố nói điều gì đó’. Trang lưu bút pháp đình sẽ phải nhớ mãi câu chuyện hi hữu về một bị cáo đứng trên ghế chất vấn tòa án, lần đầu tiên và chắc cũng sẽ là lần duy nhất. Bà Nối không cao, nhưng khi đứng trên ghế, dõng dạc vung tay chất vấn tòa án, xem ra, nhiều kẻ thường nhìn xuống sẽ khó thấy tầm vóc của bà, nông dân đất Đồng Tâm …    
......

“Luật sư, đứa con hoang của ngành tư pháp?”

Tuan Ngo  Luật sư Ngô Anh Tuấn sau phiên toà xét xử ngày thứ 1 : Hôm nay, ngày xét xử đầu tiên của vụ án xảy ra tại thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội ngày 09/01/2020; vụ án này dự kiến sẽ diễn ra trong 10 ngày tại trụ sở TAND Cấp cao tại Hà Nội. Một thực tế là trong các vụ án mang màu sắc chính trị thì việc kiểm soát an ninh chặt chẽ từ vòng ngoài là chuyện thường và tôi không tỏ thái độ khó chịu dù bị kiểm tra ít nhất 4 vòng. Tuy nhiên, điều khiến tôi vô cùng phẫn nộ đối với việc tổ chức phiên toà sáng nay là những vấn đề sau:   1. Dù TAND thành phố Hà Nội mượn trụ sở của TAND Cấp cao tại Hà Nội để xét xử nhưng luật sư không được đi xe vào sân toà để gửi như những phiên toà khác, khắp dãy phố Phạm Văn Bạch từ khu vực Thanh tra Chính phủ tới trụ sở VKSNDTC, luật sư cũng không được để xe, ngay cả các chỗ trông xe của dân xung quanh đó cũng được công an trưng dụng, dù còn chỗ nhưng cũng không cho luật sư gửi. Riêng việc tìm chỗ đỗ xe, tôi mất gần 30 phút loay hoay tìm nơi. Một cán bộ an ninh quen với tôi khá lâu bảo luật sư cứ vứt ngoài đường để vào toà đi cho kịp giờ, nếu công an cẩu xe thì tôi đi “xin” cho nhưng tôi không muốn phiền tới họ... 2. TAND Cấp cao Hà Nội mở cổng cho tất cả mọi người vào làm việc nhưng kiên quyết không cho luật sư đi vào mà bắt luật sư phải đi vòng lại cổng TAND thành phố Hà Nội cách đó khoảng 200m. Chưa hết, vào được cổng TAND thành phố Hà Nội, lại phải đi 1 vòng qua sau lưng TAND Cấp cao tại Hà Nội, vòng qua cửa chính TAND Cấp cao tại Hà Nội rồi mới đi vào bên cổng phụ để vào toà. Nghĩa là để đi được vào phòng xử án, các cán bộ của các cơ quan khác chỉ mất trên dưới 50m, còn luật sư phải đi vòng hết ít nhất là 350m. Trời sáng nay mưa tầm tã, vào được đến toà bằng kiểu cực hình đó, nhiều luật sư chúng tôi bị ướt sũng như luật sư Lê Văn Luân, Nguyễn Hà Luân, Phạm Lệ Quyên...và cả tôi, Ngô Anh Tuấn. Tôi không hiểu người ta nghĩ luật sư là cái giới gì, xếp hạng gì trong hệ thống tư pháp Việt Nam nữa. Họ đang nghĩ luật sư là những kẻ cặn bã, những kẻ cúi đầu chạy án, ngậm miệng ăn tiền...? Ai cho họ cái quyền phân biệt đối xử với luật sư? Không chỉ các luật sư được gia đình các bị cáo mời bị đối xử tệ hại mà chính những luật sư chỉ định (mà nhiều người coi đó như là tay sai của họ, bước theo chân họ và nói theo miệng họ) cũng bị đối xử như vậy. Tuy nhiên, chỉ có kẻ “lắm mồm” như tôi mới dám nổi khùng lên và vào quát ầm ĩ mà thôi, còn những người khác đều ngoan ngoãn chấp nhận vì chắc họ nghĩ phận mình chỉ đáng vậy thôi, có ý kiến cũng bằng thừa. Trong khi đó, người cấp thẻ hành nghề cho luật sư là Bộ Tư pháp thì cũng chẳng coi giới luật sư ra gì, họ chỉ săm soi tìm các lỗi sơ hở của luật sư để phạt hay dọa nạt tước thẻ hành nghề. Liên đoàn luật sư thì nhiều việc, không bao quát hết các vấn đề của đồng nghiệp dù dạo này họ cũng tỏ rõ sự quan tâm tới anh em hơn trước. Tệ nhất có thể nói là cái Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, ngoài việc lo đấu đá nội bộ thì họ chẳng quan tâm gì ngoài việc nhắc nộp phí thành viên... Lý thuyết, luật sư là một mắt xích quan trọng, là nền tảng quan trọng cho công cuộc cải tổ nền tư pháp nước nhà để bắt kịp trình độ quốc tế nhưng thực tế thì khác xa. Về số lượng, lực lượng luật sư ngày một đông hơn nhưng vị thế của luật sư đang không được xem trọng đúng mực, không chỉ trong những phiên toà đặc biệt như phiên toà hôm nay. Nếu mỗi một luật sư không tự ý thức, tự đấu tranh trong từng tình huống nhỏ và nếu các cơ quan quản lý luật sư không có phương án, chính sách tốt để bảo vệ luật sư thì ngày càng nhiều những luật sư tâm huyết, có tài sẽ bỏ nghề và phần lớn sẽ sống xuôi theo chiều gió để tồn tại - khi đó, nếu xã hội có khinh chúng ta hơn nữa thì đó âu cũng là điều xứng đáng!    
......

Phiên toà giết người

Pham Doan Trang Không thể chỉ dùng cụm từ “sai quy trình, thủ tục tố tụng” để miêu tả phiên xét xử 29 người dân Đồng Tâm, bắt đầu sáng nay (07/9/2020) tại Hà Nội. Sự thật kinh khủng hơn thế: Đây là một phiên tòa được lập ra để hợp thức hóa việc giết người, diệt khẩu. Mở đầu phiên xét xử, tòa đã bật video cho các luật sư và bị cáo xem, và đó là… một phóng sự tài liệu về tội ác của dân Đồng Tâm (sát hại ba chiến sĩ công an), cũng như nỗi đau cùng giọt nước mắt của thân nhân, gia đình ba chiến sĩ đã “hy sinh” trong lúc làm nhiệm vụ. Luật sư lên tiếng phản đối, yêu cầu tòa nếu có cho xem gì thì phải trình bằng chứng gốc chứ không phải là phim ảnh đã qua công đoạn dàn dựng, đạo diễn, biên tập. Tuy nhiên, tòa gạt đi và bảo các luật sư “cứ xem đi đã”. Coi hết phim, đến phần luận tội, những sự thật khủng khiếp về nền tư pháp-hành pháp công an trị của Việt Nam mới được bộc lộ một cách tàn nhẫn. Tất cả các bị cáo đều có clip nhận tội, được phía công an thực hiện đầy đủ, kỹ càng, trau chuốt. Cứ mỗi bị cáo được xướng tên là lại có ngay một clip nhận tội được trình chiếu. Tuy nhiên, tất cả các bị cáo đều cho thấy dấu hiệu của việc bị tra tấn, hoặc bị đe dọa, khủng bố đến mức không thể không cúi đầu nhận tội. Một trong những người bị đánh dã man nhất là ông Lê Đình Công, con trai cụ Lê Đình Kình. Ông Công cũng là người nhận tội đầy đủ theo đúng một kịch bản đã được soạn sẵn, rất chi tiết. Một số bị cáo “may mắn” được tiếp xúc với luật sư có hé lộ cho luật sư biết rằng họ bị tra tấn đến mức không chịu nổi, và được điều tra viên ép “cứ nhận đi rồi có gì ra tòa phản cung sau”. Tuy nhiên, tại tòa, những cá nhân phản cung đều bị tòa đánh giá là ngoan cố, không thành khẩn, và đây sẽ là tình tiết tăng nặng đối với họ. Tòa cũng bác bỏ việc các bị cáo kêu bị tra tấn, với lý do: “Không có bằng chứng”. Một số khác thì dường như khuất phục điều tra viên là do bị đe dọa “nếu không nhận tội thì sẽ gây nguy hiểm cho gia đình, vợ con…”. Đây thực chất cũng là một biện pháp ép cung hiệu quả và đáng sợ, bởi lẽ nhiều khi, nếu vụ việc chỉ liên quan đến một cá nhân, anh ta sẽ không khai gì, nhưng nếu nghĩ rằng nó có thể làm liên lụy tới thân nhân, anh ta sẽ ra sức nhận tất cả về mình để bảo vệ người thân. Kết cục là cả nhà bị bắt và cả nhà đua nhau nhận tội. CỤ BÙI VIẾT HIỂU: THOÁT CHẾT VÌ ĐẠN CÔNG AN BẮN TRƯỢT Cụ Bùi Viết Hiểu – sinh năm 1943, thành viên Tổ Đồng thuận Đồng Tâm và bị công an đánh giá là nhân vật quan trọng chỉ sau cụ Lê Đình Kình – có lẽ là bị cáo bất khuất, ngẩng cao đầu nhất hôm nay. Trước tòa, cụ cho biết nhiều chi tiết lạnh gáy: Cả cụ và cụ Lê Đình Kình đều bị bắn trong đêm 09/01 khi công an tấn công Đồng Tâm; tuy nhiên, cụ Kình bị đạn xuyên tim, trong khi viên đạn bắn cụ Hiểu lại “trượt”, đi chệch xuống bụng, nên cụ chỉ bị trọng thương. Công an đưa cụ vào bệnh viện, và kết quả khám nghiệm được ghi trong biên bản là… bị thương không rõ nguyên nhân. Ngay khi vừa bình phục, cụ Hiểu lập tức bị đưa về trại giam, và hôm nay, cụ xuất hiện trước tòa như là một trong bốn bị cáo “cầm đầu”, tội nặng nhất. Tòa cũng đưa ra clip chứng minh tội của cụ Hiểu, trong đó có những tuyên bố mạnh mẽ về cách đối xử với công an. Tuy nhiên, clip có dấu hiệu cắt ghép, nhất là khi cụ Hiểu khẳng định trước tòa rằng những tuyên bố đó là hình ảnh cũ của cụ, được ghi từ năm 2017 trong vụ “khủng hoảng con tin” ở Đồng Tâm (vụ bà con Đồng Tâm bắt giữ 38 cảnh sát cơ động, tháng 4/2017). Các hình ảnh này được trộn lẫn với những đoạn phim hiện tại, do các “nhà làm phim” của công an vừa mới sản xuất. * * * Việc tra tấn, bức cung diễn ra dã man và quá rõ ràng, nhưng bị tòa chối bỏ. Việc dụ dỗ bị cáo nhận tội để cứu lấy thân nhân, giờ đã bị chính tòa “phản cung”. Việc luận tội dựa vào những phóng sự tài liệu được sản xuất, biên tập rất “có nghề”. Luật sư không được tiếp cận với bị cáo và hồ sơ vụ án một cách đầy đủ (về thời gian, không gian, cơ sở vật chất…) theo chuẩn mực quốc tế. Tòa không đếm xỉa đến các lập luận phản bác của luật sư. Tất cả những cái đó cho thấy phiên tòa xử vụ Đồng Tâm này chỉ là một thủ tục để hợp thức hóa âm mưu giết người diệt khẩu của một thế lực gian ác nào đó (mà có lẽ chính tòa và lực lượng công an bảo vệ tòa hôm nay cũng không biết là ai). Có thể thấy trước là sẽ có vài án tử hình – trước sự bất lực của những người có lương tri.    
......

Bóp Méo Pháp Luật

Đỗ Ngà| Luật pháp là một hệ thống phức tạp quy định những điều cấm để định hướng xã hội định hình trong trật tự, bảo vệ đạo đức và bảo vệ những quan điểm tiến bộ. Vì nó phức tạp nên khi viết luật rất dễ xảy ra hiện tượng điều luật này mâu thuẫn điều luật kia. Khi sự mâu thuẫn xảy ra, phải có một loại tòa án phân xử việc này, phải bãi bỏ luật nào và phải giữ lại luật nào? Chính vì thế, tại các nước dân chủ tiến bộ người ta tạo ra một loại tòa án chuyên phán quyết chuyện đúng sai của một đạo luật hay một sắc lệnh hành pháp, đó chính là Tòa Bảo Hiến. Tòa bảo hiến nó như một anh chàng gỡ gối cho luật pháp, có nó những bộ luật mang tính chất bổ trợ nhau, nếu không có nó thì trong luật lắm thứ rối rắm cản chân nhau. Việc viết luật chặt chẽ không chồng chéo, không mâu thuẫn, không cản trở nhau chỉ là một điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho một nhà nước pháp quyền. Điều kiện đủ đó là sự chuẩn mực trong thi hành luật pháp. Dù luật có viết ra có chặt chẽ cỡ nào, dù có rõ ràng cỡ nào mà hệ thống tư pháp thi hành sai quy trình tố tụng thì xem như pháp luật không nghiêm. Mà khi nhà nước thực hiện luật pháp không nghiêm thì nó là nguyên nhân chính gây nên tình trạng tội phạm phát triển. Đó là điều tất yếu. Để đảm bảo một nhà nước pháp quyền thì trước hết bộ máy chính quyền đó phải giữ đúng nguyên tắc “nhà nước chỉ làm những luật pháp quy định và công dân được quyền làm những gì luật pháp không cấm”. Với ĐCS thì họ hoàn toàn không tuân thủ nguyên tắc này. Chúng ta thường thấy hệ thống tư pháp Việt Nam hay dùng cách xử lưu động như là một phương cách “làm gương” tốt, có tính răn đe, giáo dục, giúp người dân có cơ hội tiếp cận và trang bị cho họ những kiến thức pháp luật cần thiết để tránh xa những hành vi vi phạm pháp luật. Nghe tưởng như đúng nhưng thực ra chính quyền hoàn toàn sai, ít nhất là có đến 3 cái sai: Cái sai thứ nhất, đó là không có một điều luật nào quy định chính quyền có quyền xử lưu động. Mà như ta biết, nhà nước chỉ làm những gì luật cho phép nên với với cách làm này chính quyền CS đã chà đạp lên luật pháp; Cái sai thứ nhì, đó là việc xử lưu động là một hình thức xâm phạm quyền con người của bị cáo nghiêm trọng. Bị cáo nếu có phạm tội thì họ đã trả giá cho tội của họ bằng bản án, ngoài điều đó ra không ai có quyền tự cho mình cái quyền tự ý phạm tội với họ chỉ vì họ là tội phạm; Cái sai thứ ba, đó là luật pháp quy định trẻ em dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án trừ trường hợp triệu tập. Thế nhưng xử lưu động thì ai cũng có thể chứng kiến, trong đó có những trẻ em tuổi còn rất nhỏ. Như ta biết, trẻ vị thành niên là lứa tuổi đang trong giai đoạn học hỏi để hình thành nhân cách. Tuổi càng nhỏ thì khả năng chọn lọc càng kém, đó là lý do tại sao luật pháp cấm trẻ em dưới 16 tuổi vào phòng xử án. Được biết, việc xét xử lưu động thường có cảnh diễn tả những hành động mang rợ, thậm chí còn có thể có dựng hiện trường diễn lại hình thức phạm tội trước công chúng thì rõ ràng, đây là tấm gương xấu cho trẻ vị thành niên. Việc này rất nguy hiểm cho xã hội. Ngày mai, chính quyền CS đưa 29 nông dân ở xã Đồng Tâm ra tòa xét xử với tội danh “giết người”. Cho đến nay, người ta không thể định nghĩa nổi cuộc tấn công của lực lượng công an vào thôn Hoành xã Đồng Tâm vào rạng sáng ngày 09/01/2020 như thế nào cả. Là cưỡng chế ư? Nếu là cưỡng chế thì phải đưa quân vào khu đất tranh chấp chứ sao lại tấn công vào nhà dân, nơi mà cách khu vực tranh chấp đến 3 km? Vả lại, luật pháp quy định không được cưỡng chế từ 22 giờ đêm đến 6 giờ sáng ngày hôm sau và không được cưỡng chế vào ngày lễ ngày nghỉ. Vậy thì cuộc tấn công vào rạng sáng được định nghĩa thế nào đây? Rất khó. Nếu định nghĩa là “cưỡng chế” thì rõ ràng cách cưỡng chế sai luật. Nếu cho rằng không phải là cưỡng chế thì chỉ có thể hoặc cướp hoặc hoặc tấn công giết người trả thù. Rõ ràng dù giải thích cách nào thì hành động của chính quyền vào ngày hôm đó cũng là một hành động phạm pháp. Dân đồng Tâm dù có giết người thì về bản chất là họ chống lại một lực lượng đang phạm pháp tấn công họ, hành động của họ  mang tính phòng vệ chính đáng. Còn phía ngược lại, hành động giết người của lực lượng công an CS đối với cụ Lê Đình Kình là cố sát. Tuy nhiên, điều nghịch lý là kẻ phòng vệ chính đáng lại bị đưa ra tòa xét xử còn thế lực cố sát không ai bị truy tố. Đó là bản chất của cái gọi là “pháp quyền XHCN”. Thực ra ĐCS là một tập đoàn chính trị không có ý thức thượng tôn pháp luật. Xã hội ổn định, đời sống người dân có bình yên hay không nó phụ thuộc vào tính nghiêm minh của pháp luật. Một nhà nước mà cố tình chà đạp luật pháp thì nó không những tạo ra một môi trường xã hội với tội phạm nảy nở, Và chính nó cũng là một sự đe dọa khủng khiếp đối với người dân lương thiện. Sống dưới chế độ CS, người dân Việt Nam phải chịu rất nhiều tầng lớp đe dọa. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://dantri.com.vn/…/xet-xu-luu-dong-mot-goc-nhin-khac-2… https://baomoi.com/ngay-mai-7-9-29-bi-cao-tr…/c/36283748.epi https://plo.vn/…/khong-thuc-hien-cuong-che-dat-dai-tu-22-gi…  
......

Lại chuyện sức khoẻ của lãnh đạo là Tối Mật

Phạm Nhật Bình – Việt Tân Cách đây gần 2 năm, theo Luật Bảo Vệ Bí Mật Nhà Nước được Quốc Hội cộng sản thông qua ngày 15 tháng Mười Một, 2018, những thông tin về sức khoẻ lãnh đạo đã được liệt vào phạm vi bí mật quốc gia cần được bảo vệ. Khi đạo luật này có hiệu lực vào tháng Bảy năm nay, hôm 24 tháng Tám vừa qua, ông Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành một văn bản dưới luật trong đó quy định thông tin liên quan đến các uỷ viên Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư trung ương đảng nằm trong danh mục: TỐI MẬT. Quyết định mang số 1295 này công bố ra, nếu như được Nhật Bản áp dụng nguyên xi có lẽ không có cuộc họp báo ngày 28 tháng Tám của Thủ Tướng Shinzo Abe. Tại cuộc họp báo, ông Abe cho biết bệnh tình của mình, nói rõ ra là chứng viêm loét đại tràng, và ông không muốn sự suy yếu sức khoẻ đưa đến những quyết định sai lầm trong đại sự. Thủ tướng Nhật Bản cúi đầu xin lỗi quốc dân “vì không thể làm tròn nghĩa vụ” và tuyên bố từ chức thủ tướng. Đồng thời ông hứa với người dân Nhật rằng sẽ cố gắng tổ chức tuyển cử để tìm người thay thế trong vòng 3 tuần. Thái độ của Thủ Tướng Abe quả thật là sự ứng xử của lãnh đạo một cường quốc có trách nhiệm, chẳng những của người dân Nhật Bản mà còn đối với cả thế giới. Vì người dân Nhật cũng biết rằng ông Abe dù là một lãnh đạo cao nhất chính phủ, cũng chỉ là con người. Ông đã hành xử đúng theo nguyên lý bình thường trong vòng luân chuyển “sinh lão bệnh tử,” đâu có gì phải giấu giếm. Mặt khác nếu ông chữa xong bệnh và khoẻ mạnh trở lại, ông có thể ra ứng cử nếu còn muốn chấp chánh. Giống như một năm trong nhiệm kỳ 2006-2007 ông cũng đã phải từ nhiệm vì bệnh viêm loét đại tràng, sau đó trở lại lèo lái con thuyền chính trị Nhật Bản trong suốt 8 năm từ 2012 đến ngày từ chức. Người dân Nhật sống trong tinh thần dân chủ tiến bộ, hãnh diện vì đất nước có những nhà lãnh đạo thật lòng và ứng xử minh bạch với dân như ông Abe. Đó là điểm sáng không chỉ ông Abe của Nhật Bản có, mà bất cứ nhà lãnh đạo nào của các quốc gia văn minh dân chủ đều phải có. Trong khi đó nhìn lại Việt Nam, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc lại ban hành quy định sức khoẻ của các uỷ viên Bộ Chính Trị và uỷ viên Ban Bí Thư khoảng trên dưới 20 người, được coi là “tối mật” thật là điều dị hợm và bất thường. Những người lãnh đạo đảng CSVN lo sợ điều gì mà sức khoẻ của chính mình lại không dám công khai như Thủ Tướng Abe đã làm? Khi xếp sức khoẻ của 20 người lãnh đạo tối cao của đảng, tức của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không biết ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, bà Nguyễn Thị Kim Ngân và ông Trần Quốc Vượng có thấy rằng họ đang đi ngược lại nguyên tắc minh bạch, xuyên suốt và quan trọng hơn là cố tình chối bỏ vòng sinh – lão – bệnh – tử thông thường? Giá như có uỷ viên nào trong Bộ Chính Trị hay Ban Bí Thư bị mắc bất cứ thứ bệnh nào dù nặng nhẹ ra sao, thì cứ nói thẳng ra là họ đang nằm bệnh, chữa bệnh. Một thông tin đơn giản và dễ hiểu cho tất cả mọi người trong xã hội. Thật ra người dân cũng chẳng quan tâm gì mấy tới sức khoẻ của lãnh đạo vì tất cả đã  được Ban Bảo Vệ, Chăm Sóc Sức Khoẻ Cán Bộ Trung Ương chăm sóc tận tình. Người dân chỉ tò mò tìm hiểu và thông tin cho nhau khi nhà nước nói quanh co, lấp liếm. Những tin tức hoả mù về bệnh hoạn của ông này bà nọ do nhà nước độc quyền đưa ra càng kích thích người ta đồn đoán và nghi ngờ về sự không thành thật của chế độ. Còn nếu cán bộ nào đang ở vào thời kỳ bệnh nặng họp hành không được, không tham gia công tác được thì hãy cho họ nghỉ để cho người khác thay thế. Tại sao lại cứ giữ kín để bắt người đó giữ một trách vụ mà họ không đủ khả năng chu toàn. Như trường hợp ông Đinh Thế Huynh Uỷ Viên Bộ Chính Trị khoá 12, suốt 4 năm qua không hề thấy xuất hiện và cũng không biết ông ta còn sống hay đã qua đời. Tại sao lại phải che giấu một sự thật mà ai cũng biết để làm gì, hay đảng dùng sự bí mật như trong thời kỳ hoạt động cách mạng để làm những chuyện mờ ám và coi đó là uy quyền. Qua sự kiện Thủ Tướng Abe từ nhiệm vì bệnh và quyết định nâng lên hàng “tối mật” sức khoẻ của lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN cho ta thấy mấy điều: Một, đảng CSVN thật sự rất khinh thường người dân, chẳng những vậy còn coi đảng viên của họ cũng không ra gì. Sự đạo diễn của đảng bao trùm cả những cái chết gần đây của Nguyễn Bá Thanh, Trần Đại Quang hay sự vắng mặt mờ ám của Đinh Thế Huynh minh chứng cho quyền lực độc tôn đối với mọi thành phần đảng viên. Trước những sự không minh bạch, người dân suy đoán tìm hiểu thì chế độ cho là “nói xấu lãnh đạo.” Hiện nay tình trạng sức khoẻ của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cũng đang trong tình trạng mập mờ dưới sự kềm toả của đảng, khiến dư luận lấy đó làm một đề tài đàm tiếu, chê cười trên các trang mạng xã hội. Ngay chính bản thân ông Trọng, dù đi có người dìu cũng không có can đảm và sự thành thật của một nhà lãnh đạo, dám tuyên bố từ chức như Thủ Tướng Abe của Nhật Bản. Hai, cho đến thế kỷ 21, đảng CSVN vẫn cố tình sống trong sự bưng bít, úp úp mở mở và coi đó như một chính sách khôn ngoan. Đảng bất chấp xã hội loài người đã và đang thay đổi theo hướng ngày càng minh bạch, xuyên suốt. Điều này cho thấy đảng CSVN luôn luôn tự mâu thuẫn và làm trái lại những gì họ hô hào toàn dân phải tin theo. Ba, thành phần lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư là đám người say mê quyền lực tuyệt đối. Họ che giấu và dựa vào nhau để giữ quyền, trao quyền cho nhau theo lề lối độc tôn phe nhóm, không chấp nhận sự thay đổi có lợi cho đất nước. Hơn bao giờ hết, Việt Nam là quốc gia có nhu cầu phát triển và xây dựng để trước hết bắt kịp các quốc gia trong khối ASEAN, sau nữa có một vị trí xứng đáng trên thế giới. Nhưng giới lãnh đạo Việt Nam ngoài miệng thì kêu gào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cách mạng công nghiệp 4.0 mà trong hành động thì luôn luôn giữ kín mọi chuyện trong sự bí mật.  Vậy thử hỏi làm sao đất nước tìm thấy ánh sáng để tiến lên? Phạm Nhật Bình
......

Thủ Tướng Abe và chiến lược ‘Ấn Độ – Thái Bình Dương’

Lý Thái Hùng - Web Việt Tân| Theo như dự trù, tháng Chín này, Thủ Tướng Abe sẽ có cuộc họp trực tuyến với Thủ Tướng Modi của Ấn Độ để hai phía cùng ký một hiệp định về hậu cần cho quân đội (India-Japan Acquisition and Cross-Servicing Agreement) nhằm tăng cường sự hợp tác giữa Nhật Bản và Ấn Độ trong chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương.” Việc từ chức đột ngột của Thủ Tướng Abe vì lý do sức khoẻ hôm 28 tháng Tám, đã khiến cho dư luận quốc tế quan ngại là liệu chính phủ mới của Nhật Bản có quyết tâm theo đuổi đường lối đối ngoại cứng rắn như Thủ Tướng Abe hay không? Hiệp định về hậu cần này được bắt đầu thảo luận từ sau chuyến viếng thăm Nhật Bản lần đầu tiên của Thủ Tướng Modi vào ngày 29 tháng Mười, 2018. Sau hơn một năm đàm phán, hai phía đã đồng ý mua lại và cung cấp dịch vụ chéo (Acquisition and Cross-Servicing Agreement- ACSA), cho phép quân đội Ấn Độ và Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản (JSDF) sử dụng căn cứ của nhau để hỗ trợ hậu cần. Cụ thể là qua ACSA, hải quân Ấn Độ có thể tiếp cận căn cứ của Nhật ở Dijibouti, ngược lại Lực Lượng Phòng Vệ Hải Quân Nhật được phép sử dụng các căn cứ quân sự của Ấn Độ trên quần đảo Andaman và Nicobar nằm ở Ấn Độ Dương, gần eo biển Malacca. Đây có thể coi là một nỗ lực hy hữu đối với Nhật Bản vì từ năm 1989 sau khi khối Liên Xô tan rã, nước Nhật trải qua hơn 10 đời thủ tướng, nhưng đa số không trụ được lâu vì loay hoay giải quyết tình trạng suy thoái kinh tế triền miên và duy trì mối quan hệ cố hữu với Hoa Kỳ mà thôi. Chỉ có Thủ Tướng Abe không chỉ ngồi ghế thủ tướng lâu nhất với 8 năm liên tục từ ngày 26 tháng Mười Hai, 2012 đến 28 tháng Tám, 2020 nhờ vào chính sách cải cách kinh tế, nổi tiếng với tên gọi Abenomics, nhằm khắc phục “giảm phát” (deflation), kích thích tài khóa (fiscal stimulus) và cải cách cơ cấu để tăng trưởng (pro-growth structural reforms).  Ông Abe còn được ghi nhận về nỗ lực đưa nước Nhật ra đóng góp với cộng đồng thế giới trong vai trò “một cường quốc Á Châu có trách nhiệm.” Hai nỗ lực đối ngoại mà Thủ Tướng Abe đã dành hết tâm trí và công sức đóng góp cho khu vực Á Châu là Hiệp Định Mậu Dịch Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương.” Đương nhiên hai nỗ lực này cũng là nhằm nâng cao vị trí quốc tế của Nhật Bản, và là động lực chính yếu để ông Abe thúc đẩy Quốc Hội sửa đổi Hiến Pháp bằng cách bỏ điều 9 trong Hiến Pháp 1947 (cam kết Nhật Bản không phát động mọi cuộc chiến và vì thế không được duy trì quân đội), để Nhật Bản có thể xây dựng một lực lượng quân đội thay vì chỉ được phép duy trì lực lượng tự vệ. Tuy Thủ Tướng Abe không thành công trong việc cải sửa Hiến Pháp, nhưng việc Quốc Hội vào tháng Chín, 2015 đồng ý sửa một số luật nhằm tăng cường vai trò của Lực Lượng Tự Vệ Nhật Bản là một bước tiến tốt, cho phép lực lượng này có thể bảo vệ các đồng minh trong trường hợp họ bị tuyên chiến, bất chấp sự lo ngại và phản đối mạnh mẽ của Trung Quốc, Nam Hàn và Bắc Triều Tiên. Đối với chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương,” Thủ Tướng Abe là người đầu tiên khởi xướng Đối Thoại An Ninh Bốn Bên (Quad) giữa Nhật, Mỹ, Úc và Ấn Độ trong nhiệm kỳ thủ tướng lần thứ nhất từ tháng Chín, 2006 đến tháng Chín, 2007, nhưng rồi phải từ chức như hiện nay vì chứng bệnh hiểm ác “viêm đại tràng” tái phát. Vào lúc đó, Thủ Tướng Abe cho rằng tương lai của khu vực Á Châu Thái Bình Dương không thể phát triển và trở thành đầu tàu của Thế Giới, nếu không nối kết với khu vực Ấn Độ Dương và để xây dựng khu vực này ổn định, trách nhiệm đặt trên vai của 4 quốc gia mà ngày hôm nay gọi chung là Bộ Tứ (Nhật, Úc, Ấn, Mỹ). Điều này được Thủ Tướng Abe khẳng định khi phát biểu tại Quốc Hội Ấn Độ trong chuyến viếng thăm ba ngày vào tháng Tám, 2007 khi tuyên bố: “Ấn Độ – Thái Bình Dương đang mang lại mối quan hệ tay đôi năng động như đại dương của tự do và thịnh vượng trong thế kỷ 21.” Sau gần 5 năm trị bệnh, ông Abe trở lại chính trường và được bầu làm thủ tướng lần thứ hai vào ngày 26 tháng Mười Hai, 2012. Trong thời kỳ đầu, do vấn đề xung đột quần đảo Senkaku và vấn đề lịch sử giữa Nhật và Trung Quốc nên Thủ Tướng Abe đã chọn thái độ cứng rắn đối với Bắc Kinh, đồng thời Nhật Bản đã dành nhiều nỗ lực hợp tác và viện trợ một số nước trong khối ASEAN, đặc biệt là Việt Nam cũng như hợp tác với Tổng Thống Obama đẩy mạnh việc đàm phán Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Nếu “Ấn Độ – Thái Bình Dương” là vành đai tạo dựng kỷ nguyên mới cho Á Châu trong Thế Kỷ 21, thì TPP theo quan điểm của Thủ Tướng Abe, là sân chơi với một loạt những “chuẩn mực hành động và ứng xử” tiên tiến, không chỉ về thương mại mà bao gồm cả công nghệ, nghiệp đoàn, lao động, đầu tư, giáo dục, du lịch,… và sẽ là thước đo mới cho những giao thương giữa các nước, giữa các khu vực trong tương lai. Vì thế mà Thủ Tướng Abe đã vận động Quốc Hội Nhật Bản là quốc gia đầu tiên phê chuẩn Hiệp định TPP sau khi 12 nước chính thức thông qua vào ngày 4 tháng Hai, 2016 tại New Zealand. Tuy nhiên, ngày 30 tháng Giêng, 2017, Hoa Kỳ chính thức tuyên bố rút lui khỏi Hiệp Định TPP đã khiến cho Thủ Tướng Abe không chỉ thất vọng mà còn suy sụp tinh thần. Cựu Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull (nhiệm kỳ từ 15/9/2015 – 24/8/2018) đã là người tích cực hỗ trợ và đồng hành với Thủ Tướng Abe vào lúc đó. Theo lời kể của cựu Thủ Tướng Malcolm Turnbull, hầu hết mọi người, kể cả Thủ Tướng Abe, đều coi như thỏa thuận TPP đã chết; nhưng ông Malcolm Turnbull cho rằng 11 nước còn lại vẫn phải tiến hành dù không có Hoa Kỳ và đã thuyết phục được ông Abe sẵn sàng “lãnh đạo” để làm sống lại TPP-11. May mắn thay, 11 quốc gia còn lại gồm Úc, Việt Nam, New Zealand, Mexico, Peru, Canada, Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Brunei, Chile đồng ý tiếp tục đàm phán trong khuôn khổ của 11 nước và hẹn nhau ký kết vào tháng Mười Một, 2017 nhân Hội Nghị APEC tổ chức tại Đà Nẵng. Nhưng theo ông Malcolm Turnbul thì đến giờ phút cuối, Canada từ chối tham dự cuộc họp chung, khiến cho đại diện các nước thêm một lần nữa thất vọng. Nhưng thái độ của Thủ Tướng Abe lần này lại khác, ông không giận hay bất bình mà cố gắng thuyết phục các quốc gia tiếp tục duy trì dù là TPP-10 hay TPP-9, vì hiệp định này có lợi trên hai mặt kinh tế và an ninh chiến lược vào lúc này. Cuối cùng sau những vận động từ phía Nhật Bản và Úc Châu, chính quyền Thủ Tướng Justin Trudeau của Canada đã quay trở lại và hiệp định đã được ký vào tháng Ba, 2018 với tên mới là Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP). Cựu Thủ Tướng Malcolm Turnbull đã viết về Thủ Tướng Abe như sau: “Hiệp định CPTPP nếu không có tầm nhìn chiến lược và quyết tâm từ phía Thủ Tướng Abe, chắc chắn nó đã chết. Thỏa thuận này đã bất chấp làn sóng đang lớn mạnh của chủ nghĩa bảo hộ; nhưng sự ra đời của CPTPP đồng nghĩa với nhu cầu của thời đại, mà các quốc gia khác, bao gồm cả Hoa Kỳ, sẽ có thể tham gia theo thời gian khi thấy rõ tầm chiến lược của ‘Ấn Độ – Thái Bình Dương’ trong những năm trước mặt.” Nay tầm nhìn “Ấn Độ – Thái Bình Dương” đang trở thành hiện thực. Trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy và đe dọa đảo lộn trật tự thế giới, khiến đa số các quốc gia đều bối rối trước sự xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thì vai trò của Nhật Bản tại khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương càng quan trọng hơn. Trong tám năm cầm quyền, Thủ Tướng Abe đã nổi lên như một lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược của Á Châu nói riêng và thế giới nói chung. Việc Thủ Tướng Abe từ chức vào lúc này không chỉ là điều đáng tiếc trong lúc thế giới đang biến động khó lường, mà còn để lại một khoảng trống chính trị rất lớn tại Nhật Bản khi những người kế thừa chưa được chuẩn bị. Hiện có ba nhân vật đang chuẩn bị cho cuộc đua ghế thủ tướng sẽ chính thức quyết định trong cuộc họp bất thường của Quốc Hội vào ngày 16 tháng Chín. Nhưng trước đó, ba nhân vật gồm ông Shigeru Ishiba, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng; ông Fumio Kishida, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao; và ông Yoshihide Suga, Chánh Văn Phòng Nội Các sẽ phải trải qua cuộc bầu cử chức chủ tịch đảng Tự Do Dân Chủ (LDP) vào ngày 14 tháng Chín. Tân chủ tịch LDP đương nhiên sẽ là thủ tướng, vì LDP chiếm quá bán trong Quốc Hội. Cả ba nhân vật này có khuynh hướng khác nhau: Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Shigeru Ishia, luôn luôn đối nghịch với Thủ Tướng Abe và cho rằng Nhật Bản phải duy trì sự hữu nghị với Trung Quốc để thúc đẩy giao thương kinh tế. Trong khi đó, Chánh Văn Phòng Nội Các Yoshihide Suga thì tiếp tục kế thừa các chính sách của Thủ Tướng Abe, đặc biệt duy trì chính sách kinh tế Abenomics và đẩy mạnh chiến lược “Ấn Độ – Thái Bình Dương.” Và, trong khi đó, cựu Ngoại Trưởng Fumio Kishida thì không có chủ trương rõ ràng, chọn lối trung dung ở giữa trước sự xung đột gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay. Theo kết quả thăm dò của giới truyền thông Nhật thì hiện có 5 trong 7 hệ phái lớn của đảng LDP chính thức ủng hộ Chánh Văn Phòng Nội Các Yoshihide Suga vì không muốn có những thay đổi về đường lối đối ngoại vào lúc này. Ai lãnh đạo cường quốc kinh tế thứ ba này trên thế giới chắc chắn sẽ có ảnh hưởng quan trọng tới tình hình trong khu vực giữa những căng thẳng hiện nay và hệ quả kéo dài của dịch COVID-19. Lý Thái Hùng  
......

Ưng Khuyển "Dân Quân"

Đỗ Ngà| Dân quân là một loại mô hình lực lượng vũ trang trá hình rất đặc thù của CS. Mỗi dân quân có nhiệm vụ đóng tròn 2 vai, vai người dân lao động sản xuất và vai người lính chịu sự chỉ huy của lực lượng vũ trang. Cái lợi của loại mô hình này là sự biến hình. Khi nó đi gây tội ác theo chỉ đạo, thì chính quyền có thể chối “đó là quần chúng tự phát” chứ không phải chủ trương của đảng. Phải nói rằng, lực lượng dân quân là công cụ hiệu quả giúp chính quyền CS muốn đạp lên luật pháp để đạt mục đích xấu xa. Lực lượng quân đội chuyên nghiệp là những người lính có huấn luyện bài bản, mục đích là “thao trường đổ mồ hôi chiến trường ít đổ máu”. Thế nhưng với lực lượng dân quân thì không cần phải tiết kiệm sinh mạng, cứ cho nó chết vì loại này dốt nát dễ dụ. Lực lượng dân quân của ĐCS Việt Nam được gọi dưới cái tên mỹ miều là “dân quân tự vệ”. Họ thêm “tự vệ” vào sau chủ yếu là mị dân chứ lực lượng này chẳng phải tự vệ gì cả, mà nó luôn là lực lượng tấn công. Trước năm 1975, loại lực lượng này ngày làm nông dân đêm thì tấn công vào các cở sở dân sự của VNCH giết người bừa bãi. Kỹ năng tốt nhất của dân quân tự vệ là khả năng “biến hình” với ngày làm nông dân, đêm làm tay súng. Thực chất kỹ năng chiến đấu của lực lượng này không cao nên ít khi nó được nhận lãnh trách nhiệm tấn công vào lực lượng chính quy phía bên kia. Vì nếu tấn công vào lực lương chính quy thì thường nó bị tổn thất nhân mạng nhiều. Ngày trước lực lượng dân quân làm ưng khuyển cho quân đội Bắc Việt thì ngày nay nó làm ưng khuyển cho lực lượng công an. Thành phần này thì chỉ làm được kiếp ưng khuyển thôi chứ chẳng làm được khá hơn. Vì sao? Vì thành phần được tuyển vào lực lượng này hầu hết là những kẻ dốt nát có nhận thức rất kém, đa phần bọn này không hiểu được đúng sai nên chúng chỉ làm công cụ thực hiện những điều xấu xa của kẻ ra lệnh. Vì vậy, khi chính quyền muốn cướp đất hay trấn áp biểu tình, thì họ xua lực lượng này nhảy bổ vào dân cắn càn rất nguy hiểm. Theo con số của giáo sư Carl Thayer đưa ra thì hiện nay cả nước có khoảng 1,2 triệu công an và khoảng 5,5 triệu thành phần dân quân dưới trướng. 5,5 triệu là con số rất lớn. Như ta biết, số lượng quân chính quy của Mỹ chỉ có 1,4 triệu, đông thứ nhì. Còn quân đội Tàu Cộng được biết là đông nhất thế giới cũng chỉ có 2,3 triệu, ấy vậy mà bọn ưng khuyển của công an đến 5,5 triệu. Với ưng khuyển đông như vậy, thì công an CS Việt Nam đủ sức bóp nát mọi cuộc biểu tình được tính bằng đơn vị “nghìn người”. Mô hình dân quân là một mô hình mà Việt Cộng bắt chước đàn anh Trung Cộng. Có điều, Tàu Cộng không những dùng ưng khuyển cắn càn dân mình mà còn cắn luôn cả người dân nước khác. Theo Sách Trắng Quốc phòng Tàu Cộng năm 2019, thì kể từ năm 2012 nước này đã triển khai 950 ngàn lượt binh sĩ quân đội và cảnh sát vũ trang. Thêm vào đó là họ tạo ra hơn 1,4 triệu dân quân tham gia các hoạt động trên biển Đông. Được biết, lực lượng được gọi là “dân quân” của Tàu Cộng không phải amateur như dân quân CS Việt Nam mà là lực lượng vũ trang chuyên nghiệp được huấn luyện kỹ càng như một binh sĩ. Nói chung là binh sĩ đội lốt ngư dân. Mỗi khi đám dân quân này tấn công ngư dân Việt thì chính quyền Tàu Cộng sẽ dễ dàng chối bỏ trách nhiệm, còn nếu ai dám tấn công đám dân quân này thì đó là cái cớ để quân chính quy Tàu Cộng tràn xuống Biển Đông. Và thực tế, khi bọn “dân quân” này chiếm giữ biển Đông thì cả hải Quân và Cảnh Sát Biển CS Việt Nam đều phải nằm bờ né tránh. Dân quân là một lực lượng vô cùng nguy hiểm. Hãy nhìn đám dân quân Tàu nguy hiểm với Việt Nam như thế nào, thì đám “dân quân tự vệ” của Việt Cộng cũng nguy hiểm với nhân dân như vậy. Thật đáng sợ cho cái gọi là “lực lượng dân quân”. Chưa có một chế độ nào bày ra cái trò vừa thâm vừa ác như CS. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://tuoitre.vn/20-nuoc-co-tiem-luc-quan-su-manh-nhat-th… https://thanhnien.vn/…/luc-luong-hung-than-tren-bien-dong-1… https://www.nguoi-viet.com/…/bo-cong-csvn-xoa-6-tong-cuc-t…/  
......

Đôi điều về mục tiêu năm 2025, 2030 và 2045 của Việt Nam

Nguyen Ngoc Chu| Ngày 02/9/2020 Cổng TTĐT Chính phủ giới thiệu bài viết của TBT CTN Nguyễn Phú Trọng có tiêu đề “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới“. Trong bài viết có nêu ra mục tiêu cho các năm 2025, 2030 và 2045. Cụ thể là: – Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. – Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. – Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. VÀI SỐ LIỆU VỀ XẾP HẠNG THU NHẬP GDP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI 1.Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2019 thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2019 là 2.750 usd xếp thứ 129/187 quốc gia. Trong bảng thống kê này, Singapore có thu nhập GPD bình quân đầu người 64.041 usd xếp thứ 7, Úc xếp thứ 10 (56.352 usd), Nhật Bản xếp thứ 24 (39.306 usd), Hàn Quốc xếp thứ 28 (31.346 usd), Kuwait xếp thứ 30 (30.839 usd), Slovakia xếp thứ 40 (19.582 usd), Palau xếp thứ 50 (16.091usd), Nga xếp thứ 60 (11.327 usd), Malaysia xếp thứ 63 (10.942 usd), Trung Quốc xếp thứ 67 (9.608 usd) Serbia xếp thứ 80 (7.243 usd), Thái Lan xếp thứ 81 (7.187 usd), Iraq xếp thứ 90 (5.930 usd), Tonga xếp thứ 100 (4.666 usd), Indonesia xếp thứ 115 (3.871 usd), Philippines xếp thứ 127 (3.104 usd). 2. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới năm 2017 thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017 là 2.343 usd xếp thứ 133/186 quốc gia. Trong bảng thống kê này, Thuỵ Sĩ có thu nhập GPD bình quân đầu người 80.190 usd xếp thứ 3, Vương quốc Anh xếp thứ 22 (39.720 usd), Slovenia xếp thứ 35 (23.597 usd), Hy lạp xếp thứ 40 (18.613 usd), Chile xếp thứ 50 (15.346 usd). 3. Theo thống kê của Liên hợp quốc năm 2017 thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017 là 2.342 usd xếp thứ 135/192 quốc gia. Trong bảng thống kê này, Mỹ có thu nhập GDP bình quân đầu người là 60.055 usd xếp thứ 9, Đức xếp thứ 18 (44.976 usd), Tây Ban Nha xếp thứ 33 (28.354 usd), Latvia xếp thứ 50 (15.625 usd), Lào xếp thứ 134 (2.457 usd) (https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_c%C3%A1c_qu%E1%BB%91c_gia_theo_GDP_(danh_ngh%C4%A9a)_b%C3%ACnh_qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BA%A7u_ng%C6%B0%E1%BB%9Di) CÂU HỎI VỀ VỊ TRÍ VIỆT NAM? 1. – “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.” “Qua mức trung bình thấp” ở đây là bao nhiêu usd và giữ vị trí bao nhiêu trên bảng xếp hạng? Thứ 90? 100? Xin lưu ý rằng, nếu bảng xếp hạng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2019 xếp Tonga thứ 100 với thu nhập GDP bình quân đầu người là 4.666 usd thì đến năm 2025 vị trí thứ 100 sẽ có thu nhập GDP bình quân đầu người lớn hơn 4.666 usd. Đó là do sự thay đổi sức mua của tiền tệ và sự tiến bộ của tất cả các nước. Các nước đều tiến lên, chứ không phải các nước dừng cho mỗi một mình Việt Nam tiến lên. Cho nên, ước lượng rằng, vị trí thứ 100 vào năm 2025 sẽ có mức thu nhập GPD bình quân đầu người lớn hơn 6.000 usd. Bởi vậy, đến năm 2025 Việt Nam có được xếp hạng ở vị trí trong khoảng 90 – 100 không? Thu nhập GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2025 có vượt 6.000 usd không? Có nguồn tin cho biết có thể Việt Nam đến năm 2025 đạt thu nhập GDP bình quân đầu người là 4.688 usd. Con số này không đưa Việt Nam lọt vào top 100.   -“Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”. Thu nhập trung bình cao là bao nhiêu usd? và tương ứng là vị trí thứ bao nhiêu trên bảng xếp hạng? Thu nhập trung bình cao phải tương đương với vị trí xếp hạng trong khoảng 40 – 50. Tương ứng theo giá trị năm 2019 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế là Slovakia (19.582 usd, vị trí 40) và Palau (16.091 usd, vị trí 50). Nhưng nếu tính sự thay đổi sức mua của tiền tệ và sự tiến bộ của các nước khác, thì để có vị trí thứ 50 vào năm 2030, tối thiểu phải có thu nhập GDP bình quân đầu người từ 22.000 usd trở lên. Việt Nam có thể đạt được con số 22.000 usd vào năm 2030? Theo tính toán của ngân hàng Standard Chartered Ấn Độ thì với tốc độ tăng trưởng GDP 7% năm, đến năm 2030 thu nhập GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 10.400 usd.   “- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Thu nhập cao phải nằm ở vị trí 1-30 trên bảng xếp hạng thế giới. Theo bảng xếp hạng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2019 thì vị trí thứ 30 là của Kuwait (30.839 usd). Đến năm 2045, để giữ được vị trí thứ 30 thì thu nhập GDP bình quân đầu người phải đạt được ở mức khoảng 55.000 – 60.000 usd, tương đương với thu nhập GPD bình quân đầu người của Úc năm 2019 (56.352 usd, vị trí 10). CHỈ LẬP KẾ HOẠCH 5 NĂM Mỗi nhiệm kỳ chỉ có 5 năm. Cho nên chỉ lập kế hoạch 5 năm. Đừng đặt kế hoạch hộ đời sau. Vì trước hết là không bao giờ đúng. Thời cựu TBT Nông Đức Mạnh đã đặt mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp. Mục tiêu đó đã trở thành mục tiêu hão. Điều quan trọng nữa, là cờ đến tay ai người đó phất. Lịch sử Việt Nam 70 năm trở lại đây đã minh chứng, rằng người sau chẳng bao giờ nghe theo người trước. Sau Cụ Hồ, cố TBT Lê Duẩn thay đổi cả tên nước lẫn tên đảng. Vừa mới đây thôi, ước muốn cố TBT Lê Khả Phiêu được hoả thiêu và rắc tro trên 3 dòng sông cũng không thực hiện được. Thế giới vô cùng phức tạp, lại diễn biến hàng ngày. Không lập kế hoạch dài hạn không ai chê không sáng suốt. Lập kế hoạch dài hạn không đúng, chỉ dẫn đến mất lòng tin. CÓ CON ĐƯỜNG NÀO KHÁC KHÔNG? Cách đây 50 năm Hàn Quốc và Singapore đều nằm vào nhóm các quốc gia có thu nhập thấp của thế giới. Thế mà nay Hàn Quốc trở thành cường quốc, còn Singapore lọt vào top 10 quốc gia có thu nhập GDP bình quân đầu người cao nhất thế giới. Nếu Việt Nam không thay đổi, thì các mục tiêu 2025, 2030, và 2045 sẽ đi theo vết xe đổ của cựu TBT Nông Đức Mạnh./.  
......

Chiến tranh, con đường ngắn nhất dẫn đến hòa bình trên Biển Đông

Phi cơ thám thính U2 của Mỹ.   “…Chiến tranh bùng nổ dù là chiến tranh giới hạn, các nước nhỏ trong vùng cũng sẽ không thể tiếp tục chính sách “đu dây”, “bắt cá hai tay” hay “trung lập” mà buộc phải chọn một bên…” Trần Trung Đạo| Lịch sử cho thấy, từ trên tang thương chết chóc, chiến tranh cũng đã mở ra một sinh lộ khác cho nhiều dân tộc.  Nếu không có Thế Chiến Thứ Nhất, Đế Quốc Ottoman có thể còn tồn tại không biết bao lâu và các quốc gia như Tiệp Khắc, Ba Lan, Albania, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia, Estonia, Latvia v.v… chưa hẳn đã có mặt trên bản đồ thế giới.  Thế giới từ đó đã thay đổi quá nhanh và quá nhiều. Khoa học kỹ thuật đã bước một bước dài. Trái đất mỗi ngày một nhỏ lại vì dân số tăng nhanh, tuổi thọ kéo dài và tử vong do bịnh tật giảm.  Gần hai phần ba dân số thế giới đang cư ngụ tại Á Châu. Trục văn minh phát triển và cả mầm mống của những xung đột đang sinh sôi nảy nở ở Á Châu. Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc còn là một nước chậm tiến, nhưng hiện nay là một đế quốc độc tài, chuyên chế đầy tham vọng và đang đe dọa chủ quyền của nhiều nước chung quanh.  Sự trỗi dậy của một quốc gia không phải là điều đáng lo ngại, vì trong lịch sử nhân loại đã có nhiều quốc gia trỗi dậy bên cạnh nhiều đế quốc suy tàn. Những quốc gia như Iran đang chịu đựng sự hà khắc tôn giáo, hay Iraq đang sống trong khủng bố hàng ngày, một thời là những đế quốc văn minh và cường thịnh.  Tuy nhiên sự trỗi dậy của Trung Cộng thì khác. Giới cầm quyền tại Trung Cộng từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình giương cao ngọn cờ “mối hận một trăm năm sỉ nhục”, giống như Hitler vận dụng “hiệp ước bất bình đẳng Versailles” nhưng ở mức độ cao hơn nhiều lần, và do đó tai họa trầm trọng hơn nhiều lần.  Dân số Đức khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ là 79 triệu, trong khi dân số Trung Cộng năm 2019 là 1.428 triệu. Lý thuyết quân sự của Hitler là tấn công “chớp nhoáng” (Blitzkrieg) để ít tiêu hao, trong khi Trung Cộng dùng chiến thuật “lấy thịt đè người” làm điểm mạnh. David M. Finkelstein trong nghiên cứu Chiến Lược Quân Sự Quốc Gia Của Trung Quốc (China’s National Military Strategy) tổng kết ba mục tiêu của Trung Cộng theo thứ tự: (1) Bảo vệ đảng và bảo vệ ổn định, (2) Bảo vệ chủ quyền và chống lại sự xâm lược, và (3) Hiện đại hóa quân đội và xây dựng quốc gia. Trong số ba mục tiêu trên “bảo vệ đảng” đứng đầu. Quan điểm về “bảo vệ chủ quyền” của Trung Cộng, cũng theo David M. Finkelstein, không chỉ chủ quyền trên lục địa Trung Quốc mà bao gồm cả khu vực mà giới cai trị Trung Cộng gọi là “Biển Nam Trung Hoa lịch sử”.  Tham vọng là một chuyện, thực hiện được tham vọng là chuyện khác. Muốn thống trị Á Châu, Trung Cộng phải vượt qua được Mỹ về kinh tế và nhất là kỹ thuật chiến tranh.  Hầu hết các nhà nghiên cứu và phân tích quốc phòng đều đồng ý về kỹ thuật chiến tranh Trung Cộng còn thua quá xa Hoa Kỳ. “Thua quá xa” là bao nhiêu tùy thuộc vào thể loại vũ khí và các mẫu dữ kiện dùng để phân tích của mỗi nhà nghiên cứu.  Chẳng hạn, theo nghiên cứu về sức mạnh nguyên tử của Trung Cộng 2019 (Chinese nuclear forces, 2019) của Hans M. Kristensen, Giám đốc Đề Án Thông Tin Nguyên Tử thuộc Liên Đoàn Khoa Học Gia Hoa Kỳ (Director of the Nuclear Information Project with the Federation of American Scientists), nếu chỉ tính đầu đạn nguyên tử, Mỹ hiện có 5.800 đầu đạn trong lúc Trung Cộng chỉ có 290 đầu đạn. Trung Cộng không ngừng gia tăng sản xuất vũ khí nguyên tử, với hy vọng mười năm nữa trong kho sẽ có từ 400 đến 500 đầu đạn.  Bài học Chiến Tranh Triều Tiên cho các nhà chiến lược Mỹ thấy không thể ngăn chận sức tấn công biển người của Trung Cộng trong chiến tranh quy ước. Để đánh bại Trung Cộng, chiến tranh hạt nhân phải được đặt ra. Thật ra ngay cả trong chiến tranh Triều Tiên, đối diện với chiến thuật biển người của Trung Cộng, việc sử dụng bom nguyên tử cũng đã được nghĩ tới mặc dù Thống tướng Douglas MacArthur chưa bao giờ chính thức yêu cầu. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, từ thời điểm này cho đến khi Trung Cộng công khai thách thức Mỹ về quân sự. Các bài học lịch sử cho thấy một biến cố nhỏ có thể khơi mào cho một cuộc xung đột chiến tranh lớn.  Tuần rồi Trung Cộng bắn hai hỏa tiễn vào Biển Đông như một cách để trả đũa việc máy bay thám thính U-2 của Mỹ bay trong khu vực Trung Cộng gọi là “vùng cấm bay quân sự” (No-fly zone). Hai hỏa tiễn, một DF-26 có tầm xa 4.000 km và một DF-21 có tầm xa khoảng 1.800 km. Cả hai rơi vô hại trong khu vực giữa Hoàng Sa và Hải Nam.  Khi đọc bản tin Trung Quốc bắn cảnh cáo, người viết thầm ước phải chi xạ thủ Trung Cộng lỡ tay bắn lạc về hướng của một trong những khu trục hạm nguyên tử của Mỹ như USS Barry, USS Mustin, USS Rafael, hay bắn lạc vào hướng của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đang tuần tra khu vực Tây Thái Bình Dương, hoặc USS Nimitz đang tuần tra khu vực Đông Thái Bình Dương.  Bộ Tư Lịnh Không Lực Thái Bình Dương Hoa Kỳ (US Pacific Air Forces) xác nhận U-2 có bay nhưng không vi phạm luật quốc tế nào và sẽ tiếp tục bay. Bản thông cáo báo chí viết: “Một chuyến bay của U-2 đã được tiến hành trong khu vực hoạt động của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và trong khuôn khổ các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận. Không Lực Thái Bình Dương sẽ tiếp tục bay và hoạt động ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, vào thời điểm và nhịp độ do chúng tôi lựa chọn." Chiến tranh Châu Á bùng nổ một cách đột biến, ngoài dự tính và không chuẩn bị của các bên là giải pháp nhanh gọn và là con đường ngắn nhất để chận đứng tham vọng bành trướng của Tập Cận Bình trên Biển Đông.  Tại sao?  Bởi vì mười năm hay hai chục năm nữa hệ thống quốc phòng của cộng sản Việt Nam, Philippines, Mã Lai hay các nước nhỏ quanh Trung Cộng cũng không thay đổi và cho dù có cải tiến cũng chẳng làm mới được bao nhiêu.  Tuy nhiên, một năm đối với Trung Cộng là một bước thay đổi lớn. Giống như Hitler chạy đua với thời gian từ 1935 đến 1939 để đưa quân số Đức từ một trăm ngàn lên đến hơn bốn triệu, Tập Cận Bình chủ trương hiện đại hóa quốc phòng bằng mọi cách, kể cả tung gián điệp để mua chuộc những kẻ ham tiền hay bần tiện hơn là ăn cắp.  Nhật Bản và Hoa Kỳ, trong lãnh vực an ninh và quốc phòng, đang gần nhau hơn bao giờ hết. Xung đột biên giới giữa Ấn Độ và Trung Cộng đang diễn ra không chỉ còn trong bàn hội nghị mà cả ngoài mặt trận. Vòng vây Trung Cộng mỗi thời kỳ thêm siết chặt nhưng sẽ rất chậm vì các quan hệ kinh tế thương mại chồng chéo lên nhau.  Chiến tranh bùng nổ dù là chiến tranh giới hạn, các nước nhỏ trong vùng cũng sẽ không thể tiếp tục chính sách “đu dây”, “bắt cá hai tay” hay “trung lập” mà buộc phải chọn một bên. Các chế độ độc tài, nhu nhược, đi ngược với quyền lợi sống còn của dân tộc sẽ bị nhân dân lật đổ. Vì quyền lợi hậu chiến, các nước phát triển sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong việc nhổ cây đinh Trung Cộng, hay ít nhất đẩy Trung Cộng trở vào lục địa.  Giới cầm quyền Trung Cộng khi đó sẽ đứng trước viễn ảnh bị vỡ nát theo một cuộc chiến tranh toàn diện, hay thỏa hiệp để bảo vệ lục địa. Nếu chọn lựa bảo vệ lục địa, nhiệm vụ bảo vệ đảng của quân đội sẽ quan trọng hơn bảo vệ chủ quyền trên các hải đảo xa xôi. Các “status quo” dưới hình thức đảo nhân tạo do Trung Cộng đơn phương thiết lập sẽ bị tháo gỡ. Đó là những viễn ảnh đầy lý tưởng. Đưa ra những hình ảnh lạc quan không phải để rồi đắp chiếu ngủ chờ ngày mai trời sẽ sáng, Trung Cộng sẽ sụp đổ, đảng Cộng sản sẽ bước xuống, nhưng để cùng nhau nỗ lực để đưa đất nước ra khỏi chế độ độc tài cộng sản mở đường hội nhập vào dòng sống dân chủ văn minh của nhân loại và thời đại.  Con đường trước mặt rất gian nan nhưng sẽ rất vinh quang.    
......

Hội nghị thành đô ( 3.9.1990) chính là con đẻ của Cách mạng Tháng 8! - Kỳ 2

Ts Âu Dương Thệ| Hội nghị Thành đô - Cầu hòa với Bắc kinh ở thế „Kim ngưu“   Trong quan hệ VN-TQ sau 1975 có lẽ Hội nghị Thành đô ở Tứ xuyên (TQ) vào đầu tháng 9.1990 có tầm quan trọng đặc biệt, nó ảnh hưởng trực tiếp sâu xa và lâu dài tới ngoại giao và an ninh quốc phòng của VN nói chung và cả thái độ của chế độ toàn trị đối với nhân dân nói riêng, đặc biệt đối với các giới trong xã hội và cả một phần quan trọng trong đảng muốn có một VN độc lập. Vì từ sau Hội nghị này, chế độ toàn trị phải hủy bỏ các lễ kỉ niệm hàng năm về cuộc chiến tranh biên giới đầu 1979 để thực hiện yêu cầu „khép lại quá khứ“ của cựu thù; không những thế còn cấm đoán và đàn áp nhân dân tham gia các cuộc thăm viếng các nghĩa trang chôn cất các bộ đội đã hi sinh cho cuộc chiến này! Đặc biệt nghiêm trọng là nhóm cầm đầu dùng mọi cách cấm đoán, đàn áp các cuộc biểu tình của thanh niên và trí thức và bắt giam nhiều người trong các cuộc biểu tình tố cáo các hành động xâm lấn của TQ trên biển Đông. Hội nghị Thành đô đánh dấu sự thay đổi sâu sắc và toàn bộ của chế độ toàn trị không chỉ về chiến lược ngoại giao-quốc phòng và an ninh, mà còn quyết định cả mục tiêu dài hạn trong các lãnh vực này. Liệu những người có trách nhiệm trong quyết định này khi đó có đủ sáng suốt, bình tĩnh và tầm nhìn về những hậu quả về những việc làm của họ đối với VN, hay chỉ giải quyết theo tình thế để nhằm cứu đảng như các giai đoạn 1944 - 45, khi tìm cách mua chuộc -bằng các kí lô vàng quyên được từ nhân dân qua „Tuần lễ vàng“- các tướng của đoàn quân Tưởng Giới Thạch xuống miền Bắc tiếp quản và giải giới quân đội Nhật cuối Thế chiến Thứ 2. Hay cũng như kế hoãn binh tạm hòa với Pháp để cứu chính quyền CS mới thoát nôi vài tháng qua thủ đoạn HCM đội lốt chính quyền Việt Minh sang Pháp đàm phán nhưng giao cho Võ Nguyên Giáp (BT Nội vụ) và Huỳnh Thúc Kháng thẳng tay đàn áp các đảng đối lập không CS ở trong nước. Tất cả những thủ thuật chính trị quỉ quyệt và tàn bạo này đã được HCM lập lại với câu „Dĩ bất biến, ứng vạn biến“, phải cứu đảng bằng mọi giá! Đã gần 30 năm trôi qua nhưng BCT vẫn giữ bí mật và không dám công bố các tài liệu trực tiếp liên hệ tới Hội nghị Thành đô cũng như tiến trình đi tới quyết định để TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐCP Đỗ Mười và Cố vấn BCHTU Phạm Văn Đồng thân hành bí mật sang gặp TBT Giang Trạch Dân và TT Lý Bằng tại „Kim ngưu tân quán“ (Nhà khách chính phủ) ở Thành đô (Tứ xuyên) ngày 3 và 4. 9.1990. Đây vẫn là thái độ cực kì sai lầm coi việc nước, việc chung liên quan tới tương lai cả một dân tộc là chuyện riêng của một nhóm vài người. Nhưng đây cũng chứng tỏ sự lo ngại của chế độ toàn trị trước phản ứng của dư luận về quyết định đi họp Hội nghị Thành đô. Một số những tài liệu bên lề do một số cán bộ cao cấp, như Hồi ức của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, hay của nhân vật chính trong cuộc nhưng để một thân tín viết lại như sách kể về Tướng Lê Đức Anh của Đại tá Khuất Biên Hòa…Qua đó Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh được coi là những người chủ động trong kế hoạch Thành đô. Các cố vấn BCHTU Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ vì lí do sức khỏe chỉ đóng vai cố vấn nhiều hơn. Riêng Trường Chinh chỉ tham dự một số cuộc họp của BCT thảo luận về chính sách mới với BK, nhưng ông đã mất cuối tháng 9.1988. Chỉ sau Đại hội 6 vài tháng, đầu tháng 3.1987 BCT đã họp để bàn về chính sách đối với TQ. Điều nên để ý là, cuộc họp quan trọng này đã không diễn ra ở trụ sở Trung ương đảng như thường lệ, nhưng lại tại „Nhà Con rồng-Bộ Quốc phòng“. Đáng chú ý nữa, đây không phải là cuộc họp BCT bình thường mà lại là "Bộ Chính trị hẹp", tức là chỉ có mặt những nhân vật chính có tiếng nói quyết định. Theo lời thuật lại của tướng Lê Đức Anh qua ngòi bút của Khuất Biên Hòa, trong cuộc họp này chỉ có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch và Lê Đức Anh cùng các Cố vấn BCHTU Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Mới từ tháng 12. 86 Lê Đức Anh thay Lê Trọng Tấn làm Tổng Tham mưu trưởng (mất đột ngột, trước ĐH 6 được coi là người sẽ giữ chức bộ trưởng Quốc phòng) và từ giữa tháng 2.87 nắm chức bộ trưởng Quốc phòng. Lê Đức Anh không chỉ tường thuật cho BCT tình hình quận sự ở biên giới Việt-Trung ông vừa quan sát trở về, mà còn đưa ý kiến về chính sách đối với BK và Wahington. Trong đó cho thấy Lê Đức Anh tin và còn bào chữa cho BK, nhưng vẫn kết án Washington: “Tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược. Còn Mỹ, sau thất bại chiến tranh VN, Mỹ cấu kết với phản động quốc tế, dùng Pôn Pốt ở Cam-pu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và ngăn chặn sự ảnh hưởng của VN với khu vực.“ Theo Trần Quang Cơ thì trong cuộc họp hai giả thuyết chính về TQ đã được nêu ra thảo luận là, giữa XHCN và bá quyền thì BK coi bên nào nặng hơn; Nguyễn Văn Linh tin rằng BK vẫn đặt nặng yếu tố XHCN hơn. Điều cần lưu ý là, sau cuộc „họp BCT hẹp“ này Lê Đức Anh đã được giao công tác chính trong việc soạn thảo chính sách đối với BK. Đúng ra lãnh vực ngoại giao thì thuộc thẩm quyền của của bộ Ngoại giao, đứng đầu khi ấy là Nguyễn Cơ Thạch. Như vậy đã cho thấy ông Thạch bị mất ảnh hưởng. Lí do dẫn tới tình hình này đến từ hai phía, BK không tin tưởng là Nguyễn Cơ Thạch muốn có một đường lối thân thiện với họ, trong khi đó cả Nguyễn Văn Linh lẫn Đỗ Mười đang muốn chuẩn bị một thế ngoại giao mới để mở đường thoát khi cần thiết. Đây là kết quả các chuyến sang Mạc tư khoa để cầu viện thất bại của hai người trong vài năm qua. Họ còn chứng kiến tận mắt những thay đổi chính trị ngày càng sâu rộng ở Liên xô từ khi Gorbatschow làm TBT từ đầu 1985. Các biến động chính trị ở Liên xô và Đông Âu, các nước CS từng là chỗ dựa tin cậy cho CSVN suốt nhiều thập kỉ, đã gây nên sự hoảng sợ rất trầm trọng cho HN, như người gặp trận động đất kinh hoàng. Vì thế khi ấy nhóm cầm đầu CSVN, nhất là những nhân vật bảo thủ giáo điều, đã có những phản ứng co cụm như một hành động phản xạ khi gặp tình thế nguy nan. Trong hoàn cảnh đó họ lại vội vã mở cái túi bọc ra đọc câu thần chú „dĩ bất biến, ứng vạn biến“! Làm sao cứu đảng, cứu chế độ, cứu chính mình đây? Tình hình thế giới cuối thập niên 80 có những đặc điểm rất rõ ràng: Đông Âu CS đang tan rã. Liên xô đang rơi vào tổng khủng hoảng do cuộc cải tổ „Perestroika“ và „Glasnost“ của Gorbatschow. TQ đang bị rối loạn sau biến cố Thiên an môn. Trong khi ấy Mĩ và đồng minh ở Tây Âu đang vượt lên cả thế và lực. Lần đầu tiên từ sau Thế chiến Thứ hai HK trở thành siêu cường duy nhất cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao và quân sự. Dưới con mắt của Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và những nhân vật giáo điều bảo thủ trong BCT thì cựu thù Mĩ trước sau vẫn là đối thủ nguy hiểm chỉ tìm cách xóa bỏ chế độ toàn trị ở VN để rửa nhục. Trong khi Hoa kì (HK) và Liên xô đang xích lại với nhau do những cải tổ cởi mở của Gorbatschow, thì HK và EU lại kết án chà đạp nhân quyền và tẩy chay BK sau biến cố Thiên an môn. Trong hoàn cảnh đó từ Nguyễn Văn Linh tới Đỗ Mười, Lê Đức Anh thấy là chỉ còn BK có thể dựa vào. Vì ĐCS TQ vẫn nắm chủ động. Giữa các yếu tố BK bá quyền hay BK CS thì những người có quyền lực trong BCT lúc đó tin ở BK CS nhiều hơn. Tháng 9.89 Đặng Tiểu Bình đã bắn tiếng cho Hà nội (HN) là, BK muốn cùng với HN và Bình nhưỡng lập thế tam giác sắt để bảo vệ thành trì XHCN ở Á châu. Liên xô không còn là chỗ dựa đáng tin cậy nữa, trong khi đó Chủ nghĩa Tư bản do Mĩ cầm đầu đang đe dọa sự sống còn của CSVN. „Vạn biến“ của họ trong lúc này là phải cầu hòa -sẵn sàng làm thân „Câu Tiễn“- với BK để giữ cái „bất biến“ là giữ độc quyền cho ĐCS!  Điều này trùng hợp với lo lắng và ước muốn của Nguyễn Văn Linh và nhóm giáo điều trong BCT CSVN. Thái độ này Nguyễn Văn Linh đã nói rõ trong diễn văn bế mạc HNTU 7 (8. 89), như đã trình bày ở trên. Dưới sự môi giới của Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã gặp bí mật Đại sứ TQ ở VN Trương Đức Duy nhiều lần  và tiếp đến với Từ Đôn Tín, trợ lý Bộ trưởng ngoại giao TQ, sang HN vào giữa tháng 6.1989 để chuẩn bị chuyến thăm cấp cao ở TQ. Mặc dầu trong dịp này đã xẩy ra va chạm giữa Nguyễn Cơ Thạch với Từ Đôn Tín. Từ đó mọi cuộc tiếp xúc với HN, BK không còn xuyên qua bộ Ngoại giao VN mà đi trực tiếp với BCT. Ở đây cần phải mở một dấu ngoặc để hiểu thêm về sự kiện tại sao nhóm cầm đầu CSVN đã không ra lệnh nổ súng ở đảo Gạc-ma thuộc quần đảo Trường sa ngày 14.3.1988 khiến 64 binh sĩ Hải quân VN đang trấn đóng bị tầu chiến TQ giết hại. Sự kiện quan trọng là các đơn vị Hải quân VN đóng trên đảo này khi đó đã được lệnh không được bắn trả lại các tầu chiến của Hải quân TQ. Tới nay Lê Đức Anh -khi ấy là bộ trưởng Quốc phòng- vẫn gián tiếp phủ nhận việc ra lệnh. Nhưng nếu so sánh ý định của Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười khi ấy muốn bằng mọi giá cải thiện nhanh bang giao với BK để cứu đảng với thế rất yếu của HN trước BK thì việc HN tránh những va chạm võ trang trên đảo với BK là một khả năng rất lớn. Theo Đại tá Khuất Biên Hòa, người sau này được Lê Đức Anh giao cho nhiệm vụ viết sách về các hoạt động của ông, đã thuật lại là, liền sau ĐH 6 „ngay đầu năm 1987, có cuộc họp "Bộ Chính trị hẹp" tại Nhà Con rồng-Bộ Quốc phòng“ khi ấy hai nhân vật cầm đầu Đảng và Chính phủ tin cậy tân bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, giao cho nhiệm vụ soạn thảo và thực hiện kế hoạch này. Trong hai lần thị sát biên giới phía Bắc tướng Anh đã ra lệnh cho các đơn vị chính quy phòng thủ biên giới „không bắn, không chửi lại nữa.“ Và „họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta "bắn lại" bằng tình hữu nghị!“. Sau đó tướng Anh ra lệnh „ cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về phía sau, về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một“. Đây là sách lược „Tháo ngòi nổ xung đột biên giới Việt – Trung“ của Lê Đức Anh. Ý định này tướng Anh cũng đã trình bày thẳng với Đại sứ TQ tại VN Trương Đức Duy trong cuộc gặp bí mật cùng dùng cơm tại bộ Quốc phòng. Khuất Biên Hòa thuật lại lời của Lê Đức Anh nhắn với lãnh đạo CSTQ qua Trương Đức Duy: “Đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, công lao của VN là chính nhưng là công chung của hai Đảng, hai nước. Vậy mà bây giờ tại sao lại xung đột với nhau. Việc này không phải do dân và bộ đội gây ra, mà do lãnh đạo của hai nước gây ra. Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo của TQ. Tôi mới nhận chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của VN; để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này”. Nếu so sánh với Công hàm của TT Phạm Văn Đồng gởi TT TQ Chu Ân Lai 18.9.1958 nhìn nhận quần đảo Hoàng sa là lãnh thổ TQ thì quyết định của Lê Đức Anh ra lệnh không cho các đơn vị Hải quân VN đóng trên Gạc-ma không được nổ súng ngày 14.3.1988 để Hải quân TQ chiếm đảo và giết hại 64 binh sĩ VN đang đồn trú là việc càng hiểu được trong cách tính toán „đảng trước nước sau“ của họ không có gì xa lạ. Vì dám „Tháo ngòi nổ xung đột biên giới Việt – Trung“ suốt cả trên ngàn cây số thì „tháo ngòi nổ“ ở Gạc-ma không phải là chuyện lớn dưới con mắt của Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười khi ấy! Một dẫn chứng quan trọng khác càng chứng tỏ rõ ràng thêm về ý đồ của Lê Đức Anh tin tưởng và tùng phục BK. Nhân dịp kỉ niệm 33 năm thành lập Quân chủng Hải quân VN (7.5.1955-7.5.1988) Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh đã tới thăm đảo Trường Sa lớn. „Chuyến thăm đảo diễn ra ngay sau khi TQ đánh chiếm Gạc Ma rạng sáng 14/3 làm 64 chiến sĩ trên tàu HQ 604 hy sinh“. Trong dịp này Lê Đức Anh đã có bài diễn văn, trong đó không một lần nói tới hay kết án việc tầu chiến TQ đã giết hại 64 binh sĩ Hải quân VN  hai tháng trước vẫn đang gây chấn động và căm thù trong mọi giới, nhưng lại ca ngợi sự giúp đỡ của TQ trong chiến tranh và tình hữu nghị giữa hai nước và còn tin tưởng rằng, CSTQ ngày nay khác với TQ phong kiến trước đây:  „Với mối quan hệ giữa ta và TQ: Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa VN và TQ đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và hiệu quả. Nhân dân VN vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân TQ đã dành cho mình. Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Năm 1976, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Nhà nước ta đi thăm và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ VN đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới TQ, các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của TQ đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân VN, thì người lãnh đạo cao nhất của TQ lúc bấy giờ đã nói: TQ cảm ơn VN, chính nhờ VN chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến TQ để cầu thân với TQ". Nói tóm lại, cả hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, với tinh thần anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc VN những tội lỗi mà các triều đại phong kiến TQ đã gây đau khổ cho dân tộc VN suốt hàng ngàn năm đô hộ. “ Trong khi đó thái độ giã từ Mạc tư khoa và quay về với BK đã không còn úp mở mà trở thành công khai. Đầu tháng 6.1990 báo chí đưa tin Nguyễn Văn Linh thăm Sứ quán Liên xô và TQ cùng một ngày, cử chỉ này là lần đầu tiên sau hơn cả chục năm. Chỉ hơn hai tuần trước khi gặp bí mật ở Thành đô, Đỗ Mười đã công khai hoan nghênh tuyên bố của Thủ tướng TQ Lý Bằng trong chuyến thăm Singapore là “hi vọng sẽ bình thường hóa quan hệ với VN”. Để vận động cho giải pháp hòa với BK, phía HN đã tuyên bố rút quân khỏi Campuchia, đồng thời nhượng bộ yêu sách của BK về „giải pháp đỏ“ để Sihanouk và phe Pol pot tham gia chính quyền liên hiệp ở Campuchia. Cuối tháng 8.90 TBT Giang Trạch Dân và TT Lý Bằng đã mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười sang Thành đô họp bí mật để thảo luận về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và giải quyết cuộc chiến Campuchia. BK còn ngỏ là mong cả Cố vấn Phạm Văn Đồng cùng sang vì sẽ có mặt Đặng Tiểu Bình. Họ còn nói, chọn Thành đô để giữ bí mật, vì vào dịp đó TQ đang chuẩn bị Đại hội Thể thao Á châu lần thứ 11 (ASIAD) ở BK từ 22.9-7.10. Hội nghị đã họp tại nhà khách „Kim Ngưu“ trong hai ngày 3 - 4. 9.1990. Ngày 2.9 phái đoàn gồm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng không có bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sang Thành đô. Sau hai ngày họp hai bên đã kí „Biên bản tóm tắt“ gồm 8 điểm. Theo Trần Quang Cơ thì trong đó 7 điểm liên quan tới vấn đề Campuchia, chỉ có một điểm nói về tái lập quan hệ Việt-Trung. Kết quả Hội nghị Thành đô đã tạo thêm mâu thuẫn ngay trong BCT và gây bất bình gay gắt giữa phe Hun sen với HN. Trong cuộc họp đông đủ của BCT từ 15-17.5.91 ít tuần trước ĐH 7 để tổng kết công tác ngoại giao, Phạm Văn Đồng và Võ Văn Kiệt chỉ trích Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã vội vàng, hớ hênh và mắc bẫy BK trong việc chuẩn bị cũng như trong khi đàm phán. Còn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh thì lại bào chữa cho thái độ của họ. Trong khi hai bên nói là phải giữ „bí mật“ về Hội nghị Thành đô, thì Nguyễn Cơ Thạch đã cho biết, BK đã cho phe Hun sen xem băng ghi âm về cuộc hội đàm Trung-Việt cốt để gây chia rẽ. Không những thế BK còn bắn tin để các nước Tây phương biết về cuộc gặp này cũng với mục tiêu tương tự. Nhưng giữa khi ấy HN lại cố tình làm rùm beng chuyến đi của Võ Nguyên Giáp là “khách quí đặc biệt của chính phủ TQ” (19.9) sang dự Đại hội Thể thao Á châu lần thứ 11 và đây là chuyến thăm BK đầu tiên sau hơn 10 năm (26.9). Nhưng vào đúng dịp Võ Nguyên Giáp đang có mặt ở BK thì trong cuộc họp báo ngày 20.9 khi các  kí giả nước ngoài hỏi về chuyến đi bí mật sang TQ của TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng có thực hay không và nội dung các vấn đề thảo luận giữa hai bên. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao CSVN đã gián tiếp xác nhận về cuộc họp bí mật này: “Theo yêu cầu của phía TQ, có những cuộc gặp giữa VN và TQ cần phải giữ bí mật”. Tờ Bangkok Post ngày 19.9.90 đã „công khai hoá bản Thoả thuận Thành Đô“, cho biết VN đã đồng ý với TQ về giải pháp giải quyết cuộc chiến Campuchia theo yêu sách của BK. Vài năm sau cựu Thứ trưởng bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ, người đã tham gia trực tiếp trong nhiều cuộc đàm phán trong tiến trình chuẩn bị cho Hội nghị Thành đô từ 1987, đã nhận định về nguyên nhân và hậu quả của Hội nghị này đối với VN: „Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là TQ sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng VN và CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu.“ Nhưng theo tính toán của nhóm cầm đầu CSVN khi ấy, đặc biệt là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh, việc đạt tới thỏa thuận ở Thành Đô 1990 là một thành công lớn. Vì nó giúp cho họ giải quyết được nhiều khó khăn nan giải trước mắt: 1. Trong thời điểm Liên xô sụp đổ mà được BK che chở, một nước CS lớn với hơn một tỉ người, là một đảm bảo an ninh và thế ngoại giao tốt. 2. Giải quyết được cuộc chiến tranh sa lầy ở Campuchia suốt 10 năm hao người tốn của. Nó còn giúp HN không còn phải đương đầu với cuộc chiến ở biên giới phía Bắc. 3. Nhờ đó có thể giảm quân số, giải quyết nạn đói trầm trọng. 4. Hòa với BK và chấm dứt chiến tranh Campuchia còn giúp HN giải tỏa được bao vây ngoại giao và kinh tế của Mĩ và Tây phương, tạo thế thuận lợi hơn trong việc đàm phán về kinh tế-thương mại với Mĩ, EU và các nước trong khu vực Đông á và Đông nam á để thiết lập thị trường mới và thu hút vốn đầu tư để sớm phục hồi nền kinh tế VN đang trong thời kì suy vong.   1.9.2020 . Vương Văn Bắc, Lịch sử chính trị VN hiện đại, Viện Đại học Đà lạt 1966, tr. 100 t.th.; Ông bà       Trịnh Văn Bô và căn nhà niềm tin Quốc Phương, BBC 17.11.17,         https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-42026386; Lê Thiên, Ông bà Trịnh Văn Bô và Bà Cát       Hanh Long: Những kẻ bị lừa vì cả tin ông Hồ, Báo Tiếng dân 19-11-2017. Nhà văn  Vũ Thư Hiên        còn cho biết, HCM ra lệnh cho cha ông (Vũ Đình Huỳnh) phải cung cấp cả thuốc phiện cho         các tướng Tầu; Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, sđd., tr. 116. . Trần Quang Cơ, Hồi ức . Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung quốc và biển Đông, VNN 1.2.15 . Trần Quang Cơ, nh.t, tr. 18 tt . China Daily 9.10.89; Âu Dương Thệ, Ngoại giao cho đảng không nhất thiết là ngoại giao của        quốc gia, DC&PT số 9,5.97, tr.33 . Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung quốc và biển Đông, VNN 1.2.15 . Sđd. . Lời thề của Đại tướng Lê Đức Anh ở Trường Sa năm 1988,VNN 14.3.18. Xem thêm: Nhóm biên        soạn ‘Gạc Ma - Vòng Tròn Bất Tử’ phản đối sự quy chụp chính trị:           http://www.lethieunhon.vn/2018/08/nhom-bien-soan-gac-ma-vong-tron-bat-tu.html ;        VIDEO: Tướng Lê Mã Lương nói về ‘Gạc Ma – Vòng tròn bất tử’, Dân quyền 16.7.18 . ND 6.6.1990 . ND 14.8.1990 . Trần Quang Cơ, sđd, tr. 64 tt. . Trần Quang Cơ, tt . ND 19., 26.9.90 . ND 21.9.90 . Trần Quang Cơ, sđd, tr. 64tth . Trần Quang Cơ, sđd, tr. 68   Hội nghị thành đô ( 3.9.1990) chính là con đẻ của Cách mạng Tháng 8! - Kỳ 1 www.viettin.de/node/2893  
......

Đấu tranh bất bạo động và… sự sợ hãi

Đỗ Đăng Liêu - Web Việt Tân| Sợ hay sợ hãi là cảm xúc bẩm sinh của con người. Làm gì với nỗi sợ là vấn đề riêng của từng người trong chúng ta. Có người vì sợ đã trở nên bất động mất tất cả phản ứng; trong khi có người tuy sợ nhưng vẫn vẫy vùng, làm một cái gì đó. Trong đấu tranh dù là bằng vũ lực hay bất bạo động, con người luôn luôn có nỗi sợ ẩn chứa bên trong. Và, như đã đề cập bên trên, nỗi sợ đã khiến cho vô số người không dám làm điều mình muốn làm nữa. Vậy phải làm thế nào hầu có thể chuyển từ trạng thái “không dám làm” sang “dám làm?” Phải chăng chúng ta phải huấn luyện để người ta không sợ nữa? Thưa không! Đó chỉ là một ảo tưởng! Không ai, không tổ chức, không lực lượng hay đoàn thể nào có thể giúp bất cứ ai mất đi sự sợ hãi nếu sự hiểm nguy vẫn còn hiện hữu. Để những thành viên cùng đông đảo đồng bào mạnh dạn tham gia vào những việc làm mà họ vẫn tin là nguy hiểm thì chỉ có một cách duy nhất là chứng minh cho họ thấy việc tham gia không mang lại hiểm nguy như họ vẫn tưởng. Và đó là sự thật và là việc có thể làm được! Khi tham gia một cuộc biểu tình, ai cũng biết và hiểu rằng ngoài mình ra còn có rất nhiều nguời khác tham gia, và với một số đông áp đảo thì những nguy cơ bị công an đàn áp gần như không còn nữa! Ai cũng biết rằng công an chỉ có khả năng trấn áp những cuộc tụ họp hay biểu tình ít người. Nhưng khi số người tham gia biểu tình lên đến con số ngàn, chục ngàn hay hơn thì không còn thấy bóng dáng công an ở đâu. Lúc bấy giờ nỗi sợ hãi lại chuyển qua nhóm công an. XEM THÊM: Số đông để bảo toàn lực lượng Trong cuộc biểu tình phản đối công ty Formosa ngay trước trụ sở,  người ta đã thấy công an cởi bỏ đồng phục, quăng dùi cui để tháo chạy trước số đông quần chúng biểu tình. Nói cách khác, khi số đông lên cao, tình thế đã đảo ngược, kẻ bình thường gây ra sợ hãi nay… sợ! Người biểu tình trên nóc cổng của Formosa trong cuộc biểu tình chống công ty Formosa Hà Tĩnh với sự tham gia của hơn chục ngàn người dân hôm 2/10/2016. Ảnh: RFA Đó là sự thật đã được chứng nghiệm qua vô số những kinh nghiệm trong quá khứ ở khắp nơi trên thế giới và ngay tại CHXHCN Việt Nam. Tóm lại, chúng ta không cần “luyện công” để trở thành “người phi thường không biết sợ.” Chúng ta chỉ cần là người bình thường nhưng hiểu được nguyên lý và sức mạnh của số đông. Với quyết tâm hành động để xoá bỏ bất công và sự tin tưởng và hiểu biết về sức mạnh của số đông, chúng ta, những người bình thường, sẽ làm được việc phi thường khi biết rằng chính chúng ta là số đông khi đứng dậy bước theo tiếng gọi của lương tâm, đi theo những người tiên phong. Khi đó không một chế độ độc tài nào có thể cưỡng lại được! Nói tóm lại, khi người dân có đủ sức mạnh để chấm dứt một thể chế độc tài thì không một chế độ độc tài nào khác có thể được dựng lên. Đó là mục tiêu cao quý nhất của đấu tranh bất bạo động: Vừa tiết kiệm xương máu vừa xây dựng một nền dân chủ bền vững. Đỗ Đăng Liêu  
......

Trung Quốc muốn gì qua việc phóng 4 hoả tiễn vào Biển Đông?

Phạm Nhật Bình – Việt - Tân Từ đầu tháng Tám, 2020, Trung Quốc liên tục tung ra nhiều cuộc tập trận từ eo biển Đài Loan đến biển Hoa Đông và Biển Đông, tạo nên một tình hình căng thẳng có thể đi đến cuộc đối đầu không tránh khỏi bằng vũ lực với Hoa Kỳ. Đặc biệt nhất vào ngày 26 tháng Tám, Trung Quốc lần đầu tiên đã cho phóng 4 tên lửa tầm trung vào vùng biển giữa đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa, trong khi quân đội Trung Quốc đang tập trận bắn đạn thật ở đây. Mặc dầu không có sự xác nhận của Bắc Kinh nhưng giới quan sát quốc tế nói đây là loại tên lửa DF-26 và DF-21D, một loại vũ khí chống hạm và đã rơi xuống vùng biển phía Bắc quần đảo Hoàng Sa. Tuy 4 hoả tiễn này không nhằm đánh vào một mục tiêu nào trên Biển Đông, nhưng Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc vội vàng hết lời ca ngợi rằng đây là thứ vũ khí rất lợi hại: “DF-26 và DF-21D là những tên lửa đạn đạo đầu tiên trên thế giới có khả năng tiêu diệt tàu cỡ lớn và trung bình, mang lại cho DF-26 và DF-21D danh hiệu ‘sát thủ hàng không mẫu hạm.’ ” May mắn là ngày hôm đó, không có hàng không mẫu hạm nào của Hoa Kỳ lảng vảng ở vùng này. Trong lúc thế giới chìm đắm trong đại dịch COVID-19, Trung Quốc thường xuyên tập trận cho bắn đạn thật, kể cả đưa chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh (Liaoning) vào Biển Đông để phô trương thanh thế, bắt nạt láng giềng. Nhưng với hành động bắn tên lửa vào Biển Đông là sự kiện đầu tiên diễn ra trong tình hình căng thẳng hiện nay. Thái độ hung hăng của Bắc Kinh không chỉ mang tính khiêu khích đối với Hoa Kỳ mà còn đưa ra một thông điệp rằng Trung Quốc sẵn sàng nhả đạn nếu Hoa Kỳ muốn. Hay nói cách khác như Hoàn Cầu Thời Báo huênh hoang: “Trung Quốc không sợ động binh đao!” Tại sao ngay trong thời gian này, Trung Quốc lại cho thế giới thấy sự cố tình leo thang các hành động quân sự của mình trên Biển Đông? Có ba lý do: – Thứ nhất, từ ngày 13 tháng Bảy tức là ngày Ngoại Trưởng Mỹ Pompeo ra tuyên bố bác bỏ toàn bộ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, Hoa Kỳ đã liên tiếp ra đòn tấn công mọi mặt vào tham vọng phi pháp của Trung Quốc. Bên cạnh sự kiện Công ty Hoa Vi (Huawei) bị mở rộng danh sách cấm vận trên 21 quốc gia, ngày 26 tháng Tám Hoa Kỳ loan báo trừng phạt 24 công ty và các viên chức Trung Quốc tham gia nạo vét, bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông từ năm 2013. Trong 24 công ty này có 5 công ty vệ tinh của Tập đoàn Xây Dựng Truyền ThôngTrung Quốc CCCC (China Communications Construction Company) giữ vai trò quan trọng trong các dự án xây dựng của sáng kiến “Một vành đai – Một con đường.” Vụ trừng phạt này khiến Trung Quốc vừa mất mặt, vừa mất bình tĩnh và không thể im lặng. Nhưng muốn đáp trả tương xứng thì sợ cuộc chiến leo thang, trong lúc Trung Quốc chưa sẵn sàng có một hành động quân sự. Nhất là Tập Cận Bình vì muốn tiếp tục tóm thâu quyền lực nên đang gặp khó khăn nội bộ trước đại hội đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ 20 vào năm 2022. Vì thế Trung Quốc mới phá lệ cho phóng tên lửa vào Biển Đông để hù doạ Hoa Kỳ rằng Bắc Kinh sẵn sàng, không sợ động binh đao. Thật ra, với 4 tên lửa phóng ra cho nổ trên biển cũng chưa cho thấy mức độ chính xác đối với một mục tiêu di động như chiến hạm và tiềm lực tác chiến phối hợp kỹ thuật cao của quân đội Trung Quốc. Cho nên màn hù doạ này cũng vô ích vì Hoa Kỳ đã chuẩn bị đáp trả mãnh liệt, nếu bị tấn công bất ngờ. – Thứ hai, Trung Quốc chỉ muốn nhân cơ hội này phóng tên lửa để thử kế hoạch của mình trong việc bố trí các tên lửa chống hạm tại các căn cứ hoả lực trên các đảo nhân tạo bồi đắp phi pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa. Hệ thống tên lửa ấy sẽ sẵn sàng tấn công các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ một khi cuộc chiến bùng nổ như đòn đánh phủ đầu chắc thắng kiểu Trân Châu Cảng tháng Mười Hai, 1941. – Thứ ba hành động của Trung Quốc  nhằm giải quyết nhu cầu nội bộ của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đặc biệt là thành phần diều hâu trong quân đội Trung Quốc. Thành phần này muốn Tập Cận Bình phải có phản ứng mạnh với Hoa Kỳ về quân sự, cụ thể là mở cuộc tấn công chiếm Đài Loan trong vòng 3 ngày. Ngay cả việc Trung Quốc có thể “đánh chìm 2 tàu sân bay của Mỹ” giết chết 10.000 lính Mỹ để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, như lời đề nghị của Phó Đô Đốc La Viện (Luo Yuan), Phó Viện Trưởng Viện Khoa Học Quân Sự Trung Quốc trong một hội nghị quân sự ở Thẩm Quyến năm 2019. Nói tóm lại vụ bắn 4 tên lửa ra Biển Đông vừa qua của Trung Quốc là một hành động chính trị hơn là quân sự, nói khác đi Trung Quốc chỉ khua gươm giáo để diễu võ giương oai. Và điều này cũng cho thấy Trung Quốc biết tự lượng sức mình, đang ở vào tình huống tiến thoái lưỡng nan trước sức mạnh trả đũa quyết liệt và hiệu quả của quân lực Hoa Kỳ. Phạm Nhật Bình XEM THÊM: Ý nghĩa việc Hoa Kỳ trừng phạt các công ty và cá nhân Trung Quốc liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông Bộ trưởng Quốc phòng Nhật, Mỹ phản đối nỗ lực thay đổi hiện trạng các vùng biển Châu Á Hơn 80 Tổ Chức, Đoàn Thể gởi thư chung kêu gọi 3 quốc gia Anh, Nhật, Ấn bác bỏ yêu sách của Trung Cộng tại Biển Đông  
......

Hội nghị thành đô ( 3.9.1990) chính là con đẻ của Cách mạng Tháng 8! - Kỳ 1

Ts Âu Dương Thệ| Trong khoa học chính trị, học thuyết NHÂN-QUẢ rất được quan tâm, ở đây không theo nghĩa siêu hình trong tôn giáo, mà là quan sát những diễn biến và vận động trong xã hội rất thực tế có thể theo dõi và kiểm chứng rõ ràng. Muốn có trái ngon thì phải biết chọn giống, phải có người biết vun trồng, trông nom. Không thể chỉ ước mơ, chỉ ngồi chờ sung rụng, lại không biết chăm sóc thì kết quả ra sao ai cũng có thể thấy trước! Chính trị học đã chứng minh rằng, nhân loại đã trải qua những kỉ nguyên từ thô sơ bộ lạc, du mục tới định cư canh tác, thành lập các quốc gia, từ độc tài phong kiến chuyển sang dân chủ, từ bình diện quốc gia tiến lên hợp tác quốc tế với các định chế và mức độ khác nhau. Tuy nhiên không phải các tiến trình này đều diễn ra êm thắm và cùng đạt thành công ở các nơi trên thế giới. Có những quốc gia nay đã giã từ độc tài và thiết lập được các định chế dân chủ cao. Nhưng trong khi đó có những nước vẫn còn phải sống trong độc tài cá nhân hay đảng trị. Có những nước đã phát triển cao, nhân dân hạnh phúc; nhưng cũng có những nước người dân còn phải sống đói rách, nhân phẩm bị trà đạp. Những trình độ khác nhau này đều có những nguyên nhân nội tại và dẫn tới các kết quả tốt hoặc xấu. Cho nên muốn tránh cái xấu thì phải biết học cái tốt! Nhiều tổ chức và quốc gia đã biết rút kinh nghiệm bản thân và bên ngoài để đưa đất nước tiến lên văn minh, nhân dân hạnh phúc! Khoa học chính trị đã chứng minh là, một chính quyền yêu nước thực sự và biết tôn trọng dân thì phải thực hiện các chính sách nhắm vào hai mục tiêu song song là huy động nội lực và phát huy ngoại lực cho lợi ích chung là nhân dân hạnh phúc, đất nước độc lập. Nội lực và ngoại lực gắn kết chặt chẽ với nhau như bóng với hình, bổ sung cho nhau; nếu nó phù hợp vời lòng dân và thích ứng với thời đại sẽ làm cho dân giầu, nước mạnh. Ngược lại, nếu nội lực bị chia rẽ, bị đàn áp và ngoại lực chỉ biết tôn thờ những lí thuyết viển vông, coi thù là bạn, coi bạn là thù thì dẫn đất nước vào chiến tranh, hủy hoại sinh mạng của nhân dân, phá hủy tài nguyên đất nước, cuối cùng dẫn tới dân tộc nghèo đói và lệ thuộc ngoại bang. Như thế điều tiên quyết để có một chính quyền yêu nước thực sự thì phải có những người lãnh đạo có đức, có tài, không gian dối và lừa đảo nhân dân. Tức là, muốn lãnh đạo cả dân tộc thì họ phải có tư duy sáng suốt và thái độ đàng hoàng tử tế. Người lãnh đạo phải có tầm nhìn xa, nhưng đồng thời phải có đầu óc thực tế đưa ra những chính sách sáng suốt đáp ứng đòi hỏi chính đáng của nhân dân, phù hợp với hoàn cảnh của thời đại, không được phép viển vông lấy mộng làm thực, bắt nhân dân hi sinh phi lí và hủy hoại sức mạnh của dân tộc và tài nguyên của đất nước! Nói tóm lại, những người lãnh đạo xứng đáng phải thực hiện tốt được hai mục tiêu cốt lõi là, xây dựng được nội lực đồng thuận và vững mạnh, đồng thời thiết lập được ngoại lực biết kết bạn và chọn đồng minh với các nước văn minh để gìn giữ độc lập, ngăn ngừa chiến tranh. Chính sách nội lực đúng đắn phải tôn trọng người dân, bất kể chính kiến, mầu da, thành phần xã hội và tôn giáo; phải biết khơi dậy và cổ động sự đóng góp của mọi người vào công việc chung, từ chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa; tạo ra được đồng thuận và tín cậy lẫn nhau trong mọi thành phần trong xã hội; nghiêm cấm các chính sách kì thị hay đàn áp; khuyến khích tài năng, sáng kiến mang lại lợi ích chân chính cho cá nhân và cộng đồng; giúp đỡ và đùm bọc những người gặp khó khăn, tật nguyền… Chính sách đối ngoại đúng đắn phải đặt mục tiêu hàng đầu là bảo vệ độc lập, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thúc đẩy đất nước phát triển để sánh vai với các dân tộc tiến bộ từng thời đại. Muốn thế người lãnh đạo đảng cầm quyền phải có tầm nhìn cao, có đầu óc thực tế, chọn đúng bạn để kết hợp thành đồng minh, như thế tránh những hi sinh của nhân dân, phí phạm tài nguyên của đất nước, đồng thời củng cố được độc lập dân tộc! Vẫn biết không thể chờ đợi người lãnh đạo lúc nào cũng sáng suốt. Tuy nhiên nhân dân chờ đợi người lãnh đạo phải có bản lãnh và tinh thần trách nhiệm cao; nếu thấy đã vi phạm sai lầm thì họ phải dám vượt khỏi cái bóng đen của mình, nhận trách nhiệm và xin lỗi nhân dân, nhưng đồng thời phải bắt đầu làm lại hoàn toàn mới thực sự! Nếu không làm được như vậy thì phải can đảm trả lại quyền tự quyết của nhân dân! *** Nguyễn Phú Trọng thường khẳng định, công tác cán bộ là then chốt của then chốt và đưa ra các tiêu chuẩn chọn lọc cán bộ ở cấp chiến lược phải có đức-tài. Đứng về phương diện các khoa học xã hội thì người lãnh đạo có tài phải biết chọn tư duy đúng, tức là phải có tư tưởng và giải pháp thích hợp để giải quyết thành công các vấn đề mà đất nước và xã hội đang phải đối phó. Nói một cách hình tượng, trong việc chọn lựa tư duy và cách giải quyết thì người lãnh đạo có thể ví như một kiến trúc sư muốn xây dựng một căn nhà hay một lâu đài vững chắc và khang trang; muốn thế phải vận dụng kiến thức, phải cân nhắc nhiều lãnh vực khác nhau. Như thế người lãnh đạo không được phép dễ dãi cả tin, chỉ nghe bùi tai rồi vội vàng ôm ấp coi đấy như khuôn vàng thước ngọc, là đũa thần không chỉ cho cá nhân mình, đảng của mình mà còn trói buộc cả dân tộc phải theo! Người lãnh đạo có đức (đạo đức) thì phải có thái độ đàng hoàng, không lừa dối, phải thành thực với chính mình và với nhân dân. Cho nên đánh giá một chính trị gia tốt hay xấu phải căn cứ vào tư duy và thái độ của họ xuyên qua các quá trình hành động, cách xử thế và kết quả việc làm của họ. Nếu có thái độ đúng đắn, đàng hoàng thì khi xét kết quả công việc của mình làm, nếu tốt thì nói là tốt, nếu sai thì phải nhận lỗi trước nhân dân và phải nghiêm túc sửa chữa ngay! Như vậy những người cầm đầu CSVN từ trước tới nay đã có tư duy khoa học, hành động chín chắn và thái độ đàng hoàng tử tế không? Là người sáng lập ĐCSVN, tuy chưa biết thế giới đại đồng là gì và những hậu quả độc hại và cực kì nguy hiểm của chủ trương coi hận thù và phân chia giai cấp tai hại như thế nào trong việc tàn phá nội lực dân tộc ta, nhưng Hồ Chí Minh (HCM) đã coi chủ nghĩa Marx-Lenin là đũa thần để tiến hành Cách mạng Tháng 8 (1945) để cướp chính quyền. Từ đó trở đi HCM và những người kế nghiệp từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh tới Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện các chính sách, bên ngoài thì tôn thờ chủ nghĩa Marx-Lenin, chọn các đế quốc từ Liên xô tới Trung quốc (TQ) làm người đỡ đầu. Trong nội trị thì họ thực hiện tàn bạo hai chủ trương lấy hận thù và phân chia giai cấp để đàn áp nhân dân. Chính vì vậy đã gây ra những cuộc chiến tranh với bên ngoài cả với những đồng minh chính và các cuộc nội chiến cực kì tàn khốc và kéo dài suốt từ giữa thập niên 40 tới cuối thập niên 80 của thế kỉ trước. Cùng với đó là chính sách trả thù và ngược đãi nhân dân cực kì nham hiểm và tàn bạo nhất trong lịch sử dân tộc. Suốt trên 30 năm qua chỉ “đổi mới” giả vờ theo kiểu “treo đầu dê bán thịt chó” để đánh lừa nhân dân nhằm củng cố chế độ toàn trị và bảo vệ quyền lợi phe nhóm, mở tung cửa cho bọn quan đỏ tham nhũng và bóc lột! Do áp dụng tư duy sai lầm của chủ nghĩa Marx-Lenin cùng với các chính sách gian ác bạo ngược với nhân dân từ các bạo chúa Stalin tới Breschnev nên đế quốc Liên xô đã sụp đổ từ đầu thập niên 90, kéo theo sự tan rã của các nước CS Đông Âu từ 30 năm nay. Nhưng trong dịp 100 năm Cách mạng Tháng 10 Nga Nguyễn Phú Trọng vẫn buộc chặt trong tư duy bảo thủ sai lầm, tiếp tục ngang ngược cho rằng, “Tinh thần Cách mạng Tháng Mười và những thành quả lịch sử cũng như những cống hiến to lớn của nhân dân các dân tộc trong Liên bang Xô-viết đối với loài người mãi mãi không bao giờ phai mờ, mãi mãi sẽ còn ghi đậm trong tâm trí của mọi người có lương tri trên toàn thế giới!” 1 Giữa khi ấy trong đối nội từ Đỗ Mười tới Nguyễn Phú Trọng cũng không dám nhìn nhận các biện pháp kìm kẹp tư tưởng và sáng kiến của nhân dân là sai lầm, phá hoại nội lực. Trong khi Đỗ Mười bị bệnh điên khùng nhưng vẫn trở thành thủ lãnh cực kì giáo điều và độc tài đàn áp nhân dân và phá hoại đất nước gần cả nửa thế kỉ, qua nhiều chức vụ khác nhau từ đầu thập niên 70 thế kỉ trước tới thập niên đầu Thế kỉ 21, đã mù quáng, thiếu văn hóa và lỗ mãng phán rằng: “Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.” Nối gót bạo chúa Thái thượng hoàng Đỗ Mười trong chính sách kìm kẹp dân trí và phá hoại nội lực, Nguyễn Phú Trọng cũng vẫn giữ thói cao ngạo CS: “Từ thực tế thì thấy là, chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất “ và còn hống hách tước quyền tự quyết của nhân dân VN: “Chúng tôi nói là, ở VN chưa thấy sự cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng.”!! Chính vì những chính sách nội trị và đối ngoại cực kì sai lầm suốt trên bẩy thập niên vừa qua nên kết quả thực tiễn hiện nay là lợi tức đầu người của VN mới chỉ đạt ở mức trung bình thấp khoảng trên 2000 USD/năm, theo tiêu chuẩn quốc tế. Hãy nhìn vào hàng chục triệu nông dân vẫn phải canh tác theo lối con trâu đi trước cái cày đi sau như những thế kỉ trước. Hãy nhìn vào hàng triệu công nhân phải làm gia công, sống đói rách trong các phòng trọ “như chuồng gà”. Hãy nhìn vào các thanh niên và cả phụ nữ còn con thơ, nhưng đang bị giam giữ, chỉ vì không thể nhắm mắt làm ngơ trước những sai trái của bạo quyền đang tước đoạt các quyền tự do dân chủ căn bản của nhân dân. Hãy nhìn vào các hải đảo của VN đang bị phương Bắc chiếm đóng. Hãy nhìn lên những người đang có quyền lực trong Bộ chính trị (BCT), cả nhiều tướng Công an và Quân đội; họ đang sống phè phỡn trong những biệt điện, nhà lầu được xây dựng từ những đống tiền tham nhũng do chiếm đất, cướp nhà, bóc lột, bóp cổ và đàn áp nhân dân! Nhưng hãy nhìn sang những nước có hoàn cảnh gần với VN từ sau Thế chiến thứ hai như Nam hàn, Đài loan, Nhật và Đức. Cũng từ những đống tro tàn của chiến tranh và hận thù, nhưng các chính quyền và dân tộc này đã biết lấy nội lực làm căn bản để cùng nhau kề vai sát cánh xây dựng lại đất nước. Nay những quốc gia này đã trở thành những nước công nghiệp hàng đầu, lợi tức đầu người hàng năm lên tới mấy chục ngàn Dollar, các quyền công dân căn bản được tôn trọng, trong đó cả quyền tham dự bình đẳng của công dân vào công việc chung của cộng đồng. *** Trong những ngày này những người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay đang huy động bộ máy Tuyên giáo, hồ hởi kể lể và tung hô những điều họ gọi là “thành quả 75 năm Cách mạng Tháng 8” (CMT8) theo CNXH. Trên 7 thập niên cầm quyền, trong chính trị thì đây là thời gian khá dài để chứng tỏ tư duy, thái độ và bản lĩnh của chính đảng cầm quyền và những người lãnh đạo xuyên qua 3-4 thế hệ như thế nào. 75 năm sau “CMT8” nhưng những người cầm đầu và có trách nhiệm hiện nay đã nghĩ như thế nào và nói gì những thành quả 75 cai trị trong việc thực hiện nội trị và đối ngoại của họ? Họ có sáng suốt và thái độ thành thực để nhìn ra những sai lầm, những tội ác gây ra cho nhân dân và đẩy đất nước vào lệ thuộc đế quốc? Họ có bản lĩnh và lòng tự trọng dám rũ bỏ những tư duy sai lầm và thái độ lừa đảo? Mới đây đúng vào dịp kỉ niệm 75 năm thành lập ngành Công an (CA), Tô Lâm, Ủy viên BCT và bộ trưởng CA, lại vẫn không thấy là tội ác, nhưng vẫn giở thói kiêu ngạo CS hãnh diện kể lại việc CA thực hiện chỉ thị của HCM tổ chức giết hại những người hoạt động chính trị thuộc các chính đảng khác ngay trong giai đoạn đầu sau khi cướp chính quyền!: “Chiến công tiêu biểu, đánh dấu một mốc son chói lọi là khám phá, tiêu diệt tổ chức phản cách mạng Quốc dân Ðảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội) ngày 12-7-1946, khẳng định sức mạnh, uy tín của chính quyền nhân dân, một chiến công oanh liệt của lực lượng CAND trong đấu tranh chống phản cách mạng.” (4) Chỉ vì mù quáng tôn thờ chủ nghĩa Marx-Lenin nên họ đã thẳng tay đàn áp và thủ tiêu những người khác chính kiến là phá hoại nội lực dân tộc. Cũng vào dịp này tại lễ kỉ niệm 75 năm “Ngày truyền thống Công an” chính Nguyễn Xuân Phúc cũng đã liệt kê các hoạt động đàn áp những người khác chính kiến và kìm kẹp nhân dân của ngành công an suốt 75 năm qua. Ông Phúc vẫn bênh vực thái độ cực kì sai lầm “chỉ biết còn Đảng là còn mình” của ngành công an, gọi đó là hành động “cách mạng” và ra lệnh cho Công an phải trung thành tuyệt đối: “Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, phải luôn giữ vững nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp về mọi mặt của Đảng.” (5) Như vậy suốt 75 năm Công an đã cực kì tàn ác với dân, nhưng nay cả Nguyễn Xuân Phúc tới Tô Lâm vẫn bám giữ tư duy sai lầm và thái độ cao ngạo CS, đã biến Công an thành lực lượng tay sai cho ĐCS đàn áp dân, lực lượng phá hoại nội lực dân tộc rất tàn bạo! Đúng lí ra cả hai ngành Công an lẫn Quân đội phải đứng ngoài các đảng phái và chỉ biết trung thành với tổ quốc và bảo vệ sinh mạng và các quyền lợi chính đáng của nhân dân! Trong khi ấy Thường trực Bí thư Trần Quốc Vượng, người đang được Nguyễn Phú Trọng nắm tay chỉ đường để ăn thua với Nguyễn Xuân Phúc vào ghế cao nhất trong Đại hội 13 sắp tới, cũng bôi son trét phấn, tập tành đóng kịch làm như người biết trọng nhân tài, trí thức và văn nghệ sĩ. Sau khi tham dự “Gặp mặt đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ” nhân “kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng” ngày 31.7, ông lại chỉ đạo trong dịp Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) “Công bố “Sách vàng sáng tạo VN năm 2020”. (6)  Trong những dịp này, Trần Quốc Vượng làm như người giả câm giả điếc không biết rằng, cơ quan Tuyên giáo và MTTQ trực tiếp dưới quyền của BCT và Ban bí thư; từ ngày ĐCSVN cướp chính quyền đã là những trung tâm đàn áp trí thức, văn nghệ sĩ tồi tệ và nham hiểm nhất. Từ việc HCM lừa lọc dựng lên các đảng Dân chủ và Xã hội cuối thập niên 40 để dụ dỗ những nhân sĩ và trí thức nhẹ dạ; rồi tới thanh trừng, bôi nhọ và giam cầm các nhà văn, trí thức tên tuổi trong phong trào Nhân văn Giai phẩm trong thập niên 50; hay do tranh chấp về đường lối trong BCT nên phe Lê Duẩn đã dựng lên vụ “Xét lại chống Đảng” trong thập niên 60-70 để cô lập các Võ Nguyên giáp và nhiều cán bộ cao cấp và nhân sĩ tên tuổi; lập ra Mặt trận Giải phóng miền Nam cuối năm 1960 để che mắt nhân dân VN và thế giới gây ra cuộc nội chiến tàn khốc cho dân tộc dưới chiêu bài “chiến tranh giải phóng”; tới giả vờ hồ hởi tuyên bố “cởi trói” cho các người cầm bút và trí thức thời Nguyễn Văn Linh, nhưng sau đó lại loại Trần Xuân Bách khỏi BCT và Trung tướng Trần Độ khỏi Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương trong thập niên 90, chỉ vì những người này công khai phản biện đòi Đổi mới phải đi bằng cả hai chân chính trị và kinh tế! Dưới thời Nguyễn Phú Trọng vẫn mở miệng than thở là làm sao không có những tác phẩm văn học có giá trị và những học giả có tầm vóc quốc tế. Nhưng chính ông ta vẫn hằn học và đe dọa những trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi, kể cả những đảng viên tiến bộ và ra lệnh cực kì phản động: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước… dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” và “không để tư nhân sở hữu báo chí”. (7) Trong bài giới thiệu các văn kiện của Đại hội 13 vào đầu năm tới ông Trọng vẫn hầm hè đe dọa các đảng viên tiến bộ, không để “chệch hướng”, không để “đổi mầu”; nghĩa là trước sau vẫn cột chặt đất nước vào chủ nghĩa sai lầm Marx-Lenin, tiếp tục đàn áp những người dân chủ và kìm kẹp nhân dân. (8) Một người nuôi tham vọng cao, nhưng tư duy quá thấp, bản lãnh quá tồi, lại đang bị bệnh nặng. Vì thế Nguyễn Phú Trọng không phải là người giải quyết các vấn nạn khó khăn của dân tộc ta, trái lại đang trở thành gánh nặng và lực cản cho đất nước và cả cho Đảng! Trong khi ông Tổng-Chủ thẳng tay đàn áp nội lực thì ông Thủ cũng khinh thường các doanh nhân và tư thương VN, nhưng lại ra tay mời đón các “đại bàng” từ bên ngoài! Hiện nay ông Phúc đang bắt toàn chính phủ và các đia phương phải thành lập “Tổ công tác đặc biệt đón “đại bàng đến VN”. Trong cuộc họp của Thường trực Chính phủ ngày 22.5.2020 Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh: “Cần các biện pháp, cách làm thiết thực, cụ thể để tranh thủ luồng đầu tư dịch chuyển vào Việt Nam, trọng tâm là các tập đoàn đa quốc gia lớn, công nghệ cao…”  (9) Điều này có nghĩa là, Nguyễn Xuân Phúc đang trải thảm đỏ mời các đại tư bản nước ngoài vào làm ăn ở VN được hưởng những ưu đãi tối đa về sử dụng đất, xây nhà, mức thuế thấp nhất và còn được tự do chuyển lợi nhuận về các công ti mẹ ở nước ngoài! Hậu quả tất yếu là hàng triệu công nhân VN chỉ làm gia công, nhận đồng lương chết đói, vợ chồng và con cái phải sống trong những phòng trọ chật chội như những “chuồng gà”. Chủ trương kinh trong trọng ngoài dẫn tới các doanh nhân và tư thương VN bị chèn ép một cổ hai tròng, vừa bị các xí nghiệp ngoại quốc đè nén, lại bị các quan đỏ tham nhũng chấn lột! Đây là một nguyên nhân chính khiến kinh tế VN suốt mấy chục năm qua không thể ngóc đầu lên được và chủ trương của Đảng đưa VN trở thành nước công nghiệp vào năm nay (2020) hoàn toàn thất bại *** Nhân dịp nhìn lại các kết quả 75 năm của “Cách mạng Tháng 8” không thể bỏ qua hậu quả cực kì nguy hiểm sau 30 năm Hội nghị bí mật Thành đô để nhận rõ tư duy sai lầm, thái độ và bản lĩnh cực kì tồi tệ của những người cầm đầu CSVN khi ấy và hiện nay. Hai biến cố lịch sử này không chỉ trùng hợp ngày tháng mà còn trùng hợp cả về tư duy, thái độ và bản lãnh của những người cầm đầu CSVN từ 1945 tới nay! Đây chính là NHÂN và QUẢ bắt nguồn từ những tuy duy, thái độ và hành động cực kì sai lầm và nguy hại từ người sáng lập ĐCSVN tới những người đang nắm quyền lực hiện nay. Cũng vào dịp Cách mạng Tháng 8, 30 năm trước đây Bắc kinh đã phủ dụ được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng âm thầm bí mật sang Thành đô (Tứ xuyên, Trung quốc) gặp nhau tại nhà khách Kim ngưu (Trâu vàng) 3-4.9.1990 xin cầu hòa với điều kiện chấp nhận yêu sách của Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng là “khép lại quá khứ”! Khi ấy vị thế của chế độ toàn trị CSVN đang gian nguy như sợi chỉ treo ngàn cân. Bên ngoài thì BK mở cuộc chiến ở biên giới phía Bắc từ 1979, đồng thời viện trợ súng đạn cho Pol Pot để quân đội CSVN bị sa lầy ở chiến trường Kampuchia. Cùng lúc đó Hà nội còn bị Mĩ và phương Tây phong tỏa kinh tế và ngoại giao, còn Liên xô -cái phao cuối cùng của CSVN- cũng đang tan rã. Trong khi đó nạn đói khủng khiếp bùng nổ ở trong nước và nạn lạm phát phi mã lên tới 700-800%. Cho nên chỉ vài tháng sau Đại hội 6 (12.1986) một số người có quyền lực khi ấy là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh đã tổ chức những cuộc họp bí mật để bàn về chính sách đối ngoại, cụ thể là với BK, để cứu chế độ và chính tương lai chính trị của họ. Khi đó câu hỏi trung tâm được họ nêu ra trong các cuộc họp bí mật là, giữa XHCN và chủ nghĩa bá quyền thì những người cầm đầu CS Trung quốc coi bên nào nặng hơn? Cả ba người trên đã tin rằng, các người cầm đầu CSTQ đặt tình đồng chí cao hơn chủ nghĩa dân tộc cực đoan!!! Cho nên họ tin rằng, nếu CSTQ trụ được thì CSVN cũng trụ được! Vì tin như thế nên họ thỏa thuận với BK là, các vấn đề tranh chấp trên biên giới và biển Đông chỉ giải quyết song phương giữa hai nước và không để quốc tế hóa, đồng thời không bên nào được quyền làm phức tạp thêm tình hình. Nhưng tình hình ở biên giới và biển Đông 30 năm qua diễn ra có đúng như sự tin tưởng của Hà nội? Bắc kinh có giữ lời hứa không? Phía nào đang hưởng lại, bên nào đang bị thiệt hại? Câu trả lời rõ rệt nhất thể hiện rất rõ xuyên qua một chuỗi các sự kiện: Hiệp ước Biên giới giữa hai nước 30.12.1999. BK nhiều lần cho các tầu hải giám và tầu thăm dò dầu khí xâm phạm trắng trợn thềm lục địa VN trong các năm 2011, 2014 và nhất là trong mấy năm gần đây. BK còn trắng trợn biến các đảo xâm chiếm thành các tiền đồn đe dọa an ninh và quốc phòng của VN và đường hàng hải quốc tế; ngăn chặn VN khai thác tài nguyên ngay trên thềm lục địa VN; bắn phá các thuyền đánh cá và giết hại ngư dân VN! Trước những hành động xâm lấn trắng trợn trên của bá quyền BK, Nguyễn Phú Trọng vẫn im lặng vì đã từng tuyên bố “Tình hình biển Đông không có gì mới” và tiếp tục đưa ra chủ trương “4 không”: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.” (11) Những hành động bá quyền ngang ngược trên biển Đông chính là mưu đồ của Tập Cận Bình từng bộc lộ trong nhiều dịp là thể hiện “Giấc mơ vĩ đại của Trung quốc” với mục tiêu đưa Trung quốc sẽ trở thành siêu cường số 1 trên thế giới vào giữa Thế kỉ 21 vào dịp kỉ niệm 100 năm ĐCSTQ chiếm đóng lục địa Trung hoa. Riêng trực tiếp với VN, Nguyễn Phú Trọng trải thảm đỏ mời họ Tập đọc diễn văn trước Quốc hội ở Hà nội ngày 6.11.2015. Trong diễn văn dài 20 phút Tập Cận Bình đã giảng dậy cho những người cầm đầu CSVN thế nào là chủ trương và cách thực hiện chính sách “4 tốt” của Bắc kinh và nhắc nhở phải tin vào “lòng tốt” của Bắc kinh: “ Tín giả, giao hữu chi bản” ( lòng tin là cái căn bản để xây dựng tình bạn).” (12) Họ Tập còn rót vào tai Nguyễn Phú Trọng và 500 đại biểu QH hãy tin vào “4 tốt” của BK: “Thứ nhất, Trung Quốc Việt Nam cần là đồng chí tốt có thể tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau… Chế độ chính trị của hai nước tương đồng, lí tưởng và niềm tin giống nhau, có chung lợi ích chiến lược. Trung Quốc, Việt Nam kiên trì với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, kiên trì đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội…” 500 đại biểu Quốc hội còn phải vảnh tai nghe họ Tập xuyên tạc lịch sự rằng, người Hán không có cái “Gen” xâm lấn các dân tộc khác!” Nhưng chỉ một ngày sau, tại Singapur Tập Cận Bình đã nói toạc ý đồ bá quyền thực sự: “Hãy để tôi nói rõ: những hòn đảo trên Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung quốc kể từ thời xa xưa”. Họ Tập còn đe dọa “Chính quyền Trung quốc có nhiệm vụ phải bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chính đáng của Trung quốc.” (13) Những sự kiện trên đã chứng minh rõ ràng là, trong chính sách đối ngoại những người cầm đầu CSVN từ HCM cho tới Nguyễn Phú Trọng chỉ toàn là những người mơ mộng hão huyền, lại mang bệnh tư ti nhược tiểu, cho nên đã bị lừa đảo bao nhiêu lần. Chính cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ khi phân tích về Hội nghị Thành đô cũng đã thấy rất rõ sự ngờ ngệch trong đối ngoại như nuôi ong tay áo của những người cầm đầu CSVN, nên đã phải than rằng: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là TQ sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng VN và CNXH thế giới!” (14) Để độc giả hiểu rõ thêm về vấn đề quan trọng này, dưới đây là trích phần: “Hội nghị Thành đô – Cầu hòa với Bắc kinh ở thế “Kim ngưu”, Chương hai, VII, Tập I “Việt Nam “Đổi mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó!” của tác giả vừa xuất bản trong năm 2019. Qua đó thấy rõ quan hệ NHÂN-QUẢ giữa CMT8 và Hội nghị Thành đô cực kì nguy hiểm cho VN!  Còn tiếp kỳ 2
......

Nhân vụ Nguyễn Đức Chung: Global Magnitsky và tài sản phi pháp

Nguyễn Đức Chung, cựu Phó Bí Thư thành ủy Hà Nội, Chủ Tịch Hà Nội và từng là giám đốc sở Công An Hà Nội, đã bị truy tố và bị bắt giữ vào ngày 28/8/2020 liên quan đến các vụ án rửa tiền, buôn lậu trong vụ án Nhật Cường; vi phạm quản lý tài sản nhà nước; và chiếm đoạt tài liệu bí mật quốc gia. Ảnh: Cafe Business  KS Nguyễn Ngọc Bảo – Việt Tân Mới đây, Thiếu Tướng Công An CSVN Nguyễn Đức Chung, Phó Bí Thư Thành Ủy Hà Nội, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân và từng là giám đốc Sở Công An Hà Nội, đã bị truy tố và bị bắt giữ vào ngày 28 tháng Tám liên quan đến ba vụ án: rửa tiền, buôn lậu trong vụ án Nhật Cường; vi phạm quản lý tài sản nhà nước; và chiếm đoạt tài liệu bí mật quốc gia. Nguyễn Đức Chung nằm trong danh sách 100 quan chức cao cấp CSVN bị nêu tên dích danh trong các Hồ sơ “Shadow Report năm 2016, 2018 về các hành vi giết người, tra tấn”, “Đàn áp Phái Đoàn Giáo dân Song Ngọc đi kiện về vụ Formosa”, cưỡng đoạt tài sản và giết chết cụ Lê Đình Kình trong vụ Đồng Tâm, để nhằm bị trừng phạt theo tinh thần đạo luật Global Magnitsky. Những hồ sơ đặc biệt này, bằng tiếng Anh, thực hiện một cách công phu, dầy hàng trăm trang, có hình ảnh, chức vụ, địa chỉ, thân thế các quan chức CSVN thủ phạm, được 9 tổ chức tại Hoa Kỳ, Anh, Hòa Lan, Đức và Thụy Sĩ, với sự hỗ trợ của Đảng Việt Tân, được thực hiện trong vòng hơn 5 năm qua. Các tài liệu được soạn theo khuôn mẫu của Istanbul Protocol, để có thể nhanh chóng trở thành những tài liệu có tính chất pháp lý, đệ nạp trước những Tòa Án về hình sự quốc tế hay quốc gia Việt Nam tự do, dân chủ sau này. Hồ sơ này cũng đã chuyển đến Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc và Bộ Ngoại Giao các quốc gia đã có đạo luật Global Magnitsky, để yêu cầu trừng phạt. Sự trừng phạt dựa theo Đạo Luật Global Magnisky gồm các biện pháp phong tỏa, tịch thu tài sản phi pháp và cấm nhập cảnh đối với các quan chức và gia đình, dính líu trong các vụ hối lộ quy mô, sang đoạt phi pháp tài sản của ngươi khác, hay ra lệnh, chỉ huy các vụ đàn áp quy mô, tra tấn, giết người. Global Magnitsky có  mục tiêu đánh vào quyền lợi cốt lõi các quan chức cao cấp độc tài: Khối tài sản phi pháp khổng lồ mà họ đã thu thập, thụ đắc qua chức vụ và các hành vi phi pháp hối lộ và cưỡng đoạt tài sản quy mô, nhằm chuẩn bị hạ cánh an toàn. Hiện nay, Hoa Kỳ, Canada, Lithuania, Anh đã thông qua Đạo Luật Global Magnitsky hay những đạo luật chế tài có nội dung tương tự. Trong đó dự kiến là Thụy Sĩ, Liên Âu, Úc sẽ thông qua đạo luật Global Magnitsky vào giữa năm 2021. Có thể xem như 95% những quốc gia tiền tiến Tây Phương pháp trị, mà quan chức cao cấp CSVN chôn giấu tài sản phi pháp dưới dạng bất động sản, trương mục ngân hàng, cổ phần xí nghiệp, v.v. đều có những biện pháp trừng phạt. Và với các biện pháp tương trợ giữa guồng máy pháp lý của 2 quốc gia có ký kết với nhau (Mutual Legal Assistance), việc điều tra, truy lùng TSPP sẽ được tiếp tục trải rộng qua biên giới một quốc gia khác. Mặc dù Đạo Luật Global Magnisky đang được nhiều quốc gia thông qua, nhưng khá nhiều người tỏ vẻ hoài nghi về việc thi hành và mức độ hiệu quả của các biện pháp chế tài Global Magnitsky, nhất là việc phong tỏa, tịch thu các tài sản phi pháp. Việc truy lùng và thu hồi tài sản phi pháp (TSPP) đã bắt đầu từ những năm 1980, với trường hợp nhà độc tài Marcos của Phi Luật Tân (bị hạ bệ năm 1986, mất năm 1988). Một Ủy Ban đề xuất bởi Tổng Thống Aquino (Presidential Commission on Good Gouvernement) đã truy lùng và thu hồi được khoảng 4 tỷ Mỹ Kim sau 20 năm (1986-2016) hoạt động trên một tổng số TSPP ước lượng 10 tỷ Mỹ Kim. Chính quyền Liên Bang Thụy Sĩ đã trao trả 658 triệu Mỹ Kim, trong đó một khoản tiền quan trọng được tịch thu từ các trương mục của Marcos, ngay vào cuối thập niên 90. Trong trường hợp của tướng độc tài xứ Nigeria Sani Abacha (mất năm 1998), Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ đã hoàn trả 480 triệu Mỹ Kim cho chính phủ Nigeria vào 2015, Liechtenstein trả 167 triệu Euros (phần TSPP của Abacha, 2014) cho Nigeria, Thụy Sĩ hoàn trả 321 triệu Euros (phần TSPP của Abacha, 2017) cho Nigeria. Sau đây là những điểm đặc biệt của việc truy lùng TSPP, theo Công Ước UNCAC (Công Ước Phòng Chống Tham Nhũng – UN Convention Against Corruption) của LHQ và StAR (Sáng Kiến Thu Hồi Tài Sản bị Đánh Cắp – Stolen Assets Recovery Initiative) của Ngân Hàng Thế Giới. – Vì không phải là vấn đề hình sự, chỉ liên quan đến một bất động sản, sản phẩm nghệ thuật, trương mục ngân hàng, nên không cần tới bằng chứng (theo pháp lý) mà chỉ cần bằng chứng VỪA PHẢI (reasonable evidence). Những bằng chứng thật sự về TSPP sẽ được các cơ quan điều tra chuyên biệt với thẩm quyền rộng lớn NCA (National Crime Agency, Anh Quốc),  FinCen (Financial Crime Enforcement Networks Hoa Kỳ), AGRASC (Agence de Gestion et de Recouvrement des Avoirs Saisis et Confisqués, Pháp) tiến hành. – Không có thời hạn miễn tố hay hồi tố (trong vụ Marcos, gần 30 năm sau khi Marcos qua đời, số TSPP vẫn được thu hồi). – TSPP vẫn bị truy lùng, và thu hồi dù người sở hữu đã qua đời, đang trốn chạy hay vẫn còn tại chức (vụ Teodora Obiang, đương kim Phó Tổng Thống Guinea Equatorial, TSPP vẫn bị Tòa Án Pháp tịch thu). Cho dù TSPP đã được chuyển qua hàng con cháu (trường hợp Sani Abacha, Gaddafi). – Riêng trong phần rửa tiền, chuyển ngân phi pháp qua trung gian (puppet master) từ các thiên đường thuế khóa (Tax Heaven) như Andorra, Man Island, Liechtenstein, Cyprus, Saint Martin, Cayman Islands, Bermuda, Bahamas,…), từ năm 2017 và nhất là từ 2018 cho tất cả các quốc gia đã ký AEOI (Trao Đổi Thông Tin Tự Động – Automatic Exchange of Information) cho các dữ kiện liên quan đến việc chuyển ngân từ một trương mục tại nước ngoài (thường từ một thiên đường thuế khóa) vào các quốc gia  tiền tiến. Do đó, tất cả các hành động chuyển ngân sẽ được ghi lại, nhất là ai sẽ là người hưởng được số tiền đó. Có thể nói, với sự phát triển vượt bực về công nghệ thông tin, với khả năng ghi dấu chi tiết hoạt động (activity log) và truy cập (access), lưu trữ an toàn (digital signature), chuyển ngân phi pháp để rửa tiền (money laundering) ngày càng bị kiểm soát nghiêm nhặt, nhất là khi xuất phát từ các thiên đường thuế khóa. Với các biện pháp hữu hiệu trong khuôn khổ pháp lý quốc tế chống rửa tiền (UNCAC, StAR, AEOI, khai báo chi tiết về Trustee, Mutual Legal Assistance, khả  năng điều tra rất rộng lớn của NCA, FinCen, AGRASC,…) Nhất là nguyên tắc rất đặc biệt đã từng gặt hái nhiều thành quả trong chiến dịch chống mafia tại Ý, cách đây hơn 40 năm: tịch thu, niêm phong TSPP trước, rồi sẽ trả lại sau, khi người sở hữu chứng minh được là đã thụ đắc bằng lợi tức hợp pháp của họ.  Tóm lại, vấn đề truy lùng và thu hồi nhanh chóng một số lượng đáng kể tài sản phi pháp các quan chức CSVN chôn giấu tại ngoại quốc, dù dưới bất cứ dạng nào; không còn là một vấn đề không tưởng nữa. Hiệu quả tùy thuộc vào sự quyết tâm truy lùng và thu hồi tài sản phi pháp của một ủy ban chuyên biệt của chính phủ Việt Nam tự do dân chủ tương lai. Nhằm hoàn trả phần nào cho các nạn nhân và đóng góp tài chánh vào công cuộc canh tân đất nước. KS Nguyễn Ngọc Bảo #Magnitsky #tàisảnphipháp #NguyễnĐứcChung  
......

Quan xấu quan tốt- kịch bản của Tuyên giáo

Phạm Minh Vũ| Trong môn tâm lý học tội phạm của các trường cảnh sát, có đào tạo phương pháp khai thác tâm lý đối phương (nghi phạm). Nó thế này, Trong buổi hỏi cung thường có 2 vai đóng cảnh sát tốt và cảnh sát xấu, thường thì cảnh sát xấu nào tỏ ra vẻ hung hăng, bố đời, thậm chí đòi đánh nghi phạm, rồi lăng nhục đối phương. Sau đó cảnh sát tốt đi vào, vỗ vai cảnh sát xấu kia nói thôi được rồi, em nó còn trẻ người non dạ, rồi kêu tay cảnh sát xấu kia đi ra ngoài, bỏ lại 2 người khoảng không im lặng. Cảnh sát tốt kia sẽ bắt đầu an ủi, kể những câu chuyện cuộc sống, hay hỏi han về sở thích của nghi phạm, không hề đụng vào vụ việc khai thác, sau đó nghe cảnh sát tốt kể chuyện sướt mướt, nhất là về gia đình Cha mẹ anh chị em, nghi phạm lúc đó hầu như bị mê hoặc động lòng mà hợp tác và nghĩ rằng cảnh sát cũng có người tốt người xấu chứ không phải ai cũng xấu đâu, từ đó nghi phạm khai tuốt. Trên thực tế, đó chỉ là màn kịch mà mỗi người rơi vào vị trí đó khó mà thoát ra được suy nghĩ chung như thế. Mới đây, Tuyên giáo cho phép các cơ quan truyền thông báo chí VN rầm rộ nếu không muốn nói là bật hết công suất cho các tờ báo đăng tải, truyền hình các địa phương, thậm chí lực lượng hot face cùng lúc đăng thông tin về Đoàn Ngọc Hải vào trưa 28 chạy xe cứu thương thương đến bệnh viện chở người nghèo miễn phí. Cái gọi là ‘’bất ngờ khi thấy ông Hải trong xe cứu thương’’ đều làm người ta nghĩ ngay tới việc chắc tuyên giáo định làm trò mèo gì đây, sau đó báo chí phân thích chiếc xe mua ở đâu, bao nhiêu tiền, rồi hành trình ông Hải chở bệnh nhân nghèo đi tới đâu cũng chụp hình, giữa đường lộ km số mấy, đèo gì ông Hải cũng dừng xe lại chụp hình, cái này chắc chắn có cả Êkip trong xe đi theo. Vậy thì còn là gì bất ngờ nữa? Điều hay là việc ông Hải làm đó bao lâu nay thì không nhắc, phải nhắc đúng trưa ngày 28-08, để rồi tối đó công an bắt đương kim Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung, nhưng lạ là tin bắt ông Chung lại không hot bằng báo chí khoe việc ông Hải, bao nhiêu page của tuyên giáo, báo chí đảng, truyền hình đều cấp tập chạy tin làm từ thiện của một đảng viên cộng sản, lấn luôn việc bắt ủy viên trung ương đảng Nguyễn Đức Chung, cái hay là tuyên giáo đưa hình đảng viên Hải đi làm thiện nguyện bao nhiêu thì hình ảnh bắt Nguyễn Đức Chung tới giờ không ai kiếm ra 1 tấm hình nào. Điều này thể hiện điều gì? Nó thể hiện việc tung hô ca ngợi đảng viên một quan chức cộng sản rất tử tế và vô cùng vì dân, nó làm mờ đi việc một tay quan chức Thị trưởng Hà Thành dính dáng tới tham ô, cái quan trọng nhất là Tuyên giáo muốn nhấn chìm đi vụ Nguyễn Đức Chung. Tại sao tuyên giáo muốn nhấn chìm tin Nguyễn Đức Chung xộ khám? Vì những lẽ sau đây; Một là: nếu phân tích tiếp vụ bắt giữ Nguyễn Đức Chung thì dư luận sẽ đặt câu hỏi với sai phạm của Chung như vậy thì tại sao Hoàng Trung Hải, Tất Thành Cang, Lê Thanh Hải cũng sai phạm động trời mà vẫn bình an vô sự? 2 là: Tuyên giáo không muốn dư luận phân tích thêm bởi, càng phân tích thì lại làm lộ ra cái gọi là ‘’bí mật’’ mà thực ra chẳng có cái bí mật nào. 3 là: Cái này là quan trọng nhất, Tuyên giáo không muốn dư luận ồn ào vì đây là cuộc thanh trừng nội bộ, hay gọi là thanh trừng phe phái. Điều này là điều cực kỳ tối kỵ trong đảng, không muốn cho người ta, hay đảng viên biết nội bộ cao cấp của đảng đang có sự chia rẽ. Vì ông trọng đi tới đâu cũng kêu là đảng ta là đảng đoàn kết, sức mạnh vô địch, mà chính trong nội bộ chia rẽ thì nói ai nghe? Và cuối cùng, tuyên giáo không muốn cho dư luận đặt thêm câu hỏi nào, nhất là tại sao không có hình ảnh Chung con bị bắt. Vì những lý do muốn dìm vụ bắt giữ Chung con đến cùng, nên Tuyên giáo đã chuẩn bị một kịch bản là đưa một quan chức tốt ra, tìm mãi chẳng có ai ngoài Đoàn Hải, có những ưu điểm như cáo quan về quê, xây nhà cho người nghèo và giờ là lái xe miễn phí, hình ảnh dân túy đó nó mới thay thế hoàn toàn cái ung nhọt Nguyễn Đức Chung sẽ gây lắm sóng gió trong dân về hình ảnh quan chức đảng viên tha hóa. Tất nhiên, trước đây Đoàn Ngọc Ngọc Hải là nỗi khiếp sợ của người bán hàng rong, người bán vỉa hè ở Quận 1. Và khi đăng tin ông Hải vài giờ trước khi bắt Chung con cũng với 2 mục đích chính, một là dìm vụ ông Chung, 2 là vớt vát một chút niềm tin trong dân với hình ảnh đảng viên vẫn có nhiều người tử tế, vì đảng viên là nỗi ghê tởm trong Dân bao lâu nay. Mở bài tôi nói rằng cảnh sát tốt có, xấu có đó chỉ là kịch bản mà thôi, quan chức cùng lúc được tuyên giáo định hướng rầm rộ kiểu này chắc cũng không nằm ngoài kịch bản đó. Nói tóm lại, đã là người tốt chẳng ai giữ cái mác là đảng viên trong người, nhất là về hưu. Mà cái gì xưa nay tuyên giáo rầm rộ đăng mà tuyên dương thì ta nên hiểu ngược lại mới phải.  
......

Vượt biên bằng đường ... Đảng

Từ năm 1975 người Việt bắt đầu có cụm từ vượt biên. Vượt biên là hành động cuối cùng của tuyệt vọng khi sống dưới chế độ mới vừa chiếm được Miền Nam. Có hai loại vượt biên, bằng đường bộ và bằng đường biển. Trong cả hai loại này người muốn đi đều phải bỏ tiền ra cho người dẫn đường nếu là đi bằng chân đất xuyên qua những cánh rừng đầy máu và nước mắt của Campuchia để qua Thái Lan. Vượt biên bằng đường biển tuy không khổ nạn như đường bộ khi được ngồi trên những chiếc ghe đánh cá chạy ra hải phận quốc tế là xem như thoát, nhưng loại vượt biên này lại gặp nguy hiểm vì hải tặc, vì bão tố và bộ đội biên phòng. Người Việt hải ngoại thấu hiểu cuộc đời của người tỵ nạn như thế nào khi chấp nhận vượt biên là chấp nhận chết trên biển hay trong rừng rậm Campuchia nhưng họ vẫn liều lĩnh ra đi, liều lĩnh chọn cuộc sống tự do trong cái chết và liều lĩnh đánh cược cả gia đình mình với vùng đất mới.   Ngày nay một số người vượt biên theo cách thứ ba: bằng đường Đảng.   Người chọn vượt biên bằng đường Đảng xem ra có khác với hai loại trên mặc dù mục đích vẫn là trốn chạy chế độ. Họ là những người thừa tiền và quyền lực. Họ là những người được Đảng bồi đắp và cho hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Họ là Đại biểu quốc hội Nguyễn Thị Nguyệt Hường vượt biên sang Malta, là Hồ Thị Kim Thoa thứ trưởng Bộ Công thương vượt biên và biến mất tại Châu Âu, là Võ Kim Cự bay sang Canada sau khi tàn phá Vũng Án, rồi mới đây nhất là ba nhân vật được cơ quan truyền thông Al Jazeera của Qatar công khai hồ sơ vượt biên sang Cyprus và được cấp quốc tịch của đảo quốc này gồm ba người: Thứ nhất là Phạm Nhật Vũ, em ruột tỷ phú giàu nhất VN Phạm Nhật Vượng, cùng với hai vợ chồng Nguyễn Phan Diệu Phương và Phạm Phú Quốc. Vũ đang bị giam giữ 3 năm với mức án đưa hối lộ, Phạm Phú Quốc thì đang là đương kim Đại biểu quốc hội thuộc đơn vị tp HCM. Vì là thành viên của quốc hội nên Quốc bị dư luận soi từng hành vi trong quá khứ và lý do khiến y phải vượt biên sang Cyprus bị cho là đang chuẩn bị chạy trốn vì vụ Thủ Thiêm. Báo chí nhấn mạnh tới nhân thân của Quốc là một doanh nhân và vài tờ báo không nhắc gì tới chức danh ĐBQH của ông ta. Theo tiết lộ của nhà báo Lưu Trọng Văn thì Quốc từng là tổng giám đốc các công ty nhà nước hàng đầu ở Sài Gòn như Tổng công ty Bến Thành, Tổng công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước Tp.HCM (HFIC) nhưng bị cho ngồi chơi xơi nước nhiều năm do dính chuyện ăn chia trong các vụ bán đất nhà nước cho Vạn Thịnh Phát dẫn đến Quốc chán nản xin thôi việc. Đó chính là lý do Quốc cùng vợ con bàn tính ra đi. Quốc được Đảng “hiệp thương” cho ra ứng cử quốc hội ở quận 5, quận 10 và 11, là những quận có đông người Hoa làm ăn sinh sống. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển của thành phố chỉ là ghế bình phong của Quốc, công việc chính là kinh doanh tài chính cho đảng, ngồi ghế Tổng Giám đốc công ty đầu tư tài chính của Thành phố HFIC. Từ tháng 12/2019, Quốc lại được bổ nhiệm giữ chức Tổng giám đốc Công ty Tân Thuận (IPC) nắm trong tay khối tài sản nhà nước khổng lồ. Quốc có khả năng dính líu tới vụ Thủ Thiêm khi ngồi ghế TGĐ các công ty sử dụng tiền công quỹ tiêu tốn hàng chục ngàn tỷ đồng vào các dự án tái định cư của khu đô thị Thủ Thiêm. Phạm Phú Quốc không phải là doanh nhân đơn thuần như Phạm Nhật Vũ mặc dù phía sau Vũ là Phạm Nhật Vượng, người được Đảng công khai ủng hộ bằng mọi thứ mà Đảng có. Phạm Phú Quốc được Đảng nắm tay dẫn di từng bước một cho tới khi tiến tới quyền lực nắm giữ và toàn quyền tiêu phí tiền bạc của công quỹ. Đảng đã cho phép Quốc mang đồng tiền kiếm được từ móc ngoặc để mua chiếc vé vượt biên sang Cyprus một cách hợp pháp mặc dù vẫn phải ra đi trong lén lút. Vượt biên bằng đường Đảng là con đường mà hàng triệu đảng viên mơ ước. Tuy nhiên có một trở ngại nho nhỏ là con đường này không thể áp dụng cho Mỹ vì chính quyền này quá giàu có để từ chối mọi hành vi đút lót, mua chuộc vốn quen thuộc với các nước cộng sản. Vượt biên bằng đường Đảng tuy ít người tham gia nhưng mỗi lần tham gia là đất nước lại khuyết đi một số tiền rất lớn có thể dùng cho các mục đích an sinh xã hội. Hai triệu rưỡi đô la mà Đai biểu Quốc hội Phạm Phú Quốc trả cho cuốn hộ chiếu và quốc tịch Cyprus làm người dân xót xa bao nhiên thì lại là chất xúc tác không hề nhỏ cho đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam khiến họ nặn óc nghĩ ra cách làm tiền cho nhanh để vượt biên bằng đường Đảng. canhco's blog  
......

Ý nghĩa việc Hoa Kỳ trừng phạt các công ty và cá nhân Trung Quốc liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông

Trung Điền - Web Việt Tân| Hơn 1 tháng sau khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra tuyên bố hôm 13 tháng Bảy, coi các yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông là phi pháp và sẽ có những biện pháp trừng phạt thích đáng đối với những doanh nghiệp liên hệ đến các hành vi nạo vét, bồi đắp phi pháp các thực thể trên Biển Đông, ngày 26 tháng Tám vừa qua, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chính thức thông báo không cấp Visa vào Mỹ cho những quan chức Trung Quốc trực tiếp phụ trách hay tham gia vào việc bồi đắp đảo nhân tạo, xây dựng các căn cứ quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông. Cùng ngày, Bộ Thương Mại Hoa Kỳ loan tải trên trang nhà của bộ danh sách 24 doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc bị đưa vào danh sách đen chịu những giám sát và trừng phạt của chính phủ Hoa Kỳ. Trong 24 doanh nghiệp này, đáng chú ý nhất là hai tập đoàn nhà nước lớn nhất với những công ty con mà Hoa Kỳ gọi là những công cụ trong “chiến thuật săn mồi” của Trung Quốc trên Biển Đông. Đầu tiên là 5 công ty con nằm trong Tập Đoàn Xây Dựng Giao Thông Trung Quốc (China Communications Construction Company – CCCC) gồm Công ty Nạo Vét CCCC, Công ty Đường Thủy Thiên Tân CCCC, Công ty Đường Thủy Thượng Hải CCCC, Công ty Đường Thủy Quảng Châu CCCC, và Công Ty Thiết Kế Hàng Hải Số 2 CCCC. Tập Đoàn CCCC phụ trách việc nạo vét, bồi đắp và xây dựng các căn cứ quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông và cũng là một tập đoàn xây dựng được Bắc Kinh giao thực hiện những dự án xây dựng lớn trong chiến lược “Vành đai – Con đường” tại các nước ở Đông Nam Á, Nam Á và Phi Châu. Kế đến là 4 công ty con của Tập Đoàn Công Nghệ Điện Tử Trung Quốc (China Electronics Technology Group Corporation – CETC) gồm: Viện Nghiên Cứu CETC – 7; Công Ty Công Nghệ Hồng Vũ, Quảng Châu; Công Ty Công Nghệ Truyền Thông Đồng Quan, Quảng Châu; Viện Nghiên Cứu CETC – 30. Khác với Tập Đoàn CCCC, Tập Đoàn CETC lo việc thiết bị hệ thống liên lạc và kiểm soát không lưu với mục tiêu cuối cùng là thiết kế Vùng Nhận Diện Phòng Không (ADIZ) trên Biển Đông. Kế đến là các cơ quan, doanh nghiệp  nhà nước: Công Ty Viễn Thông Hoàn Giai Bắc Kinh; Công Ty Thông Tin Dữ Liệu Quốc Quang, Thường Châu; Viện Nghiên Cứu 722 – Tập Đoàn Đóng Tàu Trung Quốc; Công Ty Phát Triển Công Nghệ Sùng Tín Bada; Công Ty Thiết Bị Truyền Thông Quảng Hữu, Quảng Châu; Tập Đoàn Truyền Thông Haige, Quảng Châu;  Công Ty Phát Triển Trường Hải Quế Lâm; Công Ty Truyền Thông Quảng Hưng Hồ Bắc; Công Ty Điện Tử Trường Lĩnh, Thiểm Tây; Công Ty Kỹ Thuật Cáp Hải Dương, Thượng Hải; Công Ty Công Nghệ Điện Tử Thái Lợi Tín; Công Ty Thiết Bị Phát Thanh Thiên Tân; Công Ty Công Nghệ Điện Tử Hàng Không Thiên Tân 764; Công Ty Công Nghệ Điều Hướng và Truyền Thông Thiên Tân 764; Công Ty Truyền Thông Mailite Vũ Hán. Danh sách 24 doanh nghiệp nói trên đã bị Bộ Thương Mại Hoa Kỳ đưa vào danh sách trừng phạt chung với Công ty Huawei và những công ty công nghệ cao khác liên hệ đến vấn đề an ninh và vi phạm nhân quyền tại Tân Cương. Nếu cộng chung tất cả thì hiện nay có khoảng 100 doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc đang bị Hoa Kỳ trừng phạt. Những công ty này không chỉ bị cấm giao thương tại Hoa Kỳ mà còn bị cấm tiếp cận những công nghệ và những sản phẩm có liên quan đến Hoa Kỳ. Song song, 12 lãnh đạo của các công ty cùng gia đình của họ sẽ không được cấp visa đến Mỹ. Trong cuộc họp báo ngày 27 tháng Tám, Triệu Lập Kiên, phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã chống chế rằng những hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở Biển Đông là nằm trong trong phạm vi chủ quyền và không liên quan đến quân sự hóa. Hoa Kỳ không có lý do gì áp đặt những biện pháp chế tài khi những doanh nghiệp của Trung Quốc tham gia vào công trình xây dựng trong nội địa (sic). Rõ ràng là phản ứng của Bắc Kinh khá yếu ớt, nếu không nói là chiếu lệ, vì khác với những phản ứng đối với những đòn trừng phạt của Hoa Kỳ qua vụ đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương hay vụ áp đặt Luật An Ninh Quốc Gia ở Hong Kong, Trung Quốc thấy rằng các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ trên Biển Đông sẽ ảnh hưởng rất lớn lên chiến lược “Vành đai – Con đường.” Thứ nhất, việc Hoa Kỳ chính thức trừng phạt Tập Đoàn Xây Dựng Giao Thông Trung Quốc (CCCC) sẽ không chỉ giới hạn trong phạm vụ nạo vét, bồi đắp và xây dựng các căn cứ quân sự ở Biển Đông mà sẽ từng bước cô lập Tập Đoàn CCCC, do các hoạt động liên quan đến tham nhũng, hỗ trợ tài chánh mang tính săn mồi và hủy hoại môi trường qua các sự án lớn tại Sri Lanka, Malaysia, Kenya, Tanzania, Philippines, Bangladesh và nhiều quốc gia khác. Ông David Stilwell, Trợ Lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đã mô tả hoạt động của Tập Đoàn CCCC đóng vai trò như Công ty Đông Ấn của Anh trong những thế kỷ trước, có quyền lực rất lớn vì kiểm soát hạ tầng cơ sở tại các thuộc địa và có cả lực lượng bảo vệ riêng. Thứ hai, việc Hoa Kỳ chưa đưa Tập Đoàn Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation – CNOOC) vào trong danh sách trừng phạt lần này, cho thấy đây chỉ là đợt trừng phạt đầu tiên mà Hoa Kỳ muốn nhắm vào các đảo nhân tạo. Đợt kế tiếp, Hoa Kỳ sẽ nhắm đến những công ty dầu khí và khảo sát hải dương của Trung Quốc đã có những hoạt động quấy phá, bắt nạt các hoạt động tìm dầu khí của các nước trên Biển Đông. Tập Đoàn CNOOC sở hữu Giàn Khoan HD 981 đã từng xâm phạm thềm lục địa Việt Nam vào tháng Năm, 2014 hay tàu địa chất Hải Dương 8 thuộc quyền quản lý và sử dụng của chính quyền Trung Quốc đã đi vào vùng biển gần khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam vào tháng Bảy, 2019. Thứ ba, hai quốc gia hưởng những lợi ích trực tiếp từ các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ lần này là Việt Nam và Philippines vì Trung Quốc sẽ phải tự giới hạn các hành động nạo vét, bồi đắp các đảo nhân tạo nhằm tránh những leo thang trừng phạt từ Hoa Kỳ. Đồng thời, đây là lúc mà Việt Nam có thể xúc tiến trở lại những dự án khai thác dầu khí bị hủy bỏ giữa chừng do những bắt nạt của Bắc Kinh từ năm 2017 đến nay. Trong thông báo phổ biến vào ngày 26 tháng Tám, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cam kết là “sẽ tiếp tục hành động cho tới khi Trung Quốc chấm dứt các hành vi cưỡng ép trên Biển Đông, hướng tới lợi ích chung và cư xử một cách thân thiện, tôn trọng các nước láng giềng.” Nói tóm lại, biện pháp trừng phạt 24 doanh nghiệp Trung Quốc hôm 26 tháng Tám vừa qua, có thể coi đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ có những hành động cụ thể đối với các hành vi phi pháp của Trung Quốc, ngoài những hoạt động mang hình thức răn đe qua các cuộc tập trận hay tuần tra trên biển Đông. Những nỗ lực của Hoa Kỳ ngoài nhu cầu bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông, đã gián tiếp cho thấy nước Mỹ đã và đang đứng về phía các nước trong khối ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, Philippines để chống lại các hành vi bá quyền của Phương Bắc. Đây là cơ hội để cho Việt Nam thoát khỏi bóng của Bắc Triều, mở rộng tầm nhìn với thế giới Phương Tây, đưa Việt Nam tiến vào quỹ đạo Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường. Trung Điền  
......

Rước voi giày mả tổ

Phạm Minh Vũ| Ngoài biển Nhà cầm quyền Việt Nam bán cát cho Trung cộng tôn tạo các đảo nhân tạo, để chúng đặt căn cứ quân sự, chúng chĩa hoả tiễn vào nước ta. Nhiều năm qua, Trung quốc liên tục tôn tạo bãi cạn, đá chìm thành đảo Nhân tạo, rồi xây dựng các căn cứ trên đó. Người ta hỏi cát đâu để trung cộng có đủ mà san lấp các đảo nhân tạo mà chúng cướp được của ta ? Thì các xà lan hút cát trong bờ biển nước ta, hoặc các sông ngòi được nhà cầm quyền bán cho một công ty Singapore, thực chất đó là công ty trung gian của Tàu cộng, rồi chúng chở thẳng ra đảo san lấp. Để chúng cướp bắn ngư dân ta, để chúng xâm lược nước ta.   Trong bờ, thì Bộ quốc phòng cũng hoảng hốt mà than rằng hàng trăm doanh nghiệp TQ đang sở hữu 162.000 ha đất, trong đó đất đắc địa ven biển là 6.300ha. Trung quốc lập các khu phố người tàu tràn lan trên đất nước. Đưa người ra vào tự do bao năm qua mà không có một cơ quan liên quan nào để ý, không một tổ chức nào giám sát. Nhưng, riêng người Việt Nam mà ai lên mạng xã hội phản biện là lên đồn ngay. Trong bờ thì bao công trình trung cộng xây dựng trái phép, nhất là mấy khu du lịch TQ xây công trình vạn lý trường thành, giờ đang tính xây Lăng Tần Thủy Hoàng mà không ai can thiệp. Trong khi đó người Dân thì bị nhà cầm quyền o ép phải chạy đi làm thuê làm mướn ở các quốc gia khác. Nhà cầm quyền cướp đất của dân, bỏ tù họ để giao đất cho trung cộng. Cuối cùng. Đến giờ tôi mới biết biết, bao nhiêu năm qua, tôi đóng thuế để nuôi một bộ máy cầm quyền ở Việt Nam, đổi lại, họ phục vụ duy nhất cho một chủ nhân đó là Trung cộng. Phục vụ cho nó quay về xâm lược VN nếu không gọi bọn cầm quyền VN là những kẻ rước voi giày mả tổ thì gọi bằng gì đây?  
......

Sở văn hóa thể thao Lâm Đồng là bọn phản quốc

Phạm Minh Vũ| Đây là Vạn lý trường thành (VLTT) thu nhỏ được xây trên đồi Mộng Mơ do công ty Thành Ngọc xây dựng. Tôi có tham khảo nhiều ý kiến của người có chuyên môn trong lĩnh vực văn hóa, khẳng định cờ Ngũ sắc trên tay do 2 binh lính cầm đây là cờ của người Việt Nam ngày xưa. Chẳng hiêu tại sao sở văn hóa TT-DL tỉnh Lâm Đồng lại cho phép gắn nó vào tay của Binh lính Nhà Tần đang canh gác trên Vạn Lý trường Thành thu nhỏ này. Nó sẽ đánh vào tâm lý của những ai mù mờ lịch sử, hay không tìm hiểu, làm cho họ nghĩ rằng cờ Ngũ sắc của Dân tộc VN từ xa xưa ấy nó bắt nguồn từ nhà Tần, vì rõ ràng nó được chính tay lính Nhà Tần ở Vạn lý Trường Thành cầm kia kìa. Mới đây, cũng một vụ việc đang xảy ra tương tự đó là ''đội quân đất nung lăng mộ Tần Thủy Hoàng'' được cho là do tập đoàn Liên Minh Group (LMGR) sử dụng trong KDL Qủi Núi, nó ngụy trang dưới vỏ bọc cầm khiên có hình chim Lạc để nói đó là lính Việt xưa, cái này là nguy hiểm hơn, vì chính đại diện LMGR trả lời là lính Việt xưa, mà không nói rõ lính thời nào, tôi nghi ngờ chính tập đoàn này cũng chẳng biết đội quân đó là lính thời nào, nhà nước nào. Giả sử đội quân đó nếu đem tới cái VLTT kia thì nó nguy hại nhường nào? Người ta nghĩ ngay đến chim Lạc, Trống đồng ngày xưa là có từ thời nhà Tần bên TQ, vì lẽ đội quân ấy đứng bên VLTT đây cơ mà. Vậy có phải là sự xuyên tạc trắng trợn lịch sử không? Nói đâu xa, bọn hướng dẫn viên du lịch TQ lâu nay luôn mượn công việc để cố tình xuyên tạc chủ quyền VN, chúng nó từng nói Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng là của TQ đấy thôi, còn nhiều sự xuyên tạc trắng trợn nữa. Vì vậy đây là chuyện nghiêm trọng, không thể lập lờ bao biện. Tôi cho rằng đây là sự đánh tráo nhằm qua mắt dư luận. Tôi yêu cầu Sở VHTT-DL Lâm Đồng vào giám định những bức tượng do LMGR đang sử dụng ấy là tượng gì, xây vào mục đích gì, nếu binh lính Việt thì cho biết lính thời nào chứ không lập lờ kiểu như Lính nhà Tần mà lại cầm cờ Ngũ sắc VN như thế được. Mà tôi nghĩ để cho công trình này tồn tại bao năm qua, chắc Sở VH-TT-DL Lâm Đồng bị tiền làm mờ mắt cả rồi, thế khác nào bọn phản quốc?  
......

Cậu Ấm Kiên Giang khó thoát

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Ngay trước thềm đại hội đảng bộ Kiên Giang và ngay vào lúc trung ương đảng khóa 12 đang chuẩn bị phê duyệt danh sách tân trung ương cho đại hội 13, mà cậu ấm Kiên Giang cùng với hơn 20 cán bộ cao cấp trong tỉnh bị Bộ Chính Trị ra chỉ thị phải “kiểm điểm” những sai phạm về đất đai ở Phú Quốc, quả là tin chẳng lành. Sai phạm trong công tác quy hoạch, quản lý và sử dụng đất đai là loại sai phạm mà hầu hết cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố nào của đảng cũng đều dính vào. Sự thực đó là lạm dụng quyền lực, tước đoạt quyền làm chủ của nhân dân để buôn bán, sang nhượng đất đai, thủ lợi bất chính. Đó là tội tham ô như đã xảy ra ở công trình Khu đô thị mới Thủ Thiêm, do tập đoàn tham nhũng Lê Thanh Hải đứng đầu. Tỉnh Kiên Giang, giang sơn của Ba Dũng và con trai Nguyễn Thanh Nghị cũng không khác gì. Theo báo chí, sau cuộc thanh tra của Thanh Tra Chính Phủ hôm đầu năm 2020 nhắm vào đám cán bộ tỉnh Kiên Giang, thanh tra tỉnh cũng dựa vào đó công bố danh sách 75 cán bộ từ chủ tịch UBND trở xuống có bằng chứng vi phạm về đất đai trong thời gian cầm quyền. Trong số 12 phó chủ tịch UBND thời kỳ 2011-2017 có Nguyễn Thanh Nghị, hiện là bí thư tỉnh ủy Kiên Giang. Tất cả đều phải “kiểm điểm” rút kinh nghiệm. Chuyện kiểm điểm này, vào năm 2018, nhiều cán bộ Kiên Giang cũng đã bị bắt phải rút kinh nghiệm nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì mà bị chìm xuồng, vì Nguyễn Thanh Nghị không có tên trong lần “kiểm điểm này.” Kiên Giang là tỉnh có huyện đảo Phú Quốc mệnh danh là Đảo Ngọc, là một trong 3 vị trí đắc địa mà đảng CSVN muốn ghép vào Luật Đặc Khu năm 2018. Nhưng mưu sự bất thành do sự chống đối mãnh liệt của người dân không muốn Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trở thành lãnh địa cầu đầu của Bắc Kinh trên đường chinh phục Nam Á châu. Dự luật Đặc khu cho thuê đất 99 năm và nguy cơ an ninh quốc phòng. Tuy phải rút lại Dự Luật Đặc Khu nhưng nhiều năm trước đây, cán lãnh đạo Kiên Giang nhìn thấy tiềm năng hái ra tiền của Phú Quốc với sòng bài quốc tế, khách sạn 5 sao, khu resort cao cấp và tất cả dịch vụ phục vụ du khách quốc tế và nội địa. Do đó tốc độ xây dựng của Phú Quốc gia tăng chưa từng thấy. Và đó cũng là cơ hội cho các đầu sỏ Kiên Giang bỏ qua các luật lệ về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai; họ thi nhau phá rừng, xẻ thịt đất công, chiếm dụng đất nông nghiệp quyết tâm biến Phú Quốc thành thiên đàng làm giàu cho cán bộ. Không thể phủ nhận trong thời gian này Bí Thư tỉnh uỷ Nguyễn Thanh Nghị đã đóng một vai trò quan trọng nhất trong chính sách khai thác Phú Quốc vô pháp luật. Chuyện tung hoành ấy không lọt qua mắt Nguyễn Phú Trọng, nhưng thanh tra tới thanh tra lui cũng chỉ đi đến một kết luận nhẹ nhàng: Kiểm điểm …rút kinh nghiệm! Nay trước thềm đại hội đảng lần thứ 13, chỉ còn mấy tháng nữa sẽ khai mạc, có thể điệu nhạc “kiểm điểm rút kinh nghiệm” được tấu lại cho xôm trò. Hay vì đảng bộ Kiên Giang sắp họp vào tháng Mười tới đây, với thông tin khá nóng về việc ông Nghị bị kiểm điểm chắc là tin không lành. Uỷ Ban Kiểm Tra Trung Ương của Trần Cẩm Tú sẽ không bỏ qua cơ hội loại bỏ một phần quyền lực của Nguyễn Tấn Dũng ở Kiên Giang. – Nếu ông Trọng nhân nhượng và còn nể tình Nguyễn Tấn Dũng thì không cần truy tố Nguyễn Thanh Nghị, mà chỉ cần bị kiểm điểm hay có thể lãnh hình thức kỷ luật khiển trách, chắc chắn chức bí thư tỉnh uỷ của Nghị sẽ mất trong tháng Mười này. – Khi cậu ấm Nghị mất ghế bí thư trong đại hội đảng bộ mà không vào được trung ương khoá 13 thì coi như cậu ấm rớt đài, con đường tiến thân bế tắc. Nhiều phần Nghị sẽ được đảng cử giữ một chức vụ tượng trưng nào đó ngồi chơi xơi nước như Tất Thành Cang chờ ngày về hưu, hay chờ hình thức kỹ luật nào đó sau đại hội 13. – Nếu không cam chịu số phận bị loại khỏi môi trường quyền lực, Nghị sẽ hợp tác cùng Ba Dũng ra sức cùng vây cánh còn sót lại để loại trừ phe nhóm Trọng ở trung ương. Bằng một cách nào đó cha con cựu thủ tướng có thể ủng hộ Nguyễn Xuân Phúc đứng ra tranh đoạt ghế tổng bí thư với Nguyễn Phú Trọng để thay đổi cán cân quyền lực có lợi cho mình. Điều này sẽ đẩy vây cánh Nguyễn Tấn Dũng ra mặt công khai chống Trọng một mất một còn. Với bản chất con người của Ba Dũng, vì tương lai của Nguyễn Thanh Nghị và nhất là người con út Nguyễn Minh Triết còn quá trẻ, Ba Dũng sẽ không chịu ngồi im như Nguyễn Văn Chi ở Đà Nẵng. Người ta còn nhớ vào cuối tháng Mười Một, 2017, Bí Thư thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh bị trung ương lột hết mọi chức vụ vì dính líu trong vụ án Vũ “nhôm,” trong khi người cha Nguyễn Văn Chi không có phản ứng nào đáng kể. Vì thế, càng lúc càng đi vào giai đoạn chót của trận chiến chạy đua vào khoá 13, không ai có thể đoán biết nó sẽ kết thúc như thế nào. Ở một khía cạnh khác, đúng là chúng nó đánh nhau chỉ vì tranh nhau ăn đất. Mà ăn nhiều quá phải nhổ ra thì khổ cho các cán bộ thật. Phạm Nhật Bình https://viettan.org/cau-am-kien-giang-kho-thoat/  
......

Lịch Sử 1945 Không Thể Nói Ngược, Bẻ Cong

Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8,1945  Phạm Trần - Việt Báo| Bảy mươi lăm (75) năm lặng lẽ trôi qua như nước chảy qua cầu, nhưng cái gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, như Tuyên giáo đảng tuyên truyền năm này qua năm khác có thật hay đồ giả ? Căn cứ theo diễn tiến có các nhân chứng tham dự ngày 19/08/1945 tại Hà Nội thì đó chỉ là ngày Việt Minh đã cơ may  “cướp” được Chính quyền Trần Trọng Kim không có quân lính bảo vệ.  Biến cố lịch sử này không có  súng nổ, hay bạo động đổ máu nên không thể bảo  đó là “cách mạng”. Là người Việt Nam sinh ra trước và sau biến cố này đều biết rõ như thế, nhưng đảng Cộng sản do  ông Hồ Chí Minh thành lập từ năm 1930 thì không nhận đã đi “cướp” sợ mất chính nghĩa nên đã phịa ra là “giành lại Chính quyền”. Vậy đầu đuôi chuyện 19 tháng Tám của 75 năm trước  như thế nào? GS Nguyễn Đình Cống Hãy đọc Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống: ”Đêm 9 tháng 3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Trên đất VN không còn người Pháp cai trị. Ngày 11-3 vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập, xóa bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp. Tháng 4-1945 giải tán triều đình phong kiến với các Thượng thư, lập Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu và các Bộ trưởng. Ngày 15-8 Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17-8 Chính quyền Hà nội tổ chức mit tinh, treo cờ Quẻ Ly để chào mừng nước Việt Nam độc lập. Cuộc mit tinh này đã bị người của VM  (Việt Minh)cướp đoạt, hạ cờ Quẻ Ly xuống, giương cờ đỏ sao vàng lên và kêu gọi đi theo VM. Từ trước ngày 17-8 thủ tướngTrần Trọng Kim, Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn đã 5 lần tiếp xúc, hội đàm với đại diện của VM tại Hà nội (Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Khang) với đề nghị mời người của VM tham gia Chính phủ hoặc hợp tác lập Chính phủ liên hiệp để chuẩn bị đón tiếp quân Đồng minh, nhường quyền kiểm soát phần lớn đất nước cho VM một cách hòa bình. Nhưng cả 5 lần đều bị đại diện VM từ chối với tuyên bố là VM đủ lực lượng để cướp toàn bộ chính quyền mà không cần sự hợp tác nào hết, chỉ có đấu tranh một mất một còn. Để tỏ rõ thiện chí không dùng bạo lực, chính phủ ông Kim và Bảo Đại không thành lập quân đội, không có Bộ Quốc phòng. Ngày 19-8 VM cướp chính quyền ở Hà nội. Sau đó việc cướp chính quyền lan rộng ra toàn quốc. Việc cướp này diễn ra dễ dàng, nhanh chóng vì không gặp phải sự chống đối. Ngày 25-8 vua Bảo Đại thoái vị.” Vậy Việt Minh Cộng sản Việt Nam có công gì không? Giáo sư Cống khẳng định: ”Câu chuyện vào CM tháng 8 VM đã đánh Pháp, đã đuổi Nhật để giành độc lập mà trên 70 năm qua nhiều người Việt vẫn tin và khẳng định như vậy thì thực tế lịch sử đã chỉ ra rõ ràng là không đúng. Trong thời gian diễn ra CM tháng 8 VM không hề đánh một đơn vị Pháp nào, không hề đuổi một đơn vị Nhật nào. VM quả thực đã lợi dụng được thời cơ và điều kiện rất thuận lợi để cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim khi Pháp đã bị Nhật loại bỏ, Nhật đã đầu hàng, chính quyền hợp pháp không có quân đội, không chống lại. Hơn nữa khi CM sắp nổ ra, tổng chỉ huy quân Nhật tại VN có đề nghị với Bảo Đại và Trần Trọng Kim, rằng nếu phía VN yêu cầu thì quân đội Nhật sẽ giúp bảo vệ chính quyền và đánh tan VM. Nhưng các ông Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã không đồng ý, cho rằng như thế là huynh đệ tương tàn, là làm đổ máu của người Việt một cách không cần thiết. Ông Kim còn đòi Nhật thả nhiều thanh niên VM bị Nhật bắt giam trước đó. Nhật đã thả họ. Trong tuyên ngôn thoái vị, Bảo Đại nêu cao tình đoàn kết dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.” (trích bài “Vài đánh giá nhầm trong cách mạng tháng 8”, ngày 18/08/2016) Theo Bách khoa toàn thư mở, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, sinh ngày 12/12/1937 tại Quảng Bình, từng là nhà giáo nhân dân tại Đại học Xây dựng. Ông là một trong những kỹ sư đầu tiên ở Việt Nam chuyên về nghiên cứu Bê tông và các lĩnh vực khác trong Xây dựng. Ông đã có nhiều đóng góp cho công tác nghiên cứu giảng dạy đào tạo trong lĩnh vực Xây dựng. Tuy nhiên, sau khi nghỉ hưu ông đã có nhiều bài viết phê bình nghiêm khắc  chính sách cai trị phản dân chủ của đảng CSVN. Ông còn thẳng thắn nêu ra những sai lầm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, và kêu gọi thực hiện đa nguyên, dân chủ. Vào ngày 03 tháng 02 năm 2016, ông tuyên bố từ bỏ Đảng. Cố đại tá Bùi Tín   Trong khi đó, khi còn sống, cựu Đại Tá Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân của Trung ương đảng CSVN viết trên trang cá nhân của ông: ”Sau 70 năm, nhìn lại không thể gọi biến cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là “ngoa ngôn”, là “đại ngôn”, vì “cách mạng” là phải thay đổi hẳn chế độ cai trị, đổi mới hoàn toàn bản chất chế độ, đem lại dân chủ, tự do cho mọi công dân, quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh, cốt lõi là tự do ngôn luận, tự do báo chí.”  Nhà bất đồng chính kiến với đảng CSVN nói thêm: ”Biến cố gọi là Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam hoàn toàn không đổ máu, không có đấu tranh giằng co bằng bạo lực quyết liệt. Chính quyền thực dân Pháp đã bị phát xít Nhật lật đổ ngày 9/3/1945 trong một cuộc đảo chính nhẹ nhàng. Trước đó cả Đông dương thuộc Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, Việt Nam trở thành thuộc địa của nước Pháp thua trận đã đầu hàng phát xít, cho nên bị khối Đồng minh xếp vào loại bị quân Đồng minh là quân đội Anh và quân đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng để giải giáp quân đội Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Quân đội Trung Hoa vào miền Bắc, quân Anh vào miền Nam. Việt Nam trở thành đất trống về quyền lực cai trị, chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập được 6 tháng còn non yếu, tuy về danh nghĩa đã giành được nền độc lập từ tay phát xít Nhật đã buông súng đầu hàng Đồng minh.  Do sức ép của quần chúng xuống đường theo lời hiệu triệu của Mặt Trận Việt Minh do đảng CS Đông Dương tổ chức ra.  Vua Bảo Đại thoái vị nhanh chóng, bày tỏ niềm vui “từ bỏ ngai vàng để trở thành một công dân tự do”. (trích theo GS-TS Phạm Cao Dương:“Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018) Ông Bùi Tín, sinh ngày 29/12/1929, đã tị nạn chính trị tại Pháp năm 1990 và qua đời tại Paris ngày 11/8/2018 Nhạc sĩ Tô Hải Đến lượt nhân chứng, cố Nhạc Sĩ Tô Hải, tác giả bài ca nổi tiếng Nụ Cười Sơn Cước đã kể: ”Chỉ đơn cử 2 ngày 17 và 19/8/1945 là đã có sự lẫn lộn rồi. Thì ra 17/8 là cuộc Mít tinh của công chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Còn ngày 19/8 là ngày Mít tinh ủng hộ Việt Minh. Bọn thanh niên chúng tớ ngơ ngác về chính trị, cứ thấy Mít tinh là ào ào đổ ra đường chẳng hiểu ai lãnh đạo?  Theo Bách khoa Toàn thư mở thì ông Tô Hải, tên thật là Tô Đình Hải, sinh ngày 24/09/1927, qua đời ngày 11/08/2018, từng phụ trách các hoạt động văn nghệ và mỹ thuật, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia công tác tại Khu 4 và Nhà xuất bản Mỹ thuật Trước khi xuất bản “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” năm 2009, ông đã ra khỏi đảng. Ông cho biết không khí hoang mang của ngày 19/08/1945 như thế này: ”Ai hô thế nào thì hô theo thế ấy. Cờ vàng, cờ đỏ chẳng có gì quan trọng. Miễn là đi qua trại lính Nhật chẳng thấy đứa nào dám nổ súng dù có hô to “Đả đảo Phát xít Nhật!” “Việt Nam muôn năm!” Cả hai cuộc mít tinh nói trên đều có mặt cái thằng tớ. Cũng may là tớ chẳng vướng vào các cuộc mít tinh có lính Tầu Tưởng đứng gác ở chợ Đồng Xuân để bị nghe “Tỉu cái là ma lồng pào!” khi bị Việt Minh giải tán!...” Với lời tự nhận “Tớ đúng là một tên gà mờ”, ông Tô Hải kể tiếp: ”Có phải chính những người như bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng“ kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ TTK đã “quáng gà cách mạng” nên, giữa chừng đã a-dua, khi thấy người ta trương lên lá cờ đỏ sao vàng to tướng và phát cho chúng tớ những lá cò đỏ nhỏ bằng cái quạt mo là những người đã được “Đảng giáo dục” và “đồng lòng cùng đi tiếc gì thân sống“ để thực hiện nghị quyết của Đại Hội Quốc Dân (?) họp ở Tân Trào? Không! Hoàn toàn không! Chúng tớ, lúc ấy, dù bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, đã đưa ra đường lối chống Pháp, đã hứa hẹn Độc Lâp-Tự Do cho đất nước, đều sẵn sang đi theo! Đến cựu Hoàng Bảo Đại cũng còn tuyên bố “Làm dân một nước tự do còn hơn là làm vua một nước nô lệ!” nữa là…!” Cuối cùng Nhạc sĩ Tô Hải đã thẳng tay bác chuyện đảng CSVN “nhận vơ” đã lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 như sau: “Nói trắng ra rằng, dân Việt Nam chẳng hề biết đến cái sự lãnh đạo tài tình nào của Đảng Cộng Sản trước cái ngày 19 tháng 8 năm 1945 ấy! Vả lại lúc đó Đảng các ông có mấy người? Làm sao chỉ có gần 60 chục mống, (trong đó có cả ông anh họ tớ, Tô Kim Châu, Ban Bình Dân Học Vụ cùng Nguyễn Hữu Đang, không hề là Đảng viên CS, sau này bỏ vô Nam, làm cái gì đó ở toà án quân sự VNCH, nên đi học tập “có” 11 năm!) đi họp ở Tân Trào về mà động viên được cả triệu người, đủ mọi thành phần từ Bắc vô Nam, đứng lên đòi Độc Lập Tự Do kia chứ! -- Tóm lại, theo tớ, 19 tháng 8 năm 45 nếu tớ là nhà viết sử có lương tâm tớ sẽ viết hẳn một chương; CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM VÀ CUỘC ĐẢO CHÍNH 19 THÁNG 8 NĂM 45. Tiếp theo đó là những trang bi tráng nhất về lịch sử dân tộc Việt Nam sau cuộc Đảo Chính này… Vì: Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã bắt đầu bị đổi mầu từ đây. Máu đổ xương rơi cũng bắt đầu từ đây!” (theo GS-TS Phạm Cao Dương: “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018) Luật sư Trần Thanh Hiệp Ls Trần Thanh Hiệp Cuối cùng, nguyên Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn và Paris, Trần Thanh Hiệp phát biểu về ngày 19/08/1945 như sau: “Tôi nhớ là nhân có một cuộc biểu tình do công chức, dân chúng tổ chức để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, thì trong cuộc biểu tình ấy Việt Minh cướp cờ nổi lên và giành lấy như là cuộc biểu tình của Việt Minh để mà làm cuộc Cách mạng tháng Tám. Nhưng mà thực sự ra không có cách mạng gì cả, mà chỉ là một sự cướp chính quyền thôi." Ông nhấn mạnh: "Đối với tôi đó là một hành động cướp chính quyền chứ không phải là cái mà người ta gọi là Cách mạng tháng Tám vì không có gì thay đổi, cách mạng cả, chỉ có cướp quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim để mà Đảng Cộng sản dưới tên gọi là Mặt trận Việt Minh hay Việt Nam Mặt trận Đồng minh, cướp lấy chính quyền..." “…Đảng Cộng sản Việt Nam khi cướp chính quyền thì giữ luôn chính quyền cho riêng mình và giành lấy độc quyền, rồi từ đó đến nay mở ra đường lối toàn trị. Thành ra Đảng Cộng sản tự cho mình quyền thay dân chúng để sử dụng chủ quyền quốc gia.” (BBC Tiếng Việt, 31/08/2018) Vẫn nói dối quanh Với 3 nhân chứng cựu đảng viên đảng Cộng sản Nguyễn Đình Cống, Bùi Tín, Tô Hải và Luật sư Trần Thanh Hiệp  nói về ngày 19 tháng Tám năm 1945, thiết tưởng đã quá đủ để thấy ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN chẳng có công trạng gì với cái gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945”. Chẳng qua là nhóm cán bộ Việt Minh ở Hà Nội khi ấy đã nhanh chân chốp lấy thời cơ để biến cao trào quần chúng xuống đường ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim và ăn mừng đất nước đã được độc lập, sau tuyên bố của Vua Bảo Đại ngày 11-3-1945, để cướp chính quyền cho Cộng sản cai trị độc quyền. Thế mà Tuyên giáo của đảng CSVN, qua báo Quân đội Nhân dân, đã huyênh hoang: ”Phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xuyên tạc lịch sử, hướng lái con thuyền cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch. Do đó, luận giải và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện nay. Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 75 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại.”(báo QĐND, ngày 18/08/2020) Tại sao lại cay cú đến thế? Vĩ đại chỗ nào? Lý do tiếp tục bị phủ nhận vì cái gọi là Cách mạng tháng Tám 75 năm trước đầy đã không đem lại cơm no áo ấm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ngược lại, vì tham vọng quyền lực và vì phải chu toàn điều gọi là “nghĩa vụ quốc tế Cộng sàn” với hai đàn anh Nga-Tầu, đảng CSVN đã đưa đất nước vào 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, gây chia rẽ hận thù và tiếp tục chậm tiến lạc hậu như ngày này. Điều này được Giáo sư, Tiến sĩ Lịch sử Phạm Cao Dương tóm tắt trong bài viết năm 2018 của ông như sau: “Cách đây đúng 73 năm, hai biến cố lớn đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, đã đưa dân tộc Việt Nam vào một khúc quanh lịch sử vô cùng quan trọng: Biến Cố 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền và Biến Cố 2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập.  Hai biến cố này đã đưa tới sự thay thế chính quyền của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim bằng chính quyền Việt Minh do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản lãnh đạo, từ đó tới Cuộc Chiến Ba Mươi Năm, đầy đau thương, chết chóc, chia rẽ và hủy diệt, kéo dài từ năm 1946 đến năm 1975.” GS Phạm Cao Dương, sau nhiều năm giảng dạy tại các trường Đại học ở miền Nam Việt Nam  trước năm 1975, và sau 1975 tại Mỹ, đã nghĩ  hưu nói thêm:”Hai biến cố này thực ra là đều không cần thiết vì ít nhất hai lý  do: Thứ nhất: Người Pháp đã bị nguời Nhật loại trừ ra khỏi chính quyền Đông Dương từ sau ngày 9/3/1945, ngày Nhật đảo chính Pháp.  Tiếp theo đến lượt người Nhật đầu hàng, Việt Nam đương nhiên độc lập với chính quyền Bảo Đại–Trần Trọng Kim là chính quyền đương nhiệm và hợp pháp.  Sau này khi người Pháp muốn trở lại, người ta vẫn có thể dùng các phương tiện ngoại giao để điều đình nhưng với một tư thế hoàn toàn khác trước. Thứ hai: Chính quyền của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim không phải là một chính quyền tệ hại, như bị CS tuyên truyền, trái lại gồm toàn những trí thức ưu tú đương thời, có khả năng, nhiệt tâm và sự hiểu biết cần thiết để điều hành đất nước, khác với các chính quyền sau đó. Chính quyền này đã và đang thực hiện được nhiều công trình quan trọng như thu hồi và cụ thể hóa nền độc lập và thống nhất quốc gia, thiết lập những cơ chế căn bản cho một chế độ dân chủ, tự do trong một tuần lễ được báo chí đương thời mệnh danh là Tuần Lễ Của Các Tự Do, đặc biệt và tồn tại cho đến tận ngày nay là công cuộc Việt hóa và xây dựng nền giáo dục quốc gia...dù chỉ mới cầm quyền được trên dưới bốn tháng, những gì chính quyền Cộng Sản cho đến tận ngày nay vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.” (trích bài Phạm Cao Dương : “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018) Như thế thì ngày 19/08/1945 nên được đặt vào chỗ nào trong lịch sử giữ nước và dựng nước của Việt Nam, và những tang thương, đỗ vỡ của dân tộc do đảng CSVN gây ra từ sau biến cố này có cách gì hàn gắn được không? Lịch sử đã là như thế thì tất nhiên không thể bị bẻ cong hay đổi trắng thay đen tùy tiện. (08/020) Phạm Trần Nguồn ảnh Internet  
......

Đảo Síp nơi hạ cánh an toàn

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Cộng Hòa Cyprus (hay còn gọi Cộng Hòa Síp) là một quốc gia trong Liên Minh Châu Âu nằm ở phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ. Síp có nền kinh tế phát triển, là điểm đến ưa thích của khách du lịch quốc tế, có thu nhập đầu người khá cao. Síp cũng là nơi được mô tả như thiên đường trốn thuế và là nơi hạ cánh an toàn cho những cán bộ ở các xứ độc tài như Trung Cộng, Việt Nam… muốn an hưởng cuộc sống vinh hoa cùng gia đình sau khi vơ vét đầy túi. Tuần vừa qua, dư luận trong nước xôn xao vụ mua “hộ chiếu vàng” đảo Síp của đám cán bộ đảng làm cách mạng vô sản bằng cách tạo cơ nghiệp ở nước ngoài. Hãng tin Al Jazeera của Qatar đã khai thác một tài liệu mật và công bố phát hiện có ít nhất 26 người Việt Nam trong danh sách bị rò rỉ. Đây là những đại gia đỏ và chính trị gia cỡ bự của Việt Nam đã chi ra 2,5 triệu EURO, tức gần 3 triệu Mỹ Kim mỗi người để có passport và nhập quốc tịch Síp. Trong số này người ta thấy có tên vợ chồng của Đại Biểu Quốc Hội Phạm Phú Quốc và vợ chồng đại gia Phạm Nhật Vũ. Phạm Phú Quốc trước đây là tổng giám đốc Công ty Đầu Tư Tài Chánh Nhà Nước của Thành Hồ, nhưng sau khi trở thành đại biểu quốc hội vào tháng Sáu, 2016 trở đi họ Phạm được chuyển sang làm tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên Phát Triển Công Nghiệp Tân Thuận. Còn Phạm Nhật Vũ, người em của tỷ phú Phạm Nhật Vượng vào năm 2019 đã bị kết án 3 năm tù về tội hối lộ trong vụ án MobiFone mua AVG. Điều lý thú là Phạm Nhật Vũ đã kịp mua quốc tịch Síp một tháng trước khi bị bắt, nhưng tiếc thay chưa kịp đào tẩu. Chương trình mua hộ chiếu của Cộng Hoà Síp mà hãng tin Al Jazeera của Qatar tung ra dựa trên tài liệu “The Cyprus Paper”* (Hồ sơ Cyprus). Số tiền người muốn định cư ở Síp phải bỏ ra, gọi là “đầu tư” từ 2,5 triệu đến 3 triệu Mỹ Kim. Phải công nhận đây là một cái giá hãy còn rẻ cho đám cán bộ của đảng CSVN và các tư bản đỏ. Bởi trong hơn 30 năm qua kể từ khi Việt Nam có chính sách gọi là đổi mới, đám người này đã cấu kết nhau sử dụng kinh tế thị trường như lưỡi dao bén xẻ thịt đất nước tan hoang. Chúng mua bán, chia chác nhau từ dự án này đến kế hoạch kia liên quan đến đất đai, công trình giao thông vận tải cũng như hàng chục dự án ngàn tỷ của Bộ Công Thương. Đến nay mỗi tên có trong tay tối thiểu từ 100 triệu đến hàng tỷ USD. Ngay cả như Phạm Phú Quốc mang danh đại biểu quốc hội, chỉ là tổng giám đốc của một công ty nhà nước, thế mà vẫn có thể bỏ ra hàng triệu USD như một món tiền lẻ để sở hữu “passport vàng” của một quốc gia Châu Âu. Xem như thế, Việt Nam phải có hàng ngàn cán bộ cùng gia đình và hàng ngàn tư bản đỏ đã có quốc tịch Síp, không kể những tên đã có được quốc tịch các nước trong Liên Minh Châu Âu. Như vậy, trường hợp Đại Biểu Quốc Hội Nguyễn Thị Nguyệt Hường năm 2016 bị khám phá có quốc tịch Malta, một đảo quốc ở Nam Âu cũng là chuyện bình thường ở Việt Nam. Câu chuyện mua “hộ chiếu vàng” của cán bộ cộng sản ở Síp vừa bị phát hiện cho người ta thấy hai điều: Một là cán bộ Việt Cộng nắm mọi quyền lực trong tay, tha hồ làm mưa làm gió trên đất nước. Bọn họ đã và đang làm giàu trên xương máu và nước mắt của người Việt Nam. Chúng đã vơ vét và làm giàu bằng những chính sách bất lương và thu tóm quá nhiều tiền. Bây giờ là lúc chúng phải lo thu vén cho bản thân và gia đình, để nếu khi về hưu hay đất nước có biến động thì sẽ cùng vợ con chạy trốn đến một nơi an toàn để giữ thân. Hai là việc chạy “passport vàng” để phòng thân, không phải là sự cá biệt của một vài kẻ có tiền mà trở thành một phong trào “chạy trốn” được lưu hành trong nội bộ đảng và giữa giới tư bản đỏ vì họ biết thế nào cũng có ngày bị đưa vào lò bởi những phe nhóm quyền lực khác. Mặc dầu diễn ra âm thầm kín đáo, nhưng “dịch vụ chạy trốn” cho thấy đã lan tỏa khá rộng trong hàng ngũ cán bộ nhám nhúa, không làm ai quá ngạc nhiên. Vì thế vụ Phạm Phú Quốc, Phạm Nhật Vũ và một số cán bộ cộng sản, đại gia khác bỏ một số tiền lớn mua hộ chiếu Cyprus đã hé lộ cho chúng ta thấy, tại sao lãnh đạo CSVN lại ra sức giữ chặt thể chế độc đảng tại Việt Nam cho đến cùng. Trong thâm tâm cho tới giờ phút này, đám tư bản đỏ không vì lý tưởng cộng sản này nọ mà chúng chỉ cố duy trì chế độ toàn trị tồn tại càng lâu càng tốt để vơ vét thật nhiều. Cho đến khi  không còn ăn được nữa thì mới buông và đào tẩu đến nơi đã chuẩn bị sẵn. Không chỉ Síp mà Anh, Mỹ, Pháp, Úc và các nước Tây phương khác đều là nơi chúng có thể an tâm sống cuộc đời vinh quang nhờ vào số tiền khổng lồ đục khoét được. Nói tóm lại, 26 cán bộ cao cấp và tư bản đỏ CSVN đã bỏ ra hơn 3 triệu Mỹ Kim để chạy “passport vàng” khi đang còn nắm giữ quyền lực trong chế độ, cho thấy là tình hình chính trị nội bộ đảng CSVN không ổn định như họ rêu rao. Phạm Nhật Bình — * Cyprus Paper: https://interactive.aljazeera.com/aje/2020/cyprus-papers/index.html  
......

Cái giá của tuyên truyền bậy

Phạm Minh Vũ| Mới đây, câu chuyện một bài văn đạt điểm 10 của một thí sinh ở An Giang tên là Ngọc Trâm, cựu học sinh Trường THPT Chu Văn An bị dư luận đặt dấu hỏi sau khi thí sinh này trả lời báo chí, tất cả các tờ báo trong hệ thống Tuyên giáo đăng tải câu chuyện của em vì sao đạt được điểm 10 môn Văn. Người ta phát hiện ra sự dối trá vô cùng lớn chỉ qua một câu trả lời hết sức hồn nhiên của Trâm: “Em đã liên hệ với tác phẩm “Đại gia Gatsby”. Nhân vật chính trong tác phẩm này xuất phát điểm là một người nghèo đói, nhưng anh vẫn sẵn sàng ra trận để chiến đấu. Khi trở lại, anh chăm chỉ làm việc và trở thành đại gia nước Mỹ trong những năm 50. Em đã liên hệ với nhân vật này để làm dẫn chứng cho “những người đã làm ra đất nước”. Trong đề thi Văn học năm nay lấy bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để phân tích Tư tưởng Đất nước của nhân dân. Ai cũng biết tác phẩm Gatsby vĩ đại (hay Đại gia Gatsby, tiếng Anh: The Great Gatsby) của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào 10 tháng 4 năm 1925. Tác phẩm Gatsby vĩ đại ghi lại tâm trạng mất mát, chán chường, chiều hướng của những giấc mơ vàng của tuổi trẻ bị tan vỡ trong thất bại ở "thời đại nhạc Jazz", trước khi cuộc đại suy thoái kinh tế ở Mỹ diễn ra. Với giọng văn mỉa mai, trào lộng, ý nghĩa tinh tế, Fitzgerald đã thể hiện những suy ngẫm, những vấn đề của con người và thời đại mình. Chẳng hiểu sao Trâm lại phóng lên thành ‘’những năm 50’’ trong khi nhà văn F. Scott Fitzgerald Mất năm 1940. Với kiến cơ bản còn chưa nắm được thì liệu Trâm có thể đạt điểm tối đa môn văn không? Càng không có công thức làm nên con người xã hội chủ nghĩa: Nghèo- Ra trận- Trở về- Xây dựng quê hương giàu đẹp trong đó mà làm sao lại có sự liên hệ một cách tréo ngoe cho rằng đây là những người làm ra đất nước Mỹ? Đây là một cách tuyên truyền rất trắng trợn của một bộ máy ngu dân trong đó Tuyên giáo và Bộ giáo dục đóng vai trò chính. Nếu chúng ta tỉnh táo, ta thấy cái sự dối trá như ở trên, nhưng tại sao báo chí vẫn cố tình lên bài ca ngợi thí sinh trả lời trật lất này? Mà sao vẫn được điểm 10? Mượn Gatsby để tuyên truyền hình ảnh XHCN và bộ đội cụ hồ Ở đây, chúng ta thấy quá rõ mục đích của bộ máy ngu dân là khơi gợi lại hình ảnh Bộ đội cụ Hồ, xuất thân từ những người lính nghèo, theo cách mạng, sống có lý tưởng và khi thời bình thì đi làm ăn kinh tế để có cuộc sống giàu sang, như cách suy nghĩ của Trâm ví anh chàng Gatsby. Nghĩa là tuyên giáo hàm ý muốn nói chỉ những người chiến đấu xuất thân từ nghèo khó, nhưng sống có lý tưởng như Lê Khả Phiêu, như Lê Đức Anh thì sau này về lãnh đạo đất nước là một sự vĩ đại. Tuyên giáo đề cao hình ảnh xã hội Mỹ lấy hình ảnh ưu việt như Gatsby, nước Mỹ có những anh hùng như Gatsby đã làm ra đất nước là vì họ theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa: Nghèo- Ra trận- Trở về- Xây dựng quê hương giàu đẹp. Còn con người Mỹ như bây giờ không phải là hình ảnh đáng theo đuổi. Thêm một điều nữa tuyên giáo muốn làm người ta liên tưởng bộ đội cụ Hồ giống như anh chàng Gatsby, là gia sản của các lãnh đạo cộng sản, hoặc gia sản các Đại tướng, các tướng lĩnh quân đội VN 2 bàn tay trắng trước khi nắm quyền, mà sau khi nắm quyền thì gia sản kếch xù, nó cũng chính đáng như Gatsby chứ chẳng có ăn cướp của Nhân dân đâu. Và cuối cùng, Tuyên giáo, bộ giáo dục muốn người ta nghĩ rằng chính những người lính Cụ Hồ trước kia nghèo khó, sau khi nắm quyền họ giàu sụ ấy thực ra là ‘’Những người đã làm ra đất nước’’ Bị bóc mẽ rồi, hình ảnh nhân vật Gatsby chẳng có điểm nào giống với bộ đội của cụ hồ đâu mà tuyên truyền. Tuyên giáo với Nhạ ngọng nên thay thẳng hình ảnh như người lính Lê Khả Phiêu ''người đã làm nên đất nước... Tàu'' đi cho khỏe, chứ vòng vo qua tận Mỹ rồi qua bên Afghanistan chi cho mệt? Tuyên giáo- Nhạ ngọng tổ chức kỳ thi này để muốn tìm kiếm người văn hay chữ tốt hay kiếm người làm Trưởng ban tuyên giáo tương lai? Nếu kiếm người làm tuyên giáo, thì Ngọc Trâm chắc đúng rồi.  
......

Quảng Bình chi 2,2 tỉ đồng để mua cặp đựng tài liệu cho khách mời và đại biểu...

Nguyễn Xuân Quang Phạm Minh Vũ| Nguyễn Xuân Quang - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình đã ký quyết định về việc phê duyệt dự toán và kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua sắm "Cặp đựng tài liệu đại biểu" của VP Tỉnh ủy và giao đơn vị này chịu trách nhiệm tổ chức lựa chọn nhà thầu được duyệt để đảm bảo đúng quy định về đấu thầu. Theo đó, Đại hội đảng tỉnh Quảng Bình sắp tới sẽ chi 2,2 tỷ để mua loại cặp này tặng đại biểu và khách mời đến dự, mỗi cái dự toán hơn 3,5 triệu. Đó chỉ là tính riêng cặp tặng mà tốn kém như thế rồi, nếu 63 tỉnh thành đều đua nhau mua cặp thế này thì chẳng mấy chốc quan xứ ta có Đa Quốc Tịch là phải, cần gì phải Đa Đảng cho rườm rà. Trong khi đó, ở Mỹ dân số gần hơn 3 lần nước ta, kinh tế, quân sự, chính trị đứng đầu thế giới, ngay lúc này họ cũng đang tổ chức đại hội các đảng, đảng Cộng hoà hay đảng Dân chủ tổ chức đại hội chỉ đơn giản lên đưa ra mục tiêu tranh cử và phát biểu các chính sách làm cho Mỹ vĩ đại trở lại làm sao thuyết phục được cử tri. Ngân sách các đảng tự đóng mà chi phí đại hội, cấm đụng tới ngân sách quốc gia. Đất nước Mỹ đơn giản là vậy, đâu cần phô trương dán khẩu hiệu đỏ trời, treo cờ búa liềm khắp khu phố, đâu cần rườm rà tổ chức cơ sở khắp nơi bày ra quà cáp hoa hoè. Chính vì Mỹ đơn giản mà lại nghiêm túc vậy nên Mỹ mới giàu có Nhân dân họ mới có Tự do, Dân chủ, nhờ vậy nước Mỹ mới vĩ đại. Các ông, miệng phấn đấu tiến lên Chủ nghĩa xã hội nhưng tay thì cầm chắc hộ chiếu Tư bản. Cuối cùng các ông bày ra để mà xà xẻo ngân sách chứ đâu phải vì Nhân dân? Nhân dân đang khó khăn dịch bệnh, một triệu cho dân mà khè dân lên tivi nhận miết, còn cái đại hội đảng là chuyện riêng của đảng lại xà xẻo ngân sách một cách khốn nạn vô cùng tận. Đây là tổ chức đại hội cho băng đảng ăn cướp chứ đảng cầm quyền cái gì. **** KHỐN CHO DÂN TÔI: ĐỐNG CÁN BỘ QUẢNG BÌNH THẾ NÀY HỎI SAO DÂN KHÔNG KHỔ MÃI ĐÂY! Tỉnh Quảng Bình đã quyết định chi hơn 2,2 tỉ đồng để mua cặp đựng tài liệu cho khách mời và đại biểu đến tham dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII. Theo tìm hiểu, ngày 6-8, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình ký Quyết định phê duyệt dự toán và kế hoạch lựa chọn nhà thầu "mua sắm cặp đựng tài liệu khách mời" được dự kiến khoảng 200 người đến tham dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII. Cụ thể, theo bảng dự toán chi phí mua sắm cặp đựng tài liệu cho 200 khách mời khi tham dự Đại hội, mỗi vị khách mời sẽ được tặng 1 cặp da trị giá hơn 3,5 triệu đồng. Tổng chi phí là hơn 720 triệu đồng, bao gồm cả chi phí tư vấn lập hồ sơ và thẩm định hồ sơ. Đến ngày 21-8, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình tiếp tục phê duyệt hồ sơ mời thầu gói mua sắm cặp đựng tài liệu cho khoảng 400 đại biểu đến tham dự Đại hội. Cụ thể, mỗi đại biểu sẽ được tặng 1 cặp da có giá trị gần 3,7 triệu đồng. Loại cặp này được thông báo là cặp cán bộ xách tay giả da màu đen hiệu LADODA có xuất xứ từ Việt Nam; số lượng 400 cái; tương ứng với gần 1,5 tỉ đồng. Tổng giá trị cặp giả da đựng tài liệu mà Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình dự kiến trang bị cho khoảng 400 đại biểu và 200 khách mời là hơn 2,2 tỉ đồng, được chi từ nguồn ngân sách tỉnh và trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt (nld.com.vn). Tiền ngân sách là thuế của toàn dân đóng góp vào mỗi ngày. Kinh tế quốc gia khó khăn, dịch bệnh dai dẳng, doanh nghiệp phá sản, người dân thất nghiệp tràn lan, người nghèo rơi vào đói khát và bế tắc. Cớ sao chúng mày lại tiêu hoang kinh khủng thế này hỡi đống lãnh đạo tỉnh Quảng Bình. Với số tiền 2,2 tỷ này hãy đem giúp các hộ dân nghèo, người gặp khó khăn do dịch bệnh lúc này đi. Làm con người phải có chút não và có lương tâm chứ bay. Lãnh đạo mà như đống lãnh đạo ở Quảng Bình này thì dân mãi mãi khổ, bế tắc và chết trong đói nghèo thôi ạ. ĐÂY LÀ NHỮNG CON KÝ SINH TRÙNG CHÍNH HIỆU ĐẤY. Fb Ts  Nguyễn Đình Trọng  
......

Tiêu chuẩn kép của đảng

Phạm Minh Vũ| Việc đảng viên Phạm Phú Quốc mới đây bị lộ thông tin có quốc tịch Síp đang làm cho dư luận từ ngỡ ngàng đến bàng hoàng. Ngỡ ngàng là vì một đảng viên được cho là tép riu như Quốc mà lại có khối tài sản trong tay ít nhất là hàng chục triệu đô la, và từ đó ta bàng hoàng nhận ra, hàng vạn đảng viên cấp cao hơn Quốc nữa, thì tài sản khủng khiếp cỡ nào? Hèn gì, bao nhiêu đầu tư cũng lỗ, bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên không cánh mà bay, chủ quyền ngày càng teo tóp, dự án nào cũng đội vốn hàng chục lần và nó chậm tiến độ cũng theo cái đội vốn ấy, đất đai thì cướp của dân chia cho tư bản đỏ.. Tất cả sự thật ấy đều thể hiện hàng ngày qua sự oán hận của Bà dân oan, bác nông dân, chị gánh hàng rong. Theo lý lịch của Quốc, vào năm 2013 con trai Quốc đi du học ở Anh Quốc số tiền bỏ ra hàng trăm ngàn đô la, làm cho doanh nghiệp nhà nước lương 5 cọc 7 đồng, tiền đâu mà lắm thế, rồi đến chuyện lộ ra phi vụ tuồn tiền hàng triệu đô la mua quốc tịch Síp. Lâu lâu ta thấy nhiều đảng viên quan chức phát ngôn đến độ ngô nghê mà cũng thật lòng mà nói sự thật nó phủ phàng, Nguyễn Đức Chung, thân làm tướng công an, nâng cao tinh thần chống Mỹ vì đảng dạy đó là thế lực thù địch, vậy mà Anh Chung có mấy đứa con đều tống sang bên Mỹ tất tần tật, như đợt dịch vừa rồi, Anh chung ngộ nghĩnh là bảo là ‘’tôi bảo con tôi ở nhà 3 tháng trữ đồ ăn không đi ra ngoài’’, cái thật tâm chia sẻ chuyện con cái của Chung, mà ta thấy sao nó xót xa trong lòng. Trong khi các ông các bà đảng viên, tướng lĩnh quan chức xúi cho báo chí viết bài kiểu ‘’tan nát giấc mơ Mỹ’’, lên tiếng lên án bọn tư bản giãy chết, tay phải thì viết sách chửi tư bản ra rả, nhưng tay trái lại cầm hộ chiếu của tư bản. Trong khi các ông bà quan chức đảng lên án chính phủ Mỹ và các nước tư bản để Nhân dân đói khổ thì các ông bà lại đẩy con cháu mình qua đó hết là cớ làm sao. Mà chính ngay khi mồm xoen xoét giọng đạo đức tỏ ra là một vị quan mẫu mực, nhưng các ông bà tìm cách vơ vét, bòn rút, đục khoét ngân sách, ăn chặn để bao trẻ em đi học không có đường đi, không có cầu qua sông phải lội bọc nilon, có nơi cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cái đó gọi là đảng là đạo đức là văn minh đó sao? Sự việc đảng viên Phạm Phú Quốc chối bỏ quê hương để tháo chạy thật xa khỏi thiên đường XHCN để giữ khối tài sản mà Y vơ vét được, cộng với biết bao nhiêu những điều bất công trong xã hội VN, từ Tư pháp hủ bại, Lập pháp coi thường Nhân dân, Hành pháp thì một lũ lú lẫn, đần độn tạo mọi thứ thêm rối loạn. Công quyền thì hách dịch, công an muốn giết ai thì giết, bọn cướp đất thì muốn cướp ở đâu thì cướp tạo ra hàng hàng lớp lớp dân oan kêu trời không thấu, bọn doanh nghiệp vô đạo đức thì bắt tay với quan chức để trốn thuế, bắt tay với chính quyền tự do hủy hoại môi trường sống làm cho tỉ lệ ung thư cao có tiếng trên thế giới, quan chức thì đưa cả dòng họ vào thay nhau cai trị một vùng riêng để mà xà xẻo xương máu nhân dân, tài sản quốc gia… Tất cả những hệ lụy ấy nó sinh ra trên thể chế độc tài, để ngăn chặn những điều tệ hại trên, Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng thiết chế Tam quyền phân lập là con đường duy nhất để xóa bỏ mọi sự xấu xa ấy. Vì khi có Đa nguyên chính trị đa đảng đối lập ngoài nó là hình thức của một thể chế dân chủ, mà nó còn là căn bản của một xã hội Văn minh. Lúc đó nguyên thủ quốc gia sẽ được lựa chọn theo ý nguyện của toàn dân thông qua cuộc bầu cử tự do, ai tài giỏi, ai có những chính sách tốt nhất, thuyết phục Nhân dân thì Nhân dân lựa chọn. Nó khác với ông già lú lẫn bị tai biến nhưng vẫn cứ khư khư ôm quyền lực, chưa kể là một tay sai trung thành của Bắc Kinh vô điều kiện. Lúc đó, khi đảng nào nắm quyền cũng phải làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Anh không thể bao che, bịt dư luận hay muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói như VN, vì khi có đảng cạnh tranh sẽ soi từng cái sai, và lên án cái sai ấy, lúc đó muốn tham ô cũng rất khó, muốn làm sai cũng không được. Vì họ là nơi đáng sống, nên quan chức VN mới chạy thục mạng qua Síp hay Âu Châu, Mỹ, chứ đời nào quan chức ở những quốc gia đó lại đó chạy qua VN? Chẳng trách mới đây dư luận VN lại bức xúc và phẫn nộ với bài viết của Tiến sĩ xây dựng đảng Vũ Thị Nghĩa trên báo Dongnai ngày 21-07 vừa qua. Bài viết ấy Thị kêu rằng VN không cần đa nguyên đa đảng. Chúng ta cũng chẳng lạ gì khi đảng viên cộng sản đều thích kêu gọi VN không cần đa nguyên đa đảng như thế, thậm chí hồi tháng 1-2018, trước Quốc hội và đông đảo nhà báo, ông Trọng phát biểu rằng: “Những đảng viên đòi đa nguyên, đa đảng, từ bỏ XHCN, thực hiện tam quyền phân lập là lạc hậu, bị tác động của bọn phản động, cần phải bị khai trừ ra khỏi đảng”. Dư luận lúc đó cũng bàn tán dữ dội ý kiến của ông trọng chưa xong thì tháng 7-2018, ông Trọng lại dõng dạc tuyên bố rằng: “Những kẻ đòi dân chủ đa nguyên, từ bỏ CNXH, tam quyền phân lập… đều là bọn bất hảo”. Miệng lên án những người đòi đa nguyên đa đảng là bất hảo, là thế lực thù địch, phản động, nhưng chính ông ta tạo điều kiện cho đảng viên của mình tham ô, vơ vét tài sản dưới cách cai trị độc đảng như hiện nay. Để rồi, chính đảng viên của ông ta từ ủy viên bộ chính trị xuống địa phương đều muốn làm.. ‘’bọn bất hảo’’ trong đó Phạm Phú Quốc, Trịnh Xuân Thanh, Kim Thoa là một minh chứng không thể sống động hơn. ‘’Không cần đa nguyên đa đảng’’ là chủ trương của đảng cộng sản, thực chất đó là cứu cánh biện minh cho phương tiện mà thôi. Ngụy biện, dối trời lừa dân, các ông không cần đa đảng để các ông tham ô chẳng ai phát hiện, để các ông nổ súng cướp đất chẳng ai phán xét, để các ông tự do quyết định tương lai đất nước cho dù đó là làm nô lệ cho trung cộng phải không? Miệng nói không cần đa đảng, mà đảng viên đua nhau mua quốc tịch ở xứ đa đảng, đó là tiêu chuẩn kép của người cộng sản chăng? Không cần Đa Đảng nhưng lại cần đa Quốc tịch… Người cộng sản đôi khi thật phức tạp và khó hiểu…! Đọc thêm: “ai là kẻ bất hảo” [https://www.facebook.com/100025474742676/posts/410430486482773/?d=n]  
......

Khóc Thương Chiến Hữu…

Việt Tân: Tháng Tám, tưởng nhớ về các Anh Hùng Đông Tiến đã vị quốc vong thân trên bước tìm đường về đất mẹ với lý tưởng quang phục quê hương, xin giới thiệu đến Quí Độc Giả bài viết của tác giả Trần Diệu Chân đăng trên Việt Báo ngày 30 tháng Tám, 2004. Ban Biên Tập  *** Trần Diệu Chân in một số chiến hữu của tổ chức đã hy sinh, dù đến ở thời điểm nào, cũng đã làm chúng tôi bật khóc. Không chỉ một lần nhỏ lệ, mà những giọt nước mắt tiếc thương, như bất tận, cứ trào dâng lên mãi khi tôi viết giòng này, khi nói chuyện với các anh chị em trong tổ chức hay chia sẻ cùng đồng bào, thân hữu. Những nấc nghẹn tự đáy lòng đã không thể nào đè nén nổi mỗi khi tôi nghĩ đến con đường gian nan các anh đã trải, đến cái chết anh dũng các anh đã can đảm nhận trên con đường giải phóng quê hương. Tôi nhớ đến hình ảnh thân thương của chiến hữu Chủ Tịch, vị lãnh đạo anh minh mà chúng tôi thương quý gọi là Thầy; vị thầy khả kính mà tôi đã học được biết bao điều dù chỉ được có vài lần diện kiến, lần cuối cùng khi ông rời Hoa Kỳ năm 1987. Tôi tiếc đã không được có cơ hội gặp Thầy nhiều, nhưng chỉ cần được nghe ông nói chuyện vài lần với công chúng, với các chiến hữu trong tổ chức và một lần ông họp báo ở Houston, tôi đã cảm phục người chiến hữu lãnh đạo của mình tột bậc; không chỉ ở khả năng diễn đạt lưu loát và những tư tưởng xuất chúng của ông mà còn ở tấm lòng nhiệt tình ông dành cho đất nước, và cách ứng xử bình dị, thân thương ông dành cho mọi chiến hữu trong tổ chức. Những điều tôi nghe được về ông từ cách sống thanh bạch, đạo đức lúc còn là Phó Đề Đốc Hải Quân trước năm 1975, đến đường lối chỉ đạo sáng suốt, sách lược khôn ngoan và những nguyên tắc đầy nhân bản ông đề ra cho Mặt Trận mà giá trị càng ngày càng được chứng tỏ, đã làm lòng tôi thêm ngưỡng mộ và tiếc cho đất nước, cho tổ chức không còn có được những đóng góp của một anh tài nhiệt huyết. Nhưng ngưỡng mộ nhất đối với tôi là tình thương bao la ông dành cho vợ con, cùng lúc vẫn can đảm dứt áo ra đi đền nợ nước. Tôi đã được hân hạnh chia sẻ những tâm sự một đôi lần với Bà Thầy để thấy được tình yêu Thầy Cô dành cho nhau đẹp biết dường nào, để thấy được người đàn ông Việt Nam lý tưởng trên đường hy sinh cho đại nghĩa vẫn lãng mạn, tình tứ, yêu vợ, thương con. Trước khi chia tay lên đường, Thầy đã không quên dặn người con cả thay bố trao cho mẹ những đóa hoa hồng thắm yêu thương vào ngày sinh nhật của bà hằng năm. Và tận nơi chiến khu xa xôi, ông đã trao về người vợ thân yêu những giòng nhạc cảm động ”Trăng Chiến Khu” mà người nghe không thể nào không thấy lòng mình trùng xuống:   Ngồi đây xem trăng sáng chiếu ven chân rừng. Trời lắng đêm dần vắng sương lạnh rơi xuống. Vai sát bên vai, lòng ấm bên lòng, mắt căm hờn chờ ngày xông pha chiến trường. Rừng ơi đem trăng sáng tới rung bao lòng. Vì nước nên lìa mái gia đình êm ấm. Trăng hỡi cho ta, về dưới mái nhà, nhắn ai rằng một ngày ta sẽ trở về… Bản nhạc của Kháng Chiến Quân Trần Thiện Khải với lời nhạc của chiến hữu Hoàng Cơ Minh đã nói lên hết tấm lòng thiết tha, ray rứt của các kháng chiến quân trước tình nhà, nợ nước. Tôi tiếc chưa được một lần gặp mặt những kháng chiến quân đã cùng nằm xuống với chiến hữu Chủ Tịch. Nhưng những điều tôi được nghe về các anh đã làm tôi ngửng đầu hãnh diện vì đã được cùng chia sẻ lý tưởng, và được ở trong cùng một tổ chức với những người con yêu của tổ quốc như các anh. Những chiến sĩ can trường trên trận địa, những tấm gương đạo đức, trong sáng, những nhân tài của đất nước, những tâm hồn đa cảm của một nghệ sĩ, văn sĩ nhưng đã can đảm dứt bỏ hạnh phúc riêng tư, cuộc sống đầy đủ tiện nghi, an lành để dấn thân vào chốn hiểm nguy hầu chấm dứt những đau khổ trên quê hương yêu dấu. Bên cạnh những người con can trường ấy của tổ quốc là các chị vợ kháng chiến quân trong Mặt Trận. Nói sao cho hết những hy sinh cao cả của các chị. Các chị đã thay chồng làm cha, nuôi dạy con cái trong nỗi quạnh hiu, nhung nhớ và lo âu đến thắt ruột cho sự an nguy của chồng. Ôi những người đàn bà Việt Nam, đã phải gánh chịu biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những người vợ lính, vợ các kháng chiến quân – anh lao vào chốn gian nguy lửa đạn để bảo vệ đất nước, em ở lại cam chịu gánh vác mọi nhọc nhằn, khó khăn trong cuộc sống, những lạc lõng nơi xứ lạ quê người, đùm bọc, che chở và thương con gấp bội để đền bù những thiệt thòi con không được gần cha. Khi anh ra đi về lòng đất mẹ, em nén cơn đau xé ruột, ngẩng mặt can trường bước tới vì hạnh phúc và tương lai của con, vì lời hứa và tình yêu cho người nằm xuống.   Hai hàng lệ đang tuôn trào trên khóe mắt, tôi xin gởi tặng những giọt nước mắt thương yêu, ngưỡng mộ này đến cùng các chị. Cảm ơn các chị đã cống hiến hạnh phúc đời mình cho đại nghĩa. Trước anh linh của những người nằm xuống và những tiếp tục hy sinh của các chị, của những kháng chiến quân đang miệt mài chiến đấu trên đất mẹ, của các chiến hữu ở khắp mọi chân trời, tôi nguyện tiếp tục con đường tranh đấu để đưa đất nước đến vinh quang, hạnh phúc. Bao năm qua dù không được cùng các anh chung vai sát cánh, dù có lúc hình dung các anh đã đi vào lòng đất mẹ nhưng tấm lòng của các chiến hữu vẫn càng ngày càng thêm son sắt, bền bỉ. Sự hy sinh của các anh đã làm chúng tôi thêm quyết chí. ”Chúng ta không chủ trương chiến đấu đơn độc, song chúng ta cũng không sợ hãi nếu phải chiến đấu đơn độc.” Lời Thầy nhắn nhủ vẫn còn vẳng mãi bên tai. Giờ đây cách trở âm dương đã không cách biệt được tấm lòng chúng ta cùng hướng về tổ quốc. Trong tim chúng tôi các anh vẫn luôn chung bước. Trước những đánh phá của kẻ địch, và đau lòng hơn nữa là từ những người cùng chiến tuyến, các chiến hữu ta đã nhớ đến câu Thầy từng chia sẻ: ”Đường đi càng gian nan thì chiến thắng càng vẻ vang.” Các chiến hữu ta đã vững chãi niềm tin trên con đường đầy tình thương, vị tha và nhân bản mà Thầy đã vạch; niềm tin sắt đá mà tổ chức đã gieo truyền vào lẽ tất thắng của chính nghĩa, của sự chân thành và trong sáng đã cho tôi và các chiến hữu của chúng ta sức mạnh vô biên để đi tới, san bằng mọi trở lực. ”Con đường chúng ta đi chỉ có hai cái đích. Cả hai cái đích đều vinh quang và vô cùng ý nghĩa. Một là giải phóng tổ quốc Việt Nam. Hai là được anh dũng hy sinh cho đại cuộc giải phóng tổ quốc Việt Nam.” Nghĩa khí đó của Thầy đã trở thành tâm niệm của đoàn viên Mặt Trận. Hôm nay đây, Thầy đã nằm xuống cùng với một số các chiến hữu. Nhưng linh hồn Thầy và các chiến hữu vẫn hiện hữu trong giòng đấu tranh đang cuồn cuộn chảy của dân tộc, với những thế hệ trẻ đang hăng hái nhập giòng, hãnh diện vì đã có một thế hệ cha anh xứng đáng, truyền đạt cho giòng máu kiêu hùng và những giá trị tư tưởng vừa thực tiễn vừa nhân hậu. Nói sao cho hết được lòng cảm kích của chúng tôi, những người đã may mắn tìm được mái ấm thương yêu của một gia đình lý tưởng, cùng đồng tâm cam khổ, chia ngọt xẻ bùi, theo Thầy học chữ Nhẫn trước những ngộ nhận hay cố tình xuyên tạc của búa rìu dư luận, để làm sao đạt tới mục tiêu duy nhất là giải phóng và xây dựng Việt Nam.   Cầu mong anh linh của quý chiến hữu phù hộ cho công cuộc giải phóng đất nước mau đến chỗ thành công. Ngày quê hương đoàn tụ, ăn mừng nắng ấm tự do và hạnh phúc, chúng tôi mong sẽ tìm về nơi chốn xưa để quỳ lạy những chiến hữu đã vị quốc vong thân, tìm gặp lại các anh như lời thơ ”Thăm Bạn” của Kháng Chiến Quân Nguyễn Đức Thắng: Nửa khuya ghé thăm anh, Gió đông về lành lạnh. Giữa bầu trời hiu quạnh, Hờ hững nước trôi quanh. Anh nằm bên giòng suối, Chơ vơ một gốc chanh. Con chim nào đang khóc, Vì thương lá đoạn cành. Kìa anh cây chanh nhỏ, Hôm dúi vội bên anh. Bây giờ chanh đã lớn, Mồ anh cỏ cũng xanh. Anh giờ thôi áo trận, Thay vào áo sử xanh. Tôi còn mang áo cũ, Đêm ngày vẫn đấu tranh. Ghé thăm anh nửa phút, Rồi tiếp tục di hành. Gởi anh cây chanh nhỏ, Nhờ anh bón cho xanh. Mai này sau giải phóng, Khi đại cuộc đã thành. Lấy cây chanh làm dấu, Tìm cốt người hùng anh. Thôi chào nhau anh nhé, Chúc anh giấc mộng lành. Trời bây giờ cũng sắp, Vào Xuân rồi đó anh. Trần Diệu Chân (28/8/2004)  
......

Tiền đâu ĐBQH Phạm Phú Quốc chi 2.5 triệu USD để mua quốc tịch Âu châu?

Le Anh| Theo hãng tin Al Jazeera hôm 24 Tháng Tám, 2020 đã tung ra một tài liệu mật trong đó cho thấy chương trình hộ chiếu của Cộng hòa Síp (Cyprus), thuộc Liên minh châu Âu, cho phép các chính trị gia “dễ tham nhũng” có thể có được tấm hộ chiếu nước này để trở thành công dân châu Âu. Al Jazeera lập 100 hồ sơ từ hàng chục nước khác nhau và có nêu tên hai người từ Việt Nam là Đại biểu Quốc hội Phạm Phú Quốc (Đoàn ĐBQH Tp HCM) và doanh nhân Phạm Nhật Vũ. Hồ sơ cho thấy ông Phạm Phú Quốc được cấp quốc tịch Cyprus ngày 12/12/2018 và vợ ông cũng có quốc tịch Cyprus. Ông Phạm Nhật Vũ, hiện đang thụ án tù 3 năm vì tội đưa hối lộ trong vụ án MobiFone mua AVG, có hộ chiếu Cyprus ngày 06/05/2019 và vợ ông cũng được cấp quốc tịch Cyprus. Cũng theo tài liệu của AL Jazeera tiết lộ, số tiền mua hộ chiếu lên tới 2,5 triệu mỹ kim. Sự kiện này rúng động trong dư luận Việt Nam, đặc biệt là trong hàng ngũ lãnh đạo của CSVN. Một số truyền thông trong nước vào cuộc để tìm hiểu sự việc. Ông ĐBQH Phạm Phú Quốc trả lời các báo chí rằng Ông có quốc tịch Cyprus, do gia đình bảo lãnh. Ông còn giải thích thêm: “Vợ và con trai tôi đều là những doanh nhân. Con trai tôi học tập, làm việc tại Anh từ năm 2013, có sự nghiệp ổn định và quyết định gắn bó lâu dài. Đến năm 2017, vợ và con gái tôi có mong muốn ra nước ngoài học tập và sinh sống cùng con trai tôi nên đã thực hiện các thủ tục xin quốc tịch tại đảo Cyprus. Quốc gia này cho phép nhập quốc tịch không phải thôi quốc tịch Việt Nam. Sau đó, giữa năm 2018 gia đình tôi đã làm thủ tục bảo lãnh xin quốc tịch cho tôi tại Cyprus…” ông Quốc nói. Một số báo chí cho rằng những gì ông Quốc trả lời cho thấy ông ĐBQH “méo mó” và có nhiều vấn đề không thành thật. Một sô câu hỏi được dư luận đặt ra: 1. Tiền ở đâu mà ông có thể tài trợ để đưa vợ con ông đi học tại Anh Quốc? 2. Tiền ở đâu vợ con ông làm kinh doanh? 3. Ông nói giữa năm 2018 gia đình tôi đã làm thủ tục bảo lãnh xin quốc tịch cho tôi tại Cyprus thì tại sao ông vẫn nhận giữ vai trò Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Phát triển công nghiệp Tân Thuận (IPC) khi được uỷ ban nhân dân thành phố HCM điều động. (Được biết công ty này 100% vốn nhà nước, thuộc UBND TP HCM). 4. Với vai trò đương nhiệm là Đại biểu và Giám đốc của một công ty lớn của nhà nước nhưng ông Quốc không hề báo cáo khi ông có thêm quốc tịch Âu châu và chuẩn bị dọn đường sang sinh sống tại Cyprus cùng với gia đình, cho đến khi bị phát giác thì ngụy biện rằng chuẩn bị làm báo cáo. Dư luận yêu cầu ông Đại biểu Quốc trả lời câu hỏi thắc mắc tiền ở đâu mà ông ĐBQH có thể chi cho gia đình sang Anh, rồi làm kinh doanh và chi 2.5 triệu USD để mua quốc tịch Âu châu trong khi tiền lương của một ĐBQH không quá 15 triệu/tháng? Nếu ông cho rằng hãng tin Al Jazeera tiết lộ sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín, mất danh dự của ông thì hãy khởi kiện hãng tin này. ÔNG ĐBQH PHẠM PHÚ QUỐC CÓ DÁM KHÔNG? Lê Ánh  
......

Lý tưởng cách mạng là lý tưởng gì?

Phạm Phú Quốc Phạm Minh Vũ| Việc đồng phí Phạm Phú Quốc bị lộ ra vì có quốc tịch thứ 2 ở Síp là một câu chuyện thật bi hài. Về tư cách đảng viên, 2 năm qua Phạm Phú Quốc có quốc tịch khác mà ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng không hề biết mới là điều phi lý nhất trong các điều phi lý. Hài hước hơn, khi báo chí hỏi thì Đại diện Quốc hội mới đi xác minh, Quốc là Dân biểu, những hoạt động liên quan có quốc tịch mà Quốc hội lại không hề biết? Như vậy đảng của ông trọng và quốc hội của Bà Ngân nó vô liêm sỉ quá. Vô liêm sỉ là để cho một thằng Dân biểu có quốc tịch ngoại bang luồn sâu leo cao vào thao thao bất tuyệt các chuyện đại sự của Việt Nam. Và cái liêm sỉ ấy vô tình nó đội lên đầu của ông trọng bà ngân. Chuyện xử lý Quốc có thể chiếu lệ và Quốc sẽ thoát qua Síp với khối tài sản mà y đã vơ vét được vì đã “tận hiến cả đời cho cách mạng”. Người Dân đặt câu hỏi, vậy đích đến cuối cùng của Thiên đường XhCN mà đảng cộng sản cố dẫn dắt cả Dân tộc đi ấy, nó là Síp hay là Pháp hay là Đức? Cái gọi là lý tưởng mà người cộng sản theo đuổi là cái gì? Ta có thể trả lời một cách tóm tắt qua một số ví dụ, nếu hỏi lý tưởng với Tất Thành Cang, Lê Thanh Hải là gì thì chắc chắn các ông ấy sẽ nói rằng: lý tưởng cộng sản chẳng có gì ngoài cướp trắng nhà Dân mà không hề bị xử lý, thậm chí còn được đảng tặng nhiều danh hiệu Huân huy chương cao quý khác nữa. Nếu hỏi lý tưởng cách mạng là gì với Hồ Thị Kim Thoa thì trả lời rằng “ Nắng Mùa thu Paris” đẹp hơn Hà Nội, hỏi Phạm Phú Quốc thì chẳng phải thiên đường XHCN đích đến là Síp sao? Ta hỏi Nguyễn Đức Chung thiên đường XhCN ở đâu thì chẳng phải ông Chung chỉ về phía Hoa Thịnh Đốn đó sao? Đại biểu Nguyễn Văn Thân thì không chỉ về phía Mỹ mà ông ta nói nó chắc chắn ở Balan. Bà Hường Dân biểu và chồng là ông Tuấn (chợ) thì lại nói không phải ở Balan, mà nó ở tận Malta kia. Và nếu hỏi lý tưởng cách mạng của Lê Khả Phiêu là gì ngoài gái tàu và quyền lực cai trị có gì khác? Và nếu ta hỏi lý tưởng cách mạng của Ông trọng là gì? Thì còn câu trả lời nào gọn ghẽ bằng: là được cai trị 90 triệu dân bằng đầu óc lú lẫn, mặc dầu chẳng ai bầu mà cung phụng ông ta như vua như chúa. Biến công thổ thành của riêng để bán cho tàu, biến tài sản của dân thành của đảng. Chỉ ngồi và hưởng thụ? Người cộng sản luôn thực hiện chính sách ngu dân, rồi tuyên truyền để Nhân dân cày lưng đóng thuế cho các quan xây dựng thiên đường bên tận trời Âu trời Mỹ chứ nào có ai chịu vì dân. Lý tưởng cộng sản chẳng có nghĩa lý gì nếu không thêm màu vị là bóc lột, cướp và cướp không chừa một thứ gì của dân. Lý tưởng của người cộng sản đôi khi nó đơn giản là tấm hộ chiếu 2,5 triệu đô mà thôi!  
......

Chúng ta sống với Covid 19 bao lâu nữa?

Ngô Nhân Dụng – VOA Trong hai tuần liên tiếp, hai đảng Dân chủ và Cộng Hòa họp đại hội đề cử người làm ứng cử viên tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2021-25. Lần đầu tiên các “đại hội” diễn ra hoàn toàn trên mạng, đó là điều mới lạ, nổi bật năm nay. Ngoài ra, không có gì khiến thiên hạ phải ngạc nhiên, vì ai cũng biết trước các bài diễn văn trong hai đại hội sẽ nói những gì! Cũng vì thế nên tôi đã không theo dõi một đại hội nào cả (một phần còn vì các tiệm ăn, quán nước đều đóng cửa trong mùa Covid mà ở nhà tôi thì không có ti vi). Dân Mỹ đã biết trước chủ trương của hai đảng khác nhau thế nào rồi, sau khi nghe hai bên tranh cãi suốt mấy năm qua. Cho nên không ai nghĩ những khẩu hiệu “hô lớn” trong các đại hội sẽ thay đổi ý người dân Mỹ trong lựa chọn bỏ phiếu cho ai. “Tiếng nói” lớn nhất, có ảnh hưởng nhất trên lá phiếu cử tri năm nay sẽ là những “con vi khuẩn” nhỏ xíu và hoàn toàn im lặng: Coronavirus! Có thể đoán rằng kết quả cuộc bầu cử năm 2020 này sẽ tùy thuộc thái độ của cử tri với loài Coronavirus, tên chính thức trên giấy khai sinh là SARS-CoV-2! Nếu mọi người nghĩ rằng Covid 19 là do tai trời ách nước, không cách nào tránh khỏi, thì họ không coi chính phủ đương cầm quyền chịu trách nhiệm. Nếu họ lại nghĩ rằng tất cả cơn bệnh dịch Covid 19 không có thật, chỉ được thổi phồng thôi, thì họ càng không quan tâm. Ngược lại, nếu nghĩ chính quyền đã thất bại không đối phó được bệnh dịch Covid, thì người ta sẽ trừng phạt. Ông Donald Trump hay ông Joe Biden thắng trong cuộc bỏ phiếu đầu tháng 11 sắp tới, chuyện đó cũng không quan trọng bằng câu hỏi: Chúng ta sẽ phải sống với Coronavirus đến bao giờ? Đó là thắc mắc lớn nhất của mọi người, ở Mỹ cũng như khắp thế giới! Tuần báo Economist mới tường thuật cuộc phỏng vấn ông Bill Gates hồi đầu tháng Tám. Có một tin đáng mừng: Ông Gates tiên đoán đến cuối năm nay thế giới sẽ qua khỏi cơn bệnh dịch Covid 19! Vì đến cuối năm nay chắc sẽ có thuốc chủng ngừa hữu hiệu và được sản xuất hàng loạt đủ dùng cho loài người. Người ta chích thuốc, sẽ tránh được căn bệnh này. Hiện 150 loại thuốc chủng (vaccine) đang được thí nghiệm, trong đó có sáu loại đang thử lần chót với rất nhiều người tham dự. Ông Gates chắc biết nhiều hơn chúng ta về chuyện này, vì tổ chức Bill & Melinda Gates Foundation, trong nhiều năm qua, đã chuyên lo việc chủng ngừa cho trẻ em khắp thế giới tránh các bệnh tê liệt (polio) và bệnh sốt rét. Năm 2005 ông Gates đã nói trong chương trình TED một bài cảnh cáo chính quyền các nước phải lo phòng bệnh dịch. Tại sao các nước chi không biết bao nhiều tiền để phòng một cuộc chiến tranh nguyên tử, mà không lo ngăn ngừa một bệnh dịch toàn cầu sắp xẩy ra! Năm nay vợ chồng ông đã tặng $350 triệu đô la để giúp các nước nghèo đối phó với Covid 19. Tuy lạc quan rằng cuối năm nay Covid 19 sẽ ngưng lại, nhưng ông Gates cũng sợ rằng sẽ có hàng triệu người chết vì Covid 19, phần lớn ở các nước nghèo. Trong đó chỉ 10% chết vì mắc bệnh, còn 90% là do hậu quả gián tiếp. Nhiều người chết do các bệnh như HIV hay bệnh sốt rét, họ không được chủng ngừa hoặc không được chữa trị đúng mức. Bởi vì các bệnh viện chật ních bệnh nhân Covid 19, được ưu tiên chữa trước. Bệnh dịch khiến kinh tế khắp nơi đi xuống, nhiều người có thể chết vì thiếu ăn. Mỹ không phải một “nước nghèo” cho nên, cho đến khi có thuốc chủng ngừa, nếu ai chết thì phần lớn sẽ vì mắc bệnh. Tuy nhiên, dù có vaccine rồi, không phải ai cũng chịu chích ngừa. Một phần ba dân Mỹ không chấp nhận chích ngừa, bất cứ bệnh gì! Một lý do khác, là chích ngừa rất tốn kém! Người ta đã phải chi nhiều tỉ mỹ kim để thử nghiệm và sáng chế trước khi sản xuất qui mô lớn. Khi đã có vaccine rồi, dân các nước giầu sẽ được hưởng trước, giản dị, chỉ vì thuốc rất đắt. Nhưng sau khi các công ty chế thuốc thu hồi lại phần lớn vốn bỏ ra, thuốc sẽ rẻ hơn. Ông Gates đề nghị các nước giầu hãy mua thuốc chủng tặng cho các nước nghèo. Đây không phải là một hành động từ thiện, mà còn vì chính mình. Không ai có thể ngủ yên, dù dư tiền nhiều của, nếu Coronavirus vẫn còn xâm lăng nhà hàng xóm, hoặc đang tung hoành ở các xứ nghèo trên thế giới! Khi có vaccine rồi, có thể kiểm soát được không cho Coronavirus lan tràn, nhưng cũng còn tùy vaccine hiệu nghiệm như thế nào. Nếu người chủng ngừa được miễn nhiễm trong vòng một, hai năm, thì còn lâu mới phải đối phó với một Covid mới. Nếu chỉ trong vòng mấy tháng lại phải chích ngừa lần nữa vì hết miễn nhiễm, thì chúng ta sẽ còn duyên nợ với anh Coronavirus khá lâu, vài năm một cơn bệnh dịch khác lại có thể bùng ra. Ngày Thứ Năm, 20 tháng Tám, Bác sĩ Robert Redfield, giám đốc CDC, Trung tâm Phòng Bệnh Dịch ở Mỹ, đã nói với Tạp chí JAMA (Journal of the American Medical Association) rằng ông hy vọng số người mới mắc bệnh ở Mỹ sẽ xuống dưới 10,000 mỗi ngày, và số người chết sẽ xuống dưới 250; khi mọi người theo đúng các lời hướng dẫn cho CDC, như đeo mạng che mũi, cách ly, rửa tay thường xuyên và tránh tụ tập trong nhà, đặc biệt trong quán rượu, là nơi người ta nói nhiều, nói lớn tiếng, dễ dàng phun virus vào mặt nhau! Ông Redfield giải thích rằng loài virus mới năm nay khác hẳn những anh em họ hàng của nó từng gây bệnh cảm cúm. Người bị cúm thường truyền bệnh cho một, hai người ở gần. Còn anh bạn mới SARS-CoV-2 này thường lan truyền khi đông người tụ tập, nhất là ở trong nhà, không có gió. Với tính chất đó, việc ngăn ngừa không cho SARS-CoV-2 lan tràn tương đối dễ, nếu mọi người làm đúng những điều CDC khuyên bảo. Nhưng điều này cũng gây ra một mối lo, là đến cuối mùa Thu, vào mùa Đông, người ta sẽ phải sống ở trong nhà nhiều hơn! Làm sao để tránh không gặp nhiều người lạ ở một chỗ kín gió? Các sân banh bầu dục và bóng chày có thể an toàn hơn các sân chơi bóng rổ, tiệm ăn, quán rượu và rạp chớp bóng! Rất khó làm cho SARS-CoV-2 biến mất. Chúng ta chia sẻ thế giới này với hàng trăm triệu loài virus khác nhau, rất nhiều loài vẫn sinh sống trong các cầm thú, từ dơi, gà, đến chuột. Có dịp thuận tiện thì các thứ virus đó biến thái và nhẩy sang loài người. Loài virus gây bệnh Ebola chết người cũng từng trú ngụ trong các loài dơi, trước khi có khả năng truyền từ người sang người. Trận dịch Ebola phát xuất từ miền Tây châu Phi đã được ngăn chặn năm 2016, mà nước Mỹ đóng một vai trò lãnh đạo trong chiến dịch này. Loài người chỉ có thể ngăn không cho Ebola lan tràn, bằng các phương pháp quen thuộc: cô lập hóa, theo dõi những người đã gần gũi người bệnh, và chủng ngừa. Nhưng không thể làm cho giống vi khuẩn đó biến mất! Năm 2018, Ebola lại bột phát ở Cộng Hòa Congo. Nếu có vaccine rồi, và lại tìm ra thuốc trị Covid 19 có hiệu quả, thì có thể loài SARS-CoV-2 này sẽ không còn tấn công loài người vũ bão như hiện nay. Chúng không biến mất thì sẽ gia nhập đại gia đình bốn thứ coronaviruses khác, cùng một họ, là 229E, OC43, NL63, và HKU1; những thứ virus gây nên các chứng cảm cúm mà mỗi năm đến mùa chúng ta vẫn bị nhiễm, nếu không chích ngừa. Có thể rằng các anh chị này xưa kia đã từng gây nên những trận dịch lớn mà người ta không biết nên chưa đặt tên! Sau khi tác hại nhân loại một vài trận lớn, các anh chị virus đó trở nên hiền lành, vì con người đã quen rồi, dần dần miễn nhiễm. Covid 19 sẽ qua khỏi. Có thể đoán chắc như vậy. Chỉ có điều là không biết nó sẽ qua khỏi ngày nào, tháng nào. Cho nên, từ nay cho đến đầu tháng Mười Một, các ứng cử viên vẫn hồi hộp! Họ vẫn phải chi tiền vận động tranh cử, không phải chỉ để chinh phục thêm cử tri mới mà còn vì cần bảo vệ thành trì những người đã ủng hộ mình vững vàng, không để cho loài Coronavirus lay chuyển!  
......

Sự ngụy biện của đám tuyên giáo!

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân| Đa đảng là một hình thức sinh hoạt chính trị phổ biến ở hầu hết các nước theo thể chế dân chủ trên thế giới. Chỉ riêng ở Việt Nam và một số quốc gia độc tài nguỵ trang dân chủ, đa đảng chẳng những là một đề tài cấm kỵ mà còn bị các cơ quan tuyên giáo trung ương ra sức bài bác một cách lố bịch, với não trạng xơ cứng rằng “đa đảng là hỗn loạn.” Mới đây một cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh của trường Chính Trị Đồng Nai, bà Tiến Sĩ Vũ Thị Nghĩa đã viết một bài và được đưa lên báo Đồng Nai với tựa đề:  “Việt Nam không cần và không chấp nhận đa đảng.” Từ những nhận định một chiều và phiến diện, bà Nghĩa khẳng định chắc nịch: “Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam hoàn toàn không phải là sự áp đặt từ phía đảng hay một lực lượng chính trị nào khác mà chính là sự lựa chọn của dân tộc, của nhân dân. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam cho phép khẳng định: Ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng.” Bài viết dài dòng và lê thê với những lý luận quen thuộc đã được nhai đi nhai lại quá nhiều lần bởi các bồi bút của Ban Tuyên Giáo; nhưng tóm lại, bà Nghĩa chỉ muốn nhấn mạnh đến ba điều: – Chế độ độc đảng tại Việt Nam là sự lựa chọn của nhân dân; – Đảng CSVN là đảng lãnh đạo độc nhất vì đó là thực tiễn của cách mạng; – Chế độ độc đảng cầm quyền ở Việt Nam hoàn toàn có thể bảo đảm và phát huy dân chủ! Trước hết luận điểm “là sự lựa chọn của nhân dân” hoàn toàn sai trong thực tế, từ ngày cộng sản cầm quyền. Suốt 90 năm, dân chúng Việt Nam có được quyền chọn lựa lúc nào đâu mà gọi là sự chọn lựa của nhân dân? Từ khi cướp chính quyền vào tháng Tám năm 1945, sau đó cướp công kháng chiến của toàn dân, đảng đã chọn mô hình cộng sản để cai trị đất nước. Diễn biến của hệ thống cộng sản thế giới cho đến năm 1991 đã chứng minh sự lựa chọn mô hình này là hoàn toàn sai lầm. Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ dựa vào Liên Xô và Trung Quốc, dùng vũ lực khống chế người dân phải làm theo đảng, nói theo đảng, ăn theo đảng… Ngay cả quyền đi bầu người lãnh đạo đất nước cũng chưa bao giờ được làm. Cứ 5 năm một lần, người dân được nhà nước hô hào đi bầu quốc hội như một cách thể hiện dân chủ tốt đẹp của chế độ. Nhưng thực tế người dân chỉ được quyền bỏ phiếu cho các ông bà nghị gật do đảng chọn sẵn để gọi đó là cơ quan quyền lực cao nhất nước. Đây là cơ chế “đảng cử dân bầu” do đảng CSVN dàn dựng mà không nước nào có. Kế đến, đảng cộng sản giữ vai trò là đảng lãnh đạo độc nhất vì thực tiễn cách mạng, bởi đảng là người có công duy nhất đánh thắng Pháp, Mỹ, Tàu. Chẳng những vậy, đảng còn là ngọn đuốc soi đường đưa Việt Nam vào thiên đường xã hội chủ nghĩa. Thế giới đã chứng minh xã hội chủ nghĩa là một mô hình không hề có và nhân dân Việt Nam đâu có ai nhờ đảng làm cách mạng kiểu hoang tưởng này. Cho đến ngày nay sau 90 năm nắm độc quyền dẫn dắt, Việt Nam không ngóc đầu lên nổi vì cái vòng kim cô xã hội chủ nghĩa, cho dù nhân dân bị cưỡng bách đóng góp tối đa cho mục tiêu này. Thật cay đắng khi giờ này mà đảng còn đem “thực tiễn cách mạng” ra để phủ dụ người dân, rõ ràng là một đám người nuôi mộng tưởng “ai thắng ai” của một thời đã qua. Sau cùng, nói chế độ độc đảng bảo đảm phát huy dân chủ là một lối nói cường điệu, ngu xuẩn, hoàn toàn không hiểu hay cố tình không hiểu thế nào là dân chủ. Dân chủ không cần diễn đạt một cách cao siêu mà đơn giản đó là quyền làm chủ đất nước của người dân mà chính quyền là người được trao quyền điều hành để thực hiện khế ước chính trị giữa đôi bên, bằng một cuộc bầu cử tự do. Mọi sự vận hành của xã hội đều phải thông qua những cuộc trưng cầu dân ý của số đông. Như vậy chế độ mới có thể bảo vệ đích thực và dung hoà giữa quyền lợi, bổn phận của người cầm quyền và cộng đồng dân chúng. Khi một đất nước  bị một thiểu số nắm quyền lãnh đạo và cai trị một cách độc đoán, lại kéo dài từ năm này sang năm khác thì làm sao xây dựng được dân chủ, nói gì đến trưng cầu dân ý. Đất nước Việt Nam hiện nay không có dân chủ vì nằm trong tay một đảng độc nhất, được lãnh đạo bởi 4 người gọi là “tứ trụ.” Họ chia nhau quyền lực thống trị đất nước, và cứ như thế mỗi năm năm một lần, trong nội bộ đảng lại tổ chức bầu bán và trao quyền cho nhau. Đảng CSVN nói đó là sự lựa chọn theo ý muốn của dân tộc thì rõ ràng cả một dân tộc bị bịt miệng, bị gông cùm trong một nhà tù khổng lồ. Nói tóm lại trong khi nhân loại đang ở thế kỷ 21, mạng xã hội đã phá tung những bưng bít, mị dân thế mà vẫn có những người gọi là có học thức cao như TS Vũ Thị Nghĩa buông ra những giọng điệu lạc hậu khinh miệt nhân dân đến thế. Nói như bà tiến sĩ này “Việt Nam không cần đa đảng” hay “chế độ độc đảng tại Việt Nam là sự chọn lựa của nhân dân,” khiến người ta chỉ có thể lý giải rằng, nội bộ đảng CSVN thực sự đang rúng động vì những áp lực đòi đa nguyên đa đảng ngay trong mọi tầng lớp đảng viên. Chính vì thế đảng phải cho một số cán bộ tuyên giáo xuất hiện nói theo kiểu cường điệu, nguỵ biện nhằm che giấu thực trạng ruỗng nát trong nội bộ sau 5 năm đốt lò chống tham nhũng của ông Trọng mà thôi. Phạm Nhật Bình  
......

Việt Nam không cần cộng sản và không chấp nhận cộng sản

Phạm Minh Vũ| Trong bài viết mới đây của Tiến sĩ xây dựng đảng Vũ Thị Nghĩa trên báo đồng nai ngày 21-07 nói rằng VN không cần đa đảng và không chấp nhận đa đảng. Bài viết ngắn nhưng vì tôi thường xuyên nghiên cứu những bài viết có đề tài này nên tôi biết, Chị Nghĩa ngồi phòng lạnh và coppy bài của nhiều người, trong đó có bài của PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú (Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018), và nhiều bài viết khác của nhiều tác giả nữa, chính vì vậy tôi tin chắc chắn rằng, chị Nghĩa không hề biết mình đang nói gì, nhất là thứ bằng tiến sĩ xây dựng đảng, một loại bằng cấp rác rưởi của nhân loại thì phát biểu mang tính thần kinh như Thị là điều không khó hiểu. Mở bài Thị nói rằng: ‘’Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam hoàn toàn không phải sự áp đặt từ phía Đảng hay một lực lượng chính trị nào khác mà chính là sự lựa chọn của dân tộc, của nhân dân. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam cho phép khẳng định: Ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng’’. Chỉ mở bài như thế này thôi thì chúng đã thấy sự bệnh hoạn trong não trạng của Thị nói riêng và người cộng sản VN nói chung. Họ quá ảo tưởng đến mức bệnh hoạn, lập luận cho rằng đảng cộng sản cầm quyền ở VN là do lựa chọn của dân tộc, của nhân dân? Dân tộc nào lựa chọn? Nhân dân nào mà lựa chọn đảng cộng sản? Chính phủ Trần Trọng Kim mới hình thành non 5 tháng, phải giải quyết hàng loạt hệ lụy đang tồn tại trong xã hội VN bấy giờ, Việt Minh chui từ rừng về xách động quần chúng, lợi dụng nạn đói để tuyên truyền và cướp chính quyền, bằng nhiều thủ đoạn hạ bệ các đảng phái chính trị đối lập sau đó, Cộng sản nắm hoàn toàn quyền lực ở Miền Bắc sau 1954. Sau đó được sự hỗ trợ về người và của của Bắc Kinh, Sô-Viết, một lần nữa tắm máu đồng bào Miền Nam, đảng cộng sản dùng ý chí ngoại bang ở đây là Trung quốc, là Chủ nghĩa Cs để cai trị lên dân tộc VN, chứ Dân tộc nào chọn? Cộng sản từ khi nắm quyền tới bây giờ, chưa một lần tổ chức bầu cử tự do, nhân sự chính quyền đều do đảng cs bế lên rồi bế xuống, diễn trò với nhau, chưa một lần cho nhân dân lựa chọn, mà Nghĩa bảo là Nhân dân lựa chọn? Những năm qua, đảng cộng sản đã cố gắng nhượng chủ quyền, bán đất bán biển, hợp tác toàn diện với kẻ thù, xem kẻ thù là bạn, đảng cộng sản đã tự thể hiện là một tổ chức phản động, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Đảng cộng sản đã nắm quyền cai trị, thâu tóm mọi định chế trong đất nước, xem Nhân dân là kẻ thù để cai trị, đảng cộng sản tàn ác với dân bằng các chính sách bóc lột thuế, bằng cách hành xử cướp đất đẩy hàng vạn Nhân dân vốn dĩ có nhà cửa ruộng vườn thành tay không. Trong khi đó cộng sản lại giao hơn 162.000 ha đất cho người TQ sử dụng. Đảng cộng sản quản lý kinh tế làm cho đất nước điêu tàn, nào là cú đấm thép, nào là ‘’kiến tạo’’ tất cả đều chìm ngỉm trong đống nợ công. Hoàn toàn thất bại, hoàn toàn lỗ vì đường lối tham ô của đảng tạo điều kiện cho những cú đấm thép, tập đoàn ấy chết trong trứng nước, chỉ duy nhất nợ là phát triển, nợ đến nỗi ông trọng phải bán 3 đặc khu cho tàu cộng, nhưng may Nhân dân họ tỉnh táo mới không bị mắc lừa bởi đảng cộng sản. Về mặt chính trị đảng cộng sản cấm hoàn toàn quyền tự do, đảng cộng sản chà đạp trên Hiến pháp khi cấm người Dân lập hội nhóm, quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận, tất cả các quyền đó là Phổ quát, quyền được Hiến định, vậy mà đảng cộng sản bỏ tù ai mà sử dụng các quyền ấy. Đảng cộng sản đẩy Nhân dân vào bước đường khốn khổ, khắp nơi đều oán hận Dân tình điêu linh, nhà nhà căm phẫn cách hành xử của một chế độ bạo tàn. Chỉ nhiêu đó thôi, chúng ta thấy, đảng cộng sản chính là kẻ thù trực tiếp của Dân tộc của Nhân dân Việt Nam. Cộng sản là tổ chức phản động, ngụy quyền luôn đi ngược lại lợi ích Nhân dân, đất nước. Vì vậy, tôi dám tự tin mà khẳng định rằng, Dân tộc, Nhân dân Việt Nam không cần và không chấp nhận đảng cộng sản. Dân tộc, Nhân dân ấy trong đó có tôi!  
......

Số đông để bảo toàn lực lượng

Đỗ Đăng Liêu – Việt Tân Trong cuốn sách “Từ Độc Tài Đến Dân Chủ” viết về Đấu Tranh Bất Bạo Động, ở cuối sách, Tiến Sĩ Gene Sharp đúc kết lại 198 phương cách phản kháng cụ thể. Trong 198 phương cách đó, ngoại trừ một vài phương cách có thể thực hiện với tính cách cá nhân, một người đơn lẻ, mà  có thể đạt hìệu quả tác động ở một mức độ nào đó, như tuyệt thực, tự hứng khổ nạn,… thì tất cả những phương cách còn lại đều cần số đông thì mới mang lại kết quả đáng kể. Cũng vì vậy mà chúng ta luôn nói là căn bản, điều kiện thiết yếu, để đấu tranh bất bạo động thành công là phải có sự tham gia của số đông người. Trong thời gian qua nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gia tăng việc trấn áp, bắt bớ, cầm tù ngày càng nhiều những nhà hoạt động dân chủ mặc dù tất cả họ đều đấu tranh ôn hoà, tuyệt đối không bạo động. CSVN biết rất rõ những sai trái, tội ác của họ đối với đất nước và người dân Việt Nam. Họ biết rất rõ là nếu những tội ác tày trời không thể tha thứ của họ bị phơi bày thì bằng bất cứ giá nào người dân Việt, mặc dù bao năm qua vẫn âm thầm chịu đựng, sẽ tức khắc đứng dậy chấm dứt chế độ này. Và để có tác động đủ mạnh làm sụp đổ chế độ độ tài thì phải có đông đảo người dân tham gia. Nắm rõ nguyên lý đó, CSVN, dù trong thời bình, đã tạo ra một lực lượng công an khổng lồ với hàng triệu công an viên, không để bảo vệ an ninh công cộng mà để đè bẹp, dập tắt mọi manh nha kết hợp số đông dân chúng. XEM THÊM: Sức mạnh của số đông CSVN quan niệm tất cả mọi hành động kết hợp thành số đông, từ những lời phát biểu kêu gọi, những bài viết tố cáo, những hình thức tụ tập hay lập hội, dù chỉ là với mục tiêu ái hữu, thể thao, văn hoá, nghệ thuật,… đều là nguy cơ cho sự tồn tại của chế độ. Vì vậy, bằng đủ mọi cách, từ theo dõi, áp lực, dọa nạt, bạo hành, bắt bớ, giam cầm,… thậm chí sát hại, CSVN quyết tâm vô hiệu hoá tất cả mọi hành vi mà họ vu cho là mưu toan lật đổ chế độ. Phải nhìn nhận là cho đến giờ CSVN đã tạm đạt được mục đích của họ khi đàn áp tàn khốc và làm yếu đi phong trào dân chủ. Những hành động chống đối của phong trào dân chủ trong thời gian qua hầu hết dựa vào sự xuất hiện công khai và can trường của những cá nhân, và trong một số trường hợp của một nhóm nhỏ người. Để đối phó, CSVN đã triệt tiêu thể chất (cụ thể là giam tù) những nhà hoạt động này và phong trào đã phải khựng lại. Điểm lại những phương cách đấu tranh bất bạo động mà TS Gene Sharp đã đúc kết chúng ta thấy có những phương cách khác nên áp dụng trong hoàn cảnh hiện nay, và chắc chắn sẽ đạt hiệu quả hơn. Đó là những phương cách phản đối mà không cần công khai hoá người chủ trương và vì thế công an khó triệt tiêu họ hơn. Để phá một cuộc biểu tình xuống đường tuần hành, công an CSVN có thể đem một lực lượng khổng lồ với dùi cui súng ống tới để dẹp đi bằng bạo lực. Nhưng, lấy thí dụ, giả thử một số thật đông công nhân làm việc trong lãnh vực điện cùng lúc cáo bệnh nghỉ ở nhà thì công an đối phó bằng cách nào? Ngoài việc lợi tức bị ảnh hưởng nếu họ không đi làm, chắc chắn sự an toàn của người phản đối sẽ được bảo đảm nhiều hơn. Công an không thể vô cớ tới nhà bắt giam một con số lớn những người công dân nghỉ ở nhà vì bị đau ốm. Chỉ cần một số lượng đáng kể công nhân viên điện không tới nhiệm sở thì chắc chắn sẽ gây ra xáo trộn vô cùng lớn lao, thậm chí tê liệt, trong xã hội. Cũng giả thử nếu cùng lúc đó những công nhân viên trong các lãnh vực y tế, nguồn nước,… cũng nghỉ bệnh ở nhà thì ảnh hưởng của việc phản đối lại càng lớn hơn lên theo cấp số nhân hay lũy thừa. Và công an sẽ chẳng thể làm gì được. Khi đó, để ổn định xã hội, nhà nước CSVN bắt buộc phải chấp nhận những nhượng bô đáng kể để thoả mãn những yêu cầu đòi hỏi chính đáng của người dân. Những nhà lãnh đạo đấu tranh dân chủ, qua những phương tiện thông tin của thời đại kỹ thuật số, có thể kêu gọi người dân tham gia hiệu quả mà vẫn bảo vệ được sự an toàn của chính mình và các thành viên của tổ chức của họ và người dân khi kêu gọi họ tham gia. Điều cần phải có là người dân phải hiểu được nguyên lý của những phương cách đấu tranh bất bạo động này và tích cực hưởng ứng. Đỗ Đăng Liêu #ĐấuTranhBấtBạoĐộng #sốđông  
......

Nhận diện Mafia chính trị trong đảng CSVN

Ls Nguyễn Văn Đài Các nhà lý luận của đảng CSVN, các dư luận viên, hay những người ủng hộ hoặc làm tay sai cho đảng CSVN thường lớn tiếng nói rằng đa đảng là chưa phù hợp với VN. Họ đưa ra lí do nếu Việt Nam có đa đảng thì sẽ có một đảng nào đó bị Trung Quốc mua chuộc thì sẽ gây rối loạn đất nước. Và họ kết luận rằng vì Việt Nam nằm cạnh nước lớn Trung Quốc nên chế độ đa đảng là không phù hợp. Vậy lý luận của những người bênh vực cho chế độ độc đảng cộng sản có đúng không? Tôi sẽ phân tích về ưu điểm của chế độ đa đảng và bản chất phản động của chế độ độc đảng CS để quí vị thấy rõ. Trước hết, chúng ta cùng xem các ưu điểm của đa đảng: Khi có đa đảng thì hiển nhiên có hệ thống tam quyền phân lập, báo chí tư nhân tự do hay truyền thông độc lập. Và đó là cơ chế giám sát trong một thể chế chính trị dân chủ. Hệ thống tam quyền phân lập tạo ra sư cân bằng quyền lực, giám sát quyền lực lẫn nhau giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Báo chí tự do hay truyền thông độc lập là lực lượng quyền lực thứ tư của Nhân dân để giám sát hệ thống tam quyền phân lập và giám sát luôn các đảng phái chính trị. Các đảng phái chính giám sát lẫn nhau. Các đảng đối lập giám sát đảng cầm quyền. Nhân dân là những trọng tài công bằng và khách quan nhất trong mỗi kỳ bầu cử để chọn ra người lãnh đạo đất nước, đảng cầm quyền. Việc tranh cử của các đảng chính trị, các ứng cử viên độc lập được diễn ra công khai và minh bạch trước sự giám sát của truyền thông, các cơ quan pháp luật và Nhân dân. Không một cá nhân hay đảng chính trị nào có thể thao túng được chính trị của đất nước. Đó là một vài lợi điểm của chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Trong chế độ chính trị độc đảng cộng sản tại Việt Nam. Tuy là chế độ một đảng, nhưng bên trong của đảng CSVN lại có hàng nghìn băng đảng Mafia chính trị, phe nhóm lợi ích được hình thành và tồn tại từ cấp Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương, các bộ ngành, các địa phương từ cấp tỉnh tới thôn bản. Tại sao lại gọi là Mafia chính trị? Bởi vì các nhóm quan chức cộng sản từ Bộ chính trị tới các địa phương tranh giành quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế với nhau trong bóng tối, quyết liệt với mọi thủ đoạn đê tiện và hèn hạ nhất. Thậm trí có thể hạ sát lẫn nhau. Các băng đảng Mafia chính trị, phe nhóm lợi ích chúng cấu kết với nhau theo ngành dọc, theo ngành ngang, từ trung ương tới địa phương để đấu đá với nhau trong bóng tối để tranh giành quyền lực chính trị và các lợi ích kinh tế. Trong Bộ chính trị có gần 20 thành viên, nhưng đều là thủ lĩnh của những băng đảng Mafia chính trị khác nhau trong đảng CSVN. Mỗi ủy viên BCT thì lại có đàn em nằm trong Ban chấp hành trung ương, rồi chúng lần lượt nằm ở các bộ, các tỉnh, thành phố. Ở cấp tỉnh, cấp bộ cũng vậy, mỗi tỉnh ủy viên, ủy viên đảng bộ Bộ A, B, C,.. đều có đàn em ở các vụ, các sở ban, ngành,….. Tương tự như vậy cho tới cấp huyện, xã, thôn,…. Đặc trưng nổi bật của chế độ độc đảng CSVN là các cuộc đấu đá, tranh giành quyền lực chính trị và các lợi ích kinh tế đều diễn ra trong bóng tối. Báo chí của chế độ không được biết, nếu biết không được đưa tin. Nhân dân càng không thể giám sát và đương nhiên không có quyền lựa chọn và quyết định người có tài năng, đạo đức đẻ phục vụ Nhân dân. Trước đây những kẻ thua cuộc trong cuộc đua tranh quyền lực chính trị trong đảng CSVN thường được nghỉ hưu khi sắp đến tuổi hoặc cho ngồi chơi xơi nước chờ nghỉ hưu. Nhưng trong những nhiệm kỳ gần đây thì những kẻ thua cuộc sẽ phải vào ngồi tù với những bản án tới cả hàng chục năm hay chung thân như Đinh La Thăng và Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn. Vậy sự nguy hiểm của chế độ độc đảng CSVN với nhiều đa băng đảng Mafia như thế nào? Thứ nhất, không có sự giám sát của Nhân dân, đảng đối lập và truyền thông độc lập nên đảng cộng sản VN dễ dàng bán lãnh thổ, chủ quyền quốc gia cho Trung cộng như Hiệp định phân định biên giới Việt- Trung năm 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Hiệp định qua lại biên giới, Thỏa thuận dẫn độ,… Thứ hai, các cuộc đấu đá, tàn sát lẫn nhau trong nội bộ đảng CSVN sẽ đưa những kẻ cơ hội, bất tài, thủ đoạn độc ác,… lên nắm quyền lực từ trung ương tới địa phương. Như vậy chúng tước đoạt đi quyền và cơ hội của những người có tài năng và đạo đức. Thứ ba, những kẻ nắm giữ quyền lực dành quá nhiều thời gian để tính toán việc tham nhũng, ăn chơi, đối phó với các đối thủ khác trong đảng. Nên chúng không còn thời gian để suy nghĩ tìm ra những giải pháp tốt nhất xây dựng và phát triển đất nước; Thứ tư, chúng đặt lợi ích của phe nhóm, của đảng, của chế độ CS lên trên lợi ích của đất nước, của Nhân dân. Chúng sẵn sàng hy sinh lợi ích của đất nước, của Nhân dân vì lợi ích của đảng và chế độ. Ví dụ chính sách đu dây ngoại giao, hay chính sách 4 Không,… Thứ năm, để bảo vệ quyền lực cai trị tuyệt đối của đảng và chế độ CS đối với đất nước và Nhân dân thì chúng tước đoạt, chà đạp lên các quyền tự do, dân chủ của Nhân dân. Đàn áp, sách nhiễu, bắt cầm tù những người dám đứng lên đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ. Thứ sáu, tham nhũng là lý tưởng, mục đích, lẽ sống, bản chất của quan chức, chế độ CSVN. Nên chúng tìm mọi cách để vơ vét nhiều nhất có thể để làm giàu và nuôi dưỡng băng đảng, phe nhóm của chúng trong đảng. Tham nhũng của chế độ CSVN làm mất đi ít 30% nguồn lực của quốc gia mỗi năm. Qua sự so sánh và phân tích trên cho chúng ta thấy xu thế tất yếu trong việc đấu tranh để chuyển đổi từ chế độ độc đảng CS lạc hậu, phản động sang xây dựng chế độ dân chủ đa đảng mang tính ưu việt ở Việt Nam. Mọi vấn đề đều nằm trong tay, quyền quyết định của đa số Nhân dân, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam. Chúng ta không thể thụ động ngồi chờ vào sự đấu tranh, hy sinh của một vài người, vài tổ chức. Khi mà toàn thể thế hệ trẻ Việt Nam hiểu được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với đất nước, với tương lai của chính mình và mong muốn, khát khao được thể hiện tài năng của bản thân. Chúng ta sẽ cùng nhau đoàn kết, hợp tác đứng lên cùng đấu tranh thay đổi đất nước. Chắc chắn chúng ta sẽ thành công. * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do. nguyenvandai’s blog  
......

Pages