Chống lãng phí: Có chống được không? (Kỳ 4)

Nguyễn Thông Nói chung, mọi dạng đoàn thể, kể cả đảng, cứ việc hoạt động thoải mái, chỉ có điều tự lo chi phí hoạt động, đừng xà xẻo tiền thuế của dân, bắt dân phải nuôi. Còn không chịu được thì nên dẹp. Tiếp nữa là Hội phụ nữ. Thế tôi lại hỏi các ông các bà, đàn ông có hội riêng không mà cứ phải lập riêng hội phụ nữ. Ra cái vẻ tôn trọng phụ nữ, đề cao phụ nữ. Cứ để bình thường thì mới thực là tôn trọng, chứ đã ưu tiên, đặc cách, chẳng qua chỉ là sự bố thí, xót xa, thương hại, mủi lòng. Mà nó cũng chả làm được trò quái gì ngoài việc lâu lâu múa may nhận tiền 8.3 hoặc 20.10. Hãy coi xem, khi bộ giáo dục ra cái dự thảo về sinh viên bán dâm, nó dám mở mồm lên tiếng được nửa nhời, thì tôi chớ kể. Khi cô gái ở chung cư tại thành phố Thuận An tỉnh Bình Dương bị nhà chức việc phá cửa phòng vào tận nhà túm điệu đi ngoáy mũi trong cơn dịch Covid, không hề thấy hội phụ nữ lên tiếng. Cho tới lúc này, nó vẫn câm nín chả bảo vệ gì được chị em đàn bà của nó. Để chỉ tốn cơm dân nuôi. Dẹp. Đoàn thanh niên, công đoàn, hội nông dân, hội nghệ sĩ, hội nhà báo… đại loại đều thế cả. Xuân thu nhị kỳ chỉ thấy họp hành, bầu bán, cử người, chọn ghế, chứ cái đối tượng mà nó đại diện chẳng được nhờ vả gì. Đoàn thanh niên chẳng hạn, nếu có chăng, chỉ đảng được lợi, bởi đảng sinh ra nó để làm “cánh tay phải”, làm nguồn cung cấp lực lượng kế tiếp. Mà cũng lạ, chỉ nhắm tới mỗi đối tượng người trẻ (thanh niên), họ đẻ ra cả hội liên hiệp thanh niên lẫn đoàn thanh niên, có từ cấp trung ương tới địa phương cơ sở. Tốn kém ư, bày vẽ ư, dẫm chân lên nhau ư, kệ, cứ phải nhiều cho hoành tráng. Tôi đã từng tòng sự một tờ báo thuộc đám đoàn hội ấy, nhiều lúc cứ ngơ ngác tự hỏi vậy thì cơ quan đơn vị mình trực thuộc đứa nào. Có lần hỏi tổng biên tập, ổng bảo thuộc tất, cả đoàn lẫn hội, bởi thực ra chúng chỉ là một. Mấy thứ đoàn hội ấy, nói chính xác, là sản phẩm của khối cộng sản, chủ nghĩa xã hội khi xưa. Liên Xô có cái gì, đàn em bắt chước thứ ấy. Khối XHCN tan rã, chúng bị chết theo hoặc tồn tại vật vờ ở vài nước “kiên định”, chỉ làm vướng víu con đường đi lên của nhân dân, dân tộc. Sản phẩm nhất thời, lạc hậu, hết giá trị, thậm chí gây tốn kém, trở ngại, không mạnh dạn bỏ đi thì để làm gì cho tốn tiền nuôi. Những hội đoàn, tổ chức xã hội vẫn cho tồn tại nhưng phải tự lo tài chính, không thể nuôi báo cô mãi được. Đừng lấy cớ đó là hệ thống chính trị mà tồn tại hoa lá cành. Thôi thì đảng cầm quyền đã đi một nhẽ, chứ đúng ra đảng cũng phải “độc lập TỰ LO hạnh phúc” như những nước dân chủ văn minh. Nước họ có đầy đảng, đảng nào cầm quyền cũng được, nhưng dân không phải nuôi, không tồn tại nhà nước “lưỡng đầu chế”, song trùng, thậm chí tam tứ trùng như xứ này. Còn lại mấy cái đoàn hội nếu không giải tán được thì cũng để chúng tự lo, đừng bắt dân gánh mãi. Hãy dành số tiền khủng lâu nay nuôi mấy thứ trang trí ấy chi cho quốc phòng, nuôi lính, đảm bảo tốt cuộc sống và thân nhân của người lính, nhất là những người ngày đêm giữ biển đảo; nâng cao đời sống nhân dân, nhất là những người nghèo, vùng sâu vùng xa. Họ có vững vàng thì mới có sức mạnh chống ngoại xâm, kiến thiết đất nước, thúc đẩy sự phát triển, đem lại ấm no hạnh phúc cho dân. Nói chung, mọi dạng đoàn thể, kể cả đảng, cứ việc hoạt động thoải mái, chỉ có điều tự lo chi phí hoạt động, đừng xà xẻo tiền thuế của dân, bắt dân phải nuôi. Còn không chịu được thì nên dẹp. (còn tiếp) kỳ 1 — kỳ 2 và kỳ 3  
......

Bà Hoàng Thị Minh Hồ: Việt Minh nó bạc lắm

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến   Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ!   Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua bài viết (“Người Đàn Bà Tặng Hơn 5.000 “Lượng Vàng Cho Cách Mạng”) của nhà báo Hoàng Thùy, trên trang Vnexpress: “Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ. Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.  Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng… Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về…  33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”. Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói:“Cháu vẫn có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!” Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ! Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùy đã không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm (Bên Thắng Cuộc) của một nhà báo khác, Huy Đức: “Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm. Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298). Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ… Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó. Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.  Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.  Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí danh là Lê Tùng,  đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.” “Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương vỡt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí  – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.   (*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang ” của Ngọc Niên, trên trang Thanh Niên Online, vào hôm 29 tháng 12 năm 2012.  
......

Chống lãng phí: Có chống được không? (1&2&3)

Nguyễn Thông   Ông Tô Lâm viết (hoặc ai viết giùm) khi nào thì tôi không rõ, chỉ biết chiều 13.10.2024 báo chí quốc doanh đồng loạt đăng bài “Chống lãng phí” đứng tên ông, ở cương vị Tổng bí thư, Chủ tịch nước, hai vị trí cao vót trong "bộ tứ". Điều này có nghĩa đây là mệnh lệnh của quốc gia.   Kể từ khi ngồi ghế tổng bí thư, lúc kiêm luôn cả chủ tịch nước, ông Tô Lâm có những phát ngôn rất "đổi mới", xé rào, tích cực, phá vỡ vùng cấm, được hầu hết dư luận xã hội, dân chúng đồng tình, đánh giá cao. Nhiều người bảo đó là tư duy, tinh thần kiểu Gorbachov, hiếm xuất hiện ở xứ này gần thế kỷ nay.   Suốt bao năm, nếu người nói không phải quan chức đứng đầu sẽ bị xử lý "tội" vạ miệng, chịu lên bờ xuống ruộng, nát đám cỏ gà. Những Trần Độ, Trần Xuân Bách, Hồ Đức Việt... là ví dụ. Dân mà phát ngôn vậy có khi bị bắt, đi tù do tội "chống lại đảng, nhà nước", "lợi dụng quyền tự do, dân chủ".   Về sự "vạch áo cho người xem lưng", ông Tô Lâm dũng cảm, thẳng thắn hơn nhiều so với ông "En nờ vê en nờ" Nguyễn Văn Linh thập niên 80 - 90. Ông Linh chỉ dám "Nói và làm" mon men những điều vụn vặt chứ không bao giờ dám đụng chạm tới thể chế, bộ máy thượng tầng, đến những thứ được coi là cấm kỵ có thể liên quan tới sự tồn vong của chế độ. Lâu nay người ta đã idol/thần tượng hóa ông Linh quá đáng so với những gì ông ấy có.   Ông Lâm lại càng hơn hẳn người tiền nhiệm chỉ biết ngụp lặn trong mớ lý luận bùng nhùng, tự mãn "ôi, ta là ta mà ta cứ say ta". Ông này tôi không cần biên thêm gì bởi thiên hạ đều biết cả rồi. Sau này lịch sử công bằng sẽ phán xét.   Nhưng, oái oăm thay đời luôn có chữ "nhưng", giữa lời nói với việc làm luôn có khoảng cách, thậm chí tường thành vô hình không vượt qua được. Nói lời hay là một chuyện, mà cơ bản phải chứng minh được cái hay ấy trong thực tế. Nếu chỉ nói hay, thì ai bằng diễn viên, nghệ sĩ sân khấu. Và sân khấu chính trị xứ này hơn 2/3 thế kỷ qua đầy nghệ sĩ nói hay hàng đầu. Nhân dân từng thất vọng quá nhiều về họ nên ít lòng tin vào họ, lời họ nói.   Chỉ mong lần này ông Tô không phải nghệ sĩ. Dẫu hiểu làm chính trị rất cần lựa thời cơ để hành động chính xác, "dục tốc bất đạt", nhưng sự mong đợi của dân, nhất là dân đã từng bị lừa, không cho phép thời cơ nằm mãi trong thời gian vô tận, trong tương lai mờ mịt.   Trong bài nghị luận chính trị xã hội đúng công thức đủ cả 3 phần mở bài (đặt vấn đề), thân bài (giải quyết vấn đề), kết luận (kết thúc vấn đề) rất chi hàn lâm nói trên, ông Lâm chỉ rõ “lãng phí còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển. Trong đó, gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Hơn thế, lãng phí còn gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước” (trích nguyên văn).   Đoạn văn trích nguyên vẹn trên, có một “câu” thiếu chủ ngữ, không nói rõ ai/cái gì “gây suy giảm nguồn lực con người”. Thứ câu què cụt này rất phổ biến ở đội ngũ trợ lý, thư ký của các sếp to, trong các văn bản của nhà nước. Đó là mối nguy cho tiếng Việt. Thôi, sự này để bàn sau. ----------- Đọc toàn bài “Chống lãng phí” của ông Tô Lâm, rà kính soi từng câu từng chữ, tôi không thấy ông ấy đề cập tới những thứ lãng phí đang diễn ra công khai, hằng ngày. Những lãng phí đã được luật hóa bằng nghị định này, chỉ thị nọ của đảng, nhà nước. Đặc biệt, bài viết đứng tên ông Tô Lâm hoàn toàn không đả động gì tới bệnh hình thức mạn tính gây cực kỳ lãng phí đã thành thứ tệ nạn kinh khủng hết thuốc chữa ở xứ này. Cũng không chỉ ra sự duy trì quá nhiều tổ chức hội đoàn, ban bệ, cánh tay phải tay trái, cánh dài cánh ngắn rất vô tích sự ngốn ngân sách từ tiền thuế của dân. Tới hôm 26.10, phát biểu tại Quốc hội với tư cách đại biểu quốc hội, Tổng bí thư Tô Lâm trăn trở: "Lãng phí xảy ra nhiều lắm. Tại sao mình lại vướng mình, làm khó mình đến vậy? Quy định làm sao mà để cuối cùng mình không thực hiện được? Nhà nước còn không làm được thì sao doanh nghiệp làm được?". Ông hàng xóm nhà tôi đọc xong cười bảo: Vẫn chung chung. Lâu nay, người đời thường ngại đụng chạm, ngại ý kiến ý cò về phát ngôn của lãnh tụ, cấp cao, tránh voi chẳng xấu mặt nào… Với quan niệm đó là vùng cấm, nói ra cũng chả giải quyết được gì, có khi không phải đầu lại phải tai, nát đám cỏ gà, rước vạ vào thân. Nhưng tôi thì khác. Nói được những điều có ích cho số đông dân chúng, cho cộng đồng chịu nhiều thiệt thòi thì cứ nói. Trung ngôn nghịch nhĩ. Thiệt mình chịu. Sự góp ý không nhằm vào cá nhân, vụ "chống lãng phí" này chẳng hạn, bởi ông Lâm phát ngôn không vì cá nhân ông, nhưng đó là sự đại diện, thay mặt cho bộ máy lãnh đạo do ông ấy đứng đầu. Ổng chống, tại sao mình không ủng hộ, không chống? Tôi tuyệt đối ủng hộ ông ấy chống lãng phí bởi đó là thứ tệ nạn bản thân tôi rất ghét. Từ thượng cổ tới giờ, chẳng có bộ máy nào toàn diện, tuyệt hảo, không sai. Vậy thì, nếu ta có ý thức xây dựng, mong muốn cuộc sống và xã hội tốt hơn, thì nói ra với ý thức xây dựng là điều tốt, tích cực. Vấn đề ở chỗ, bộ máy cầm quyền có biết lắng nghe những điều "trung ngôn nghịch nhĩ" hay không. Tôi sực nhớ câu thơ của cụ Lê Đạt (nhóm Nhân văn giai phẩm): ’’Anh muốn đảng gọi anh đến nơi/Hội ý về cuộc sống/Điều động anh vào bộ tâm hồn quần chúng/Giúp trung ương xây dựng những con người”. Tôi chẳng bằng móng tay út cụ Đạt, nhưng học cụ, dù biết cụ từng bị lên bờ xuống ruộng. Trong vệt bài này, tôi chỉ nhấn đến nội dung “lãng phí”, “chống lãng phí”, chỉ ra những khiếm khuyết, góp thêm vào chủ đề ông Tô Lâm đã nêu trong bài huấn thị/chỉ đạo đang được tung hô, ca ngợi. ------------------- Lãng phí cái gì? Trước hết là lãng phí ngân sách. Ngân sách không phải từ trên giời rơi xuống, không do đảng và nhà nước đẻ ra, mà là tiền (ngân), từ mồ hôi, nước mắt, máu của nhân dân tạo thành; là tiền thuế do dân và doanh nghiệp đóng góp; tiền bán tài nguyên đất nước. Lãng phí là có tội. Tội nặng. Chỉ có điều, các vị hô hào chống lãng phí, cần phải biến lời nói thành việc làm, thành hành vi cụ thể. Đừng có mồm nói tiết kiệm, chống lãng phí, nhưng tay phung phí, coi máu mồ hôi nước mắt nhân dân như rác như bùn. Ngày 26.10.2024, báo Tiền Phong có bài trong đó nêu ý kiến của bà Phạm Thị Thanh Trà – Bộ trưởng Nội vụ. Bà Trà cho biết: “trên thế giới chưa có nước nào có đơn vị hành chính cấp huyện, xã nhiều như Việt Nam, kể cả đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng vậy. Vì thế, cũng chưa có đất nước nào mà chi thường xuyên cho tổ chức bộ máy và con người lớn như Việt Nam, khi chi thường xuyên cho tổ chức bộ máy và con người chiếm đến 62%, không còn nguồn lực để chi cho đầu tư. Nhắc lại tinh thần của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc sắp xếp lại bộ máy, trong đó có cả hệ thống hành chính nhà nước, cả cơ quan Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan Đảng, đặc biệt các đơn vị hành chính, bà Trà cho rằng các cấp các ngành cần tinh thần sẵn sàng, chứ không chỉ sắp xếp đơn vị cấp huyện, cấp xã”. Chính ông Tô Lâm, ngày 31.10 thảo luận tổ tại Quốc hội, ông khẳng định tiếp “Không tinh gọn bộ máy thì không phát triển được”. Đúng tinh thần ấy, được ông Tô Lâm và bà Trà chỉ dẫn, chúng ta có thể thấy sự lãng phí đang nhan nhản, tràn lan, khắp nơi, mọi cấp, diễn ra công khai, từ nhiều năm nay ở xứ này. Điều dễ thấy nhất, đó là sự tồn tại của các tổ chức hội đoàn, tổ chức, lực lượng ngoại vi của đảng cầm quyền. Trước hết là Mặt trận tổ quốc. Tôi thử hỏi các ông bà dân chúng, vậy Mặt trận tổ quốc làm nhiệm vụ gì cho đất nước này. Rất chung chung, mơ hồ. Cứ lâu lâu xuân thu nhị kỳ nó chỉ mần việc hiệp thương chọn người cho đảng để cơ cấu vào bộ máy cán bộ. Thế thôi, tôi chả thấy nó gánh việc gì khác. Nên giải tán cái đoàn thể chính trị-xã hội này. Nó là một phần của bộ máy cai trị tam trùng (đảng, nhà nước, mặt trận), ngốn ngân sách kinh khủng. Nó có bộ máy riêng từ trung ương tới tận cơ sở cấp xã. Tiền để nuôi nó cũng đủ hành dân lên bờ xuống ruộng. Cần dẹp. Ngoài Trung Quốc, Lào, Cuba, Triều Tiên, chỉ còn xứ ra dung dưỡng thứ của nợ này. Những nước văn minh, giàu có, chả nước nào nuôi mặt trận mặt triếc. Những nước không có tổ chức mặt trận sẽ như thế nào? Khách quan mà nói, rất nhiều quốc gia nghèo, chậm phát triển không có tổ chức kiểu mặt trận. Nhưng không phải do không có mặt trận mà nghèo. Còn những quốc gia có mặt trận, hầu hết nghèo. Và dễ thấy nhất, tất cả những nước giàu có, phát triển vượt bậc, người dân sung sướng hạnh phúc đều không có mặt trận. Muốn biết mặt trận cần hay không cần, mỗi người cứ tự hỏi trong cuộc đời mình đã khi nào mặt trận quan tâm, hỏi han, giúp đỡ chưa. Tôi khẳng định có, nhưng không đáng kể, có khi cả triệu người mới gặp một vài trường hợp. Những người hàng xóm nhà tôi thậm chí không biết mặt trận là gì, tồn tại hay không. (Còn tiếp)  
......

Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt (Phần hai)

Trần Đan Tâm Phần hai : Trụ   B. Giai đoạn Trụ (phát triển) của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1931-1990)   Suốt trong thời khoảng 1931-1976, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thay tên tổi họ đến 3 lần để che giấu thân phận tay sai của Đệ III Quốc Tế Công Sản như sau : - Tháng 10/1930 đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương ; - Tháng 2/1951 đổi tên Đảng Cộng Sản Đông Dương thành Đảng Lao Động Việt Nam để che giấu bản chất cộng sản nhằm tuyên truyền chiêu bài chống thực dân Pháp giành độc lập hòng phát triển thêm đảng viên ; - Năm 1976 đổi tên trở lại thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và dùng tên nầy cho đến nay. Kể từ thời điểm thành lập trên đất Trung Quốc năm 1930 đến năm 1985, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát triển vượt bậc từ con số 565 đảng viên sơ khởi lên đến vài triệu đảng viên, gồm cả đảng viên quân đội, đảng viên công an và đảng viên dân sự, kinh qua hai lần cướp chính quyền thành công trong quá khứ vào các ngày 19/08/1945 và 30/04/1975. Việc phát triển vượt bậc nầy do bởi hai lý do chính yếu : Một là, Đảng Cộng Sản Việt Nam khéo léo che giấu tuyệt đối ý đồ nhuộm đỏ Việt Nam thành một nước cộng sản Đệ III theo chỉ thị của Stalin và do Đảng Cộng Sản Trung Quốc giám sát chặt chẽ. Suốt từ năm 1930 cho đến 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ tuyên truyền cái mục đích giả tạo là chiêu bài "chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Việt Nam". Cách thức tuyên truyền lừa đảo và dối trá nầy làm cho một số trí thức nhẹ dạ và thiếu tầm nhìn chính trị bị nhầm lẫn, đã tham gia hay ủng hộ Đảng Cộng Sản Việt Nam như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hữu Loan, v.v… Hai là, Liên Xô & Trung Quốc yểm trợ trực tiếp & dồi dào để Đảng Cộng Sản Việt Nam chiến đấu mở rộng lãnh thổ Đệ Tam Quốc Tế cộng sản trên toàn vùng Đông Dương. Sau đó dùng làm bàn đạp tiến chiếm các quốc gia Đông Nam Á khác. Ba là, trình độ dân trí thấp kém và nhẹ dạ của đại bộ phận nông dân Việt Nam làm cho họ không biết rõ bản chất cộng sản của cái gọi là "Đảng Lao Động Việt Nam". 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1931 đến 1944 Trong thời kỳ nầy Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển không nhiều do bởi lý thuyết Mác-Lê-Mao-Hồ khá xa lạ với kiến thức khá thấp của dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ thứ 20. So với các chính đảng cùng thời như Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân hay Dân Xã (trong Nam Bộ) thì Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ phát triển được ở Thái Lan, vùng Hoa Nam của Tàu và vài trăm người ở miền Bắc Việt Nam. Theo đánh giá của William Duiker, 14 năm sau ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, khi Võ Nguyên Giáp lập ra trung đội Võ Trang Tuyên Truyền cũng chỉ được hơn 30 thanh nhiên đội viên, gồm cả Tày, Nùng Mán & Kinh vào ngày 22/12/1944 [01].   Trong thời gian nầy, vào ngày 17/3/1945 có cuộc gặp gỡ giữa Việt Minh và OSS, tiền thân của CIA, do nguyên nhân là vào tháng 10/1944, viên trung úy William Shaw thuộc OSS của Mỹ khi đang làm nhiệm vụ gần biên giới thì bị Nhật bắn rơi máy bay ở xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), thuộc vùng chiến khu của Mặt trận Việt Minh.   Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chụp ảnh cùng thành viên OSS tại Pắc Bó tháng 8/1945. Vì lúc đó không ai biết tiếng Anh nên viên phi công này được đưa về hang Pác Bó gặp Hồ Chí Minh. Sau đó, Trung úy Shaw đã trở thành "cầu nối" để Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault, Tư lệnh Không đoàn 14, đại diện cho lực lượng Đồng minh tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Hành trình cả ngàn km đường bộ nên phải đến đầu 17/3/1945 mới đến nơi, không rõ đoàn Việt Minh sang lần đó gồm những ai nhưng tài liệu phương Tây ghi 20 thành viên, hai người chủ chốt là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Dĩ nhiên người Mỹ bày tỏ sự cảm ơn và tặng quà vì đã cứu phi công họ. Trong lúc chờ đợi gặp tướng Claire Chennault, Hồ Chí Minh đã tìm gặp một số người Mỹ khác, để thăm dò và vận động sự công nhận đối với tổ chức Việt Minh như một thành viên trong lực lượng chống phát xít Nhật. Trong số đó có viên trung úy Charles Fenn – một sĩ quan Hải quân Mỹ làm việc tại OSS (tiền thân CIA). Theo sử gia Fredrik Logevall, ngày 17/3/1945, Hồ Chí Minh cùng Phạm Văn Đồng đã hội đàm với Charles Fenn lần đầu tiên và sau lần gặp thứ hai thì người Mỹ đồng ý cung cấp các thiết bị vô tuyến, súng đạn cho Việt Minh; còn Hồ Chí Minh cam kết thu thập tin tình báo, giải cứu phi công Mỹ bị bắn rơi và trợ giúp phá hoại các trang bị chiến tranh của Nhật Bản. Sau đó, viên sĩ quan Mỹ hứa sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Hai bên đã đạt thỏa thuận : phía Việt Nam sẽ tăng cường lực lượng du kích và mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng này ; cung cấp những thông tin tình báo và khí tượng cho không quân Mỹ hoạt động trên chiến trường miền Bắc Đông Dương. Ngược lại, phía quân Đồng minh có trách nhiệm đưa các phái đoàn sang giúp đỡ Việt Nam huấn luyện quân sự, đồng thời trang bị vũ khí, điện đài và các trang thiết bị khác.   Các thành viên của Đội Con Nai đang hướng dẫn người Việt Nam cách sử dụng súng carbine M-1, ngày 16/8/1945. Ảnh của Cục Lưu trữ và Hồ sơ Quốc gia Mỹ. Theo thỏa thuận giữa Hồ Chí Minh và tướng Mỹ Chennault, tháng 7/1945, một đơn vị tình báo đặc nhiệm mang bí danh "Con Nai" (the Deer Team) thuộc OSS, đại diện cho quân Đồng minh đã nhảy dù xuống Tân Trào để phối hợp với Việt Minh chống phát xít Nhật. Một sân bay dã chiến được xây dựng (sân bay Lũng Cò) để tiếp nhận các chuyến bay chở hàng viện trợ trong suốt thời kỳ hợp tác này. OSS có thể coi là một trong những người thầy đầu tiên của Việt Minh, hướng dẫn du kích ta sử dụng các loại súng trường, tiểu liên, cối và lựu đạn, thậm chí cả súng chống tăng Bazooka. Dù cho các thành viên OSS không tham chiến (họ được lệnh án binh bất động) thì đó vẫn là lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Việt Minh (ngụy danh của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Vụ việc nầy có liên quan trực tiếp đến Tuyên Ngôn Đọc Lập ngụy tạo, do Hồ Chí Minh soạn ra và đọc trước cuộc meeting ngày 02/09/1945 tại Hà Nội. Ngụy tạo là vì 6 tháng trước đó, Hoàng đế Bảo Đại đã công bố chính thức Tuyên Ngôn Độc Lập tại Huế ngày 11/03/1945, và thu hồi toan bộ chủ quyền của Việt Nam từ tay thực dân Pháp. Thời điểm nầy Hồ Chí Minh lấy bí danh Lucius do sĩ quan Mỹ Charles Fenn ban cho, [02].   Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chụp ảnh cùng thành viên OSS tại Tân Trào tháng 8/1945. Ngay tự thân của cách thức phát triển bệnh hoạn hoạn nầy đả ươm mầm Hoại cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1945 đến 1954 Có nhiều yếu tố tiềm ẩn của sự kiện Hoại & Diệt xuất hiện ngay trong giai đoạn Trụ nầy : Thứ nhất là việc nổi dậy cướp lấy chính quyền độc lập của Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trước quốc dân ngày 11/03/1945. Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, bộ máy hành chính của thực dân Pháp tan rã, vì thế việc thành lập chính phủ mới của Việt Nam được Nhật đặt ra như một đòi hỏi cấp bách và Đế quốc Việt Nam ra đời trong bối cảnh đó. Theo sự sắp xếp của quân đội Nhật, ngày 11/03/1945, vua Bảo Đại gặp cố vấn tối cao của Nhật là Đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để ký bản "Tuyên cáo Việt Nam độc lập". Tuyên cáo do Bảo Đại ký có nội dung chính là tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và bất bình đẳng với Pháp trước đây. Đa số người Việt bây giờ chỉ biết đến bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, sau khi cướp chính quyền 14 ngày trước đó - ngày 19/08/1945. Nhưng thực ra trước đó 6 tháng Việt Nam đã tuyên cáo độc tuyên cáo độc lập chính thức do đương kim Hoàng đế Bảo Đại của nước Đại Nam (quốc hiệu nước ta thời đó, bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Đó là bản Tuyên cáo độc lập, ngày 11/3/1945, chỉ hai ngày sau khi Nhật đảo chính lật đổ thực dân Pháp [03]. Do đó, những trí thức đương thời & có tầm nhìn sâu sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Khôi, Thiều Chửu… đều xa lánh Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngược lại là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Đại Nghĩa, Lâm Đức Thụ, v.v.. đều nhầm lẫn nghe theo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam thời đó đến nỗi thân bại danh liệt sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp được chính quyền miền Bắc Việt Nam vào năm 1945. Yếu tố Hoại-Diệt nầy đã tác dộng sâu sắc lên công tác phát triển đảng viên trí thức của đảng nầy suốt từ 1945 trở về sau. Thứ hai là sau gần 3 tháng cướp được chính quyền, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới tên tên Đảng Cộng Sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán và cho ra đời một tổ chức mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương. Nhưng thật tế thì Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút vào hoạt động bí mật và giữ vai trò nắm chính quyền tại Hà Nội, đồng thời cho các đảng viên thành lập hai đảng mới là Đảng Dân Chủ Việt Nam và Đảng Xã Hội Việt Nam. Đảng Dân Chủ Việt Nam có nhóm chủ chốt gồm toàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam là Dương Đức Hiền, Hoàng Minh Chính, Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Trần Đăng Khoa, Tôn Quang Phiệt, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, và Huỳnh Văn Tiểng (cf Đảng Dân Chủ Việt Nam, 06/08/2021, Bách Khoa Toàn Thư Mở, Đảng Dân chủ Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt). Đảng Xã Hội Việt Nam có nhóm chủ chốt cũng toàn là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam như : Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Phúc Thông và Nguyễn Cao Luyện (Đảng Xã Hội Việt Nam, 21/09/2024 và Đảng Xã hội Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt). Hành động ngụy trang kiểu "tráo bài 3 lá" nầy chỉ che mắt được quần chúng thờ ơ và nông cạn, nhưng không thể lừa gạt được các bậc thức giả ưu tú. Cho nên hành động nầy hàm chứa yếu tố Hoại-Diệt thêm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thứ ba là Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số sử gia phương Tây cáo buộc đã dàn dựng lên Vụ án phố Ôn Như Hầu vào năm 1946 tại Hà Nội, nhằm triệt hạ các đảng phái đối thủ chính trị của mình trong chính quyền liên hiệp. Sự kiện dàn dựng như sau : Sáng sớm ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy bao vây khám xét trụ sở của Đảng Đại Việt tại số 132 đường Duvigneau tại Hà Nội, vu khống Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946 khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp phản ứng. Đồng thời Giám đốc Nha Công An Bắc Bộ là Lê Giản đươc Võ Nguyên Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh. Sau đó, lúc 7g sáng ngày 12/7/1946, cán bộ Công an cao cấp của cộng sản là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương) chỉ huy lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (7 căn nhà) tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng với hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Trong số các thành viên của Quốc Dân Đảng bị bắt có một đại biểu quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Sau khi chiếm trụ sở và giết nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, ngay trong đêm hôm sau công an của Võ Nguyên Giáp chôn những xác chết đó trong sân sau trụ sờ rồi ngày kế tiếp đào lên công khai để đổ tội khủng bố cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà cầm quyền cộng sản sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công nầy được gọi tắt là "Vụ án phố Ôn Như Hầu". Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này, đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả [04]. Sau vụ Đảng Cộng Sản Việt Nam dàn dựng vu khống nầy, mọi công dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc). Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo ; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này. Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, phần lớn những người bị công an giam giữ vì lý do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Hải Dương bắt và bị kiến nghị gửi đến trại biệt giam trong hai năm với lý do "chính quyền địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp luật". Tại các địa phương khác, các đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ khác nhau sau khi ông bị dân quân bao vây nhà riêng để khủng bố. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, có những tường thuật cho rằng công an Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã xử bắn hơn 100 tù nhân Việt Quốc [05]. Chiến dịch khủng bố nầy tự nó cô lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tất cả các chính đảng không cộng sản đương thời. Tự mình làm cho mình bị cô lập thì rõ ràng là Đảng Cộng Sản Việt Nam tự gieo mầm Hoại-Diệt cho chính bản thân của đảng. Thứ tư là Đảng Cộng Sản Việt Nam được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào tháng 2/1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các đảng riêng. Thủ đoạn "tráo bài ba lá" nầy chỉ có thể che mắt được quần chúng bình dân thờ ơ và nhẹ dạ, nhưng không thể qua mặt các bậc thức giả ưu tú trong và ngoài nước Việt Nam. Cho nên nó chính là một yếu tố Hoại-Diệt do Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tạo ra cho chính tự thân của đảng và làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam không phát triển được đảng viên trí thức ưu tú suốt từ đó về sau. Thứ năm là quy tắc thành văn tục ngữ lưu truyền hàng nghìn năm theo đạo lý Việt Nam "Tân khách bất lai môn hộ tục, thi thư bất giáo tử tôn ngu" (Không có thêm tân khách đến nhà thì nhà đó không ra gì, có sách vở mà không đem dạy con cháu thì con cháu ngu dốt). Quy tắc nầy không được Đảng Cộng Sản Việt Nam lưu tâm vì chỉ chăm chú lo tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho đảng viên và quần chúng bần cố nông ngu dốt và miệt thị tất cả văn hóa truyền thống & đạo đức của dân tộc Việt Nam. Do đó, dù phát triển khá mạnh trong giới nông dân kém hiều biết và một số ít công nhân lao động, để nâng cao số lượng đảng viên lên đến hàng chục nghìn, nhưng phẩm chất (chất lượng/quality) vẫn là một đảng tầm thường về tri thức xã hội, chính trị và kinh tế. Đó chính là yếu tố Hoại-Diệt tri thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam suốt từ khi xuất hiện cho đến năm 1986. Thứ sáu là giảm tô trong vùng Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) chiếm đóng từ năm 1953 đến 1954 cũng là một trong số các yếu tố Hoại-Diệt thành hình trong giai đoạn Trụ của đảng nầy. Bởi vì chính sách "Giảm Tô" trong các vùng nông thôn do Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) chiếm đóng như Liên Khu IV & V, vùng Tây Bắc giáp giới Trung Quốc có mục đích vô sản hóa và triệt hạ thành phần tinh hoa thôn quê nên gây ra nghi ngờ cho tầng lớp trí thức nhẹ dạ đã tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1945 đến 1953. Vì nghi ngờ nên những thành phần trí thức nhẹ dạ đó từ bỏ hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam chạy trốn về các thành phố trong vùng Việt Minh chiếm đóng nên quần chúng đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam thời kỳ nầy chỉ còn toàn là nông dân thất học và vài trăm đảng viên gốc du côn bất hảo, thất nghiệp và vô học mà Đảng Cộng Sản Việt Nam gọi họ là đảng viên gốc công nhân như Trần Quốc Hoàn, Tôn Đức Thắng, v.v… Thêm nữa là chiến dịch "tuần lễ Vàng" do Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện cưỡng chế trong những vùng nông thôn do Việt Minh chiếm đóng giữa thập niên 40 thế kỷ 20 để gom vàng cho Hồ Chí Minh đem dâng cho quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Trung Quốc) nhằm mua chuộc tướng chỉ huy Lư Hán đứng về phía Việt Minh, đã làm kiệt quệ nên kinh tế nông thôn vùng Việt Minh vốn dựa trên sức mạnh của các nhà tư bản nông thôn thời đó. Sự "tuần lễ Vàng" nầy cũng cố thêm cho yếu tố Hoại-Diệt nầy [06]. Thứ bảy là quân đội cộng sản Việt Nam và quân đội Trung Quốc đã chiến thắng thực dân Pháp trận Điện Biên Phủ năm 1954, đưa đến việc Đảng Cộng Sản Việt Nam và Pháp ký kết hiệp định Genève chia đôi Việt Nam từ vĩ tuyến 17 và giao cho Đảng Cộng Sản Việt Nam lập chính quyền ở Miền Bắc Việt Nam [07]. Miền Nam Việt Nam được Pháp trao trả độc lập và chính quyền dân chủ đầu tiên của Việt Nam được thiết lập vào ngày 07/07/1954, khi thủ tướng Ngô Đình Diệm & quốc trưởng Bảo Đại thỏa thuận cho Thủ tướng Diệm được toàn quyền chính trị và quân sự dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó vào năm 1956, hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam ra đời sau cuộc trưng cầu dân ý theo thể thức bầu cửa tự do. Hiệp Định nầy đem đến cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một vùng đất an toàn (nửa nước Việt Nam) để cư trú, phát triển và dùng làm hậu cứ an toàn để tấn công Việt Nam Cộng Hòa và nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam sau nầy, cũng như có thêm hàng ngàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam tập kết từ miền Nam Việt Nam ra Bắc để được sống dưới chế độ công sản mà họ từng mơ ước từ ngày theo Đảng Cộng Sản Việt Nam trước 1954 (tuy đạt được mơ ước, nhưng cũng bị thất vọng và bất mãn sau đó mười năm nếm mùi cộng sản tại miền Bắc Việt Nam). Tuy vậy, bến cố nầy cũng phát sinh yếu tố Hoại-Diệt ngay sau khi Hiệp định Genève được ký kết, tiếp tục sau ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp quản Hà Nội ngày 10/10/1954 và kéo dài cho đến năm 1956 (Operation Passage to Freedom).     Người Bắc di cư từ Hải Phòng năm 1954, Courtesy by Naval History and Heritage Command. Đó là cuộc tháo chạy ồ ạt của hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc Việt Nam từ bỏ vùng đất bị nhuộm đỏ công sản để vào lành nạn tại miền Nam Việt Nam là Việt Nam Cộng Hòa – một chế độ dân chủ sơ khởi đầu tiên của lịch sử Việt Nam. Yếu tố Hoại-Diệt do sự kiên di cư nầy bao gồm [08], [09] và [10] : - sự kiện một bộ phận hơn 60% đồng bào tại Việt Nam Cộng Hòa biết rõ thủ đoạn tàn ác, dối trá và lạc hậu của Đảng Cộng Sản Việt Nam do đồng bào di cư kể lại, đồng thời cũng tố cáo bản chất thật sự của chế độ cộng sản tại miền Bắc Việt Nam ; - sự việc di cư lánh nạn cộng sản đồng loạt lên đến hơn 1 triệu người Việt Nam chứng tỏ cho quốc tế thấy rõ chế độ cộng sản là tai họa lớn nhất trong lịch sử hiện đại của Việt Nam ; - công tác ổn định cuộc sống và định cư cho hơn 1 triệu người nói trên rất thành công làm nổi bật uy tín chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam so với chế độ cộng sản miền Bắc vốn nghèo nàn, lạc hậu và nhuốm đầy màu sắc ngoại lai từ Trung Quốc, Liên Xô & các nước cộng sản Đông Âu. Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11/1955 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi [11]. Việc di cư đó nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức "phong trào nhập thành", hay nói nôm na là phong trào "dinh tê". Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu "an toàn Phát Diệm", thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950 ? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình ? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy mà thôi [12]. Thứ tám là trong số hơn 1 triệu người chạy thoát Công Sản nầy có rất nhiều trí thức đương đại, các lãnh đạo của hai tôn giáo lớn là Phật Giáo & Công Giáo, các nhà giáo dục chính quy và rất nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng nên Đảng Cộng Sản Việt Nam tại miền Bắc không còn kiếm đâu ra thành phần ưu tú để xây dựng miền Bắc Việt Nam sau cuộc chiến 1945-1954 chống Pháp-Nhật [13], [14] và [15]. 3. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1955 đến 1975 Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị một nửa nước Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 theo thể chế cộng sản ngụy danh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thật sự chỉ là một copy nguyên bản chế độ cộng sản Tàu được ngụy trang dưới hình thức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc). Sau đây là yếu tố Hoại-Diệt chính do Đảng Cộng Sản Việt Nam tự tạo nên cho chính nó : Thứ nhất là chiến dịch "đánh tư sản" nhằm cướp đoạt toàn bộ tài sản kinh doanh & sản xuất của tư nhân từ đầu đến cuối năm 1955 tại Hà Nội và các thành phố miền Bắc Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiệt quệ hơn 80%, và chỉ còn sống lây lất nhờ dựa vào 20% kinh tế nông nghiệp nhỏ trong vùng nông thôn. Đây là yếu tố Hoại-Diệt lâu dài cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, một đảng chỉ biết độc tài toàn trị nhưng dốt nát toàn diện về kinh tế. Thứ hai là cuộc "cải cách ruộng đất" (Land Reform) long trời lở đất, tịc thu tài sản và giết chết hơn 182 nghìn địa chủ, hào phú, trí thức và sĩ phu Bắc Hà suốt từ cuối năm 1955 đến hết năm 1956 đã tạo ra một yếu Hoại-Diệt lớn lao cho suốt đời sống của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1956-1990). Bời vì nó làm mất sạch giới tinh hoa và giới kinh doanh tư nhân ít oi còn sót lại Bắc Việt sau cuộc di cư 1954, làm giao động tinh thần & lung lay niềm tin của cán bộ, bộ đội, đảng viên và hơn 90% quần chúng miền Bắc Việt Nam, và làm cho nhân dân sống lầm than cực nhọc nhờ vả miếng ăn vào bột mì của đàn anh cộng sản Liên Xô & các nước cộng sản Đông Âu suốt từ 1957 đến 1975. Chính sách "cải cách ruộng đất" đó làm cho yếu tố Hoại-Diệt nầy vẫn tồn tại và kéo dài đến tận ngày nay, vì vết thương do Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra nầy quá lớn (182.000 người Việt Nam bị Đảng Cộng Sản Việt Nam giết chết bằng đấu tố cải cách ruộng đất năm 1956 tại miền Bắc Việt Nam). Cải cách ruộng đất ở Việt Nam từ năm 1953 đến 1956 là một sự kiện lịch sử đã để lại vết thương đau đớn cho dân tộc Việt Nam và đã được nhiều sách vở lịch sử Việt Nam và quốc tế ghi lại đầy đủ. Một trong những chủ đề tranh cải gây cấn nhất là vai trò của cố vấn Trung Quốc trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo Việt Nam thi hành cải cách ruộng đất. Bản "Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953" của La Quý Ba, người được Bắc Kinh cử sang Việt Nam để trực tiếp cố vấn cho giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam gổm Hồ Chí Minh và Trường Chinh, là một văn bản giá trị vì nó cho thấy những khía cạnh ít được biết đến của mối quan hệ Việt – Trung vào đầu những năm 1950. Đây là một giai đoạn quan trọng khi chế độ cộng sản, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam, phụ thuộc nhiều vào mô hình cách mạng của Cộng hòa nhân dân Trung Quốc trong việc thực hiện các chính sách quân sự, kinh tế và xã hội của mình. Các sử gia và các nhà quan sát đã thừa nhận Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một vệ tinh của Đảng Cộng Sản Tàu do bản khuyến nghị của La Quý Ba chứng minh cho nhận định đó. Bản khuyến nghị ấy đáng được xuất bản và tham khảo vì tầm quan trọng của những đề xuất của La Quý Ba trong việc định hình việc thực hiện cải cách ruộng đất của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như ảnh hưởng quan trọng của chương trình đó đối với Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và việc củng cố quyền lực của Đảng Cộng Sản Việt Nam [16], [17] và [18]. Sau đây là nguyên bản Tài Liệu lưu trữ gốc do cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba trao cho Hồ Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 09/10/1952 : Đây là nguyên bản Tài Liệu lưu trữ gốc do cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba trao cho Hồ Chí Minh & Đảng cộng sản Việt Nam ngày 09/10/1952 Câu chuyện của bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long (gọi theo tên hiệu buôn của bà) trong chiến dịch Cải cách ruộng đất 1953-1956 phải ảnh bản chất dã man nhất lịch sử Việt Nam của Đảng Cộng Sản Việt Nam, như sau : Bà Nguyễn Thị Năm (1906 – 9/7/1953, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội), là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh (Đảng Cộng Sản Việt Nam) trong kháng chiến chống Pháp. Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên. Trong cuộc Cải cách ruộng đất, bà bị đấu tố là địa chủ gian ác và là người đầu tiên bị xử bắn ngày 09/07/1953. Bà còn được gọi là Cát Hanh Long vì đây là tên một hiệu buôn rất giàu có do bà làm chủ ở Hải Phòng. Bà giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, và đã làm nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, và đã sớm thành đạt trên thương trường. Sau đó bà xây nhà mua ruộng như thói thường của người xưa : vừa kinh doanh nơi thành thị, vừa mua ruộng đất bám sát với thôn quê, nên giàu có vào bậc nhất thời đó. Trong kháng chiến chống Pháp, được đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhà văn Nguyễn Đình Thi thuyết phục, nên bà Nguyễn Thị Năm đã đóng góp nhiều tiền bạc, vải vóc, nhà cửa cho Việt Minh. Sau năm 1945, bà Năm tản cư theo cách mạng lên chiến khu, và mua lại hai đồn điền lớn của một người Pháp tại Thái Nguyên. Hai con trai bà đều đi theo kháng chiến Việt Minh. Trước 1945, gia đình bà đã từng ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng vàng lúc bấy giờ) và sau đó giúp đỡ nhiều vật dụng, thóc gạo, y tế và nhà cửa. Khi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức "Tuần lễ vàng", bà đóng góp hơn 100 lạng vàng. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ Việt Minh của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc, trong đó có 3 năm làm Chủ tịch hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên Khi thực hiện lệnh "tiêu thổ kháng chiến", bà đã cho san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm riêng của bà tại Thái Nguyên. Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ cộng sản Việt Minh (sau này giữ những cương vị quan trọng) như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị... [19].  Di ảnh bà Nguyễn Thị Năm (1906-1953) lúc ngoài 40 tuổi. Bà Năm (tức Cát Hanh Long) bị Đảng Cộng Sản Việt Nam đấu tố xử & bắn vào ngày 09/07/1953, trong chiến dịch Cải cách ruộng đất (1953-1956). Chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo nầy đã gây ra cuộc nổi loạn công khai tại Nghệ An, điều này đã đe dọa đến sự sống còn của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ngay cả sự trung thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng bị nghi ngờ. Hồ Chí Minh bị buộc phải cách chức Trường Chinh (người đã trải qua việc tự phê bình trước công chúng) và nắm quyền điều hành đảng. Bản thân Hồ Chủ tịch nhận ra được sự thái quá, và đã tiến hành một cuộc vận động chỉnh đốn. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải thừa nhận "mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng trong suốt cuộc cải cách ruộng đất," và hàng nghìn tù chính trị đã được thả như một động thái thể hiện thiện chí. Nhưng những cuộc thanh trừng của đảng đã gieo rắc sự ngờ vực sâu sắc. Tại Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Lao Động đã thông báo sẽ "mở rộng dân chủ, bảo vệ tự do dân chủ và mở rộng hệ thống pháp lý dân chủ". (Lincoln Kaye, "A Bowl of Rice Divided : The Economy of North Vietnam," and P. J. Honey, biên tập, North Vietnam Today, 107–108. Lịch sử đầy đủ của chiến dịch cải cách ruộng đất có thể tìm đọc trong cuốn sách Vickerma, The Fate of the Peasantry. Sai lầm tối quan trọng chính là chương trình cải cách ruộng đất đặc trưng bởi "sự nổi lên của phong trào nông dân bạo lực". Những người chống đối quan tâm đến thực tế là có ít tính hợp pháp ở khu vực nông thôn hơn là ở Hà Nội – khu vực trong tầm kiểm soát của Pháp : Bài xã luận của Nguyễn Hữu Đang trong kỳ 4 tạp chí Nhân Văn, vào ngày 5 tháng 11 năm 1956, đã nhắc lại lời tố cáo của Khrushchev về việc sử dụng bạo lực và khủng bố của Stalin và Beria, nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng "Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung… Ít luật lệ là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán. [Các nhân tố bên trong cũng có tác dụng, cụ thể là công cuộc cấp tiến hóa của xã hội trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất tàn bạo giai đoạn 1954-1956. Đảng Lao Động "giải phóng sức mạnh của quần chúng để tiêu diệt tầng lớp địa chủ," đây là một chiến dịch làm cho nhiều người căm phẫn và tổn hại rất nhiều đến khu vực nông thôn. Quá trình tập thể hóa nông nghiệp được thực hiện vào năm 1956 dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc, và các chiến thuật của Trung Quốc như tòa án nhân dân, chiến dịch chống lại địa chủ, vận động quần chúng, đặt tên giai cấp, và hành quyết hàng loạt đã được áp dụng một cách sốt sắng (Lincoln Kaye, "A Bowl of Rice Divided : The Economy of North Vietnam," trong P. J. Honey, biên tập, North Vietnam Today, 107–108). Thứ ba là lừa đảo nông dân lấy tất cả ruộng đất toàn miền Bắc Việt Nam làm thành Hợp Tác Xã quốc doanh, sau khi đã chia cho dân bần cố nông số ruộng đất cướp đọat của địa chủ trong chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956" (Cải cách ruộng đất). Lừa đảo vì quyền tư hửu của dân kể cả bần cố nông mới được sờ hửu ruộng đất khoảng 1 năm bị tước đoạt nên tất cả thành tay trắng. Đây là yếu tố Hoại-Diệt khá trầm trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì ngay cả thành phần bần cố nông hết lòng theo Đảng Cộng Sản Việt Nam suốt trong chiến dịch Cải cách ruộng đất cũng thấy rõ thủ đoạn làm cho họ "tay trắng lại về trắng tay", chẳng khác gì "mèo lại hoàn mèo". Hơn nữa bối cảnh (backgrounds) khủng bố bằng "đấu tố Cải cách ruộng đất" vốn là biện pháp giết gà dọa khỉ ("sát kê cảnh hầu" 殺雞儆猴) gieo nỗi sợ hãi hoang mang, bất mãn và tiêu cực cho cán bộ, đảng viên, bộ đội & công an Đảng Cộng Sản Việt Nam trên toàn miền Bắc Việt Nam đến tận năm 1975. Thứ tư là ngay sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam quốc doanh hóa nên nông nghiệp Bắc Việt thì 1 năm sau nghèo đói và khan hiếm lương thực xãy ra, nên nhà cầm quyền phải thi hành biện pháp "bao cấp", chia đều sự nghèo đói & thiếu thốn cho toàn dân miền Bắc. Đó chính là yếu tố Hoại-Diệt của xã hội cộng sản Bắc Việt và yếu tố nầy càng tác động lên Đảng Cộng Sản Việt Nam sâu sắc hơn. Thứ năm là yếu tố Hoại-Diệt đến từ vụ thanh trừng Nhân Văn-Giai Phẩm 1956-1958 của Đảng Cộng Sản Việt Nam (núp dưới ngụy danh Đảng Lao Động). Những kiếp người sống lâu trăm tuổi Y như một cái bình vôi, Càng sống càng tồi. Càng sống càng bé lại. (Phan Khôi)  Bìa gốc một số Giai phẩm mùa thu, mùa đông, mùa xuân xuất bản năm 1956 (ảnh trên) và phiên bản phục dựng làm trên chất liệu giấy đen giống bản gốc, do những người sưu tập sách thực hiện sau 1975. Ảnh : TL Sự kiện đầu tiên liên quan đến việc đối xử đối với các trí thức gia, tác giả, nhà thơ, và văn nghệ sĩ – những người đã gia nhập hàng ngũ cộng sản Việt Minh trong những năm 1940-1950 nhưng sau đó đã bị thanh trừng vì yêu cầu đòi mở rộng quyền tự do trí thức, bao gồm quyền được xuất bản các tác phẩm độc lập. Từ năm 1967 đến khi chính sách Đổi Mới được thực hiện, tất cả quá trình ra quyết định bị giữ độc quyền trong tay của những nhà lãnh đạo tầm thường của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà không ai dám chống đối hoặc có ý nghi ngờ, do đó đã tạo ra sự trì trệ trong chính sách nhà nước và chính sách đối ngoại. Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm và cuộc thanh trừng nội bộ đảng vào năm 1967 đã là một yếu tố Hoại-Diệt từ đó cho đến nay do tri thức chính trị, kinnh tế, văn hóa & xã hội rất yếu kém của tấng lớp ít học hoặc bần cố nông thất học trên chop bu Đảng Cộng Sản Việt Nam [20]. Sự kiện Nhân Văn - Giai Phẩm là một biểu tượng của sự thất bại của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với lời hứa sẽ mang lại tự do cho giới trí thức kể từ năm 1950 khi Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh đến Trung Quốc cầu viện và ký kết thỏa thuận viện trợ quân sự với cộng sản Tàu. Ký kết nầy mở ra thời kỳ khủng khiếp cho Việt Nam bằng chiến dịch Cải cách ruộng đất và chiến dịch đàn áp thành phần ưu tú của miền Bắc Việt Nam (Nhân Văn – Giai Phẩm). Khi viện trợ quân sự của Trung Quốc được đưa vào Việt Nam, thì dòng chảy ồ ạt các thể chế, cải cách và lực lượng cố vấn Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Một chiến dịch gấp gáp được khởi động để học tập kinh nghiệm cộng sản của Trung Quốc, và 200.000 bản sao của 43 cuốn sách của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã được dịch và in ra để phổ biến các thể chế kinh tế và chính trị Trung Quốc cho đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trước năm 1952, có gần 7.000 binh sĩ và cố vấn Trung Quốc hiện diện tại Bắc Bó (một chiến khu phía Bắc). Trong giai đoạn 1949-1954, Trung Quốc huấn luyện và trang bị cho gần 50.000 bộ đội Việt Nam tại các doanh trại ở Vân Nam và Quảng Tây thành lập vào mùa xuân năm 1950. Theo đề xuất của Trung Quốc, Đảng Lao Động mang tính xã hội chủ nghĩa được công khai thành lập vào tháng Hai năm 1951, để lừa đảo quần chúng trí thức rằng Việt Minh là một tổ chức chống thực dân có cơ sở rộng khắp mà lại không có điểm tựa về mặt tư tưởng [21]. Chiến dịch cải cách ruộng đất hai giai đoạn bắt chước mô hình của Trung Quốc cũng được tiến hành. Giai đoạn ôn hòa từ năm 1953 đến năm 1954 nổi bật là việc giảm tô, theo sau đó là giai đoạn thay đổi rõ rệt hơn từ năm 1954 đến năm 1956 với việc tái phân phối một khối lượng lớn tài sản ở phía Bắc. Đây là hồi chuông cảnh báo giới trí thức bởi vì hầu hết trong số họ đều có vài mối liên hệ đến tầng lớp có ruộng đất "phong kiến" và "phản động". Vào tháng Ba năm 1953, cộng sản quyết định và ban hành một danh sách đặt tên các giai cấp trong xã hội, với nỗ lực làm dịu đi nỗi sợ hãi bằng cách khẳng định rằng "giới trí thức không tự họ hình thành nên một tầng lớp riêng" mà địa vị của họ dựa trên "thành phần" của gia đình. Bởi vì nhiều trí thức được xếp vào thành phần "kẻ thù giai cấp", nên ngược lại cũng có một thành phần mới được tạo ra, đó là "cá nhân tiên tiến", danh hiệu này sẽ được cấp cho ai ngoài việc phục vụ cho cách mạng còn tình nguyện giao nộp toàn bộ của cải cho cộng sản. Nhiều trí thức gia cảm thấy họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải lên Việt Bắc và tham gia cách mạng ; nếu không làm như vậy, họ sẽ bị đánh đồng với việc bắt tay với giặc Pháp. Một số lượng lớn các trí thức gia tham gia Việt Minh vì lòng yêu nước, chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản. Thực tế cho thấy vì các nhà lãnh đạo Việt Minh cố gắng che giấu đi những mối liên hệ với chủ nghĩa cộng sản bằng cách giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương trên danh nghĩa vào năm 1946, nên rất có thể nhiều nhà trí thức tin theo lời Hồ Chí Minh từng công khai cho rằng đây là một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải cộng sản. Dù cho lý do có là gì đi nữa thì các nhà trí thức cũng đã tham gia cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp với đầy nhiệt huyết. Ngay từ buổi ban đầu, họ đã dốc hết tâm huyết và sức lực cho tất cả các hoạt động mà đất nước kêu gọi sự giúp sức của họ trong thời chiến. Họ sát cánh với những người phu và nông dân để chiến đấu chống lại kẻ thù của đất nước. Họ chia sẻ với những con người này đời sống khổ cực trong rừng rậm, và cũng như thế, họ sống và làm việc trong bầu không khí ngập tràn lòng yêu nước. Nhưng ngay từ buổi ban đầu, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã kiên quyết kiểm soát giới trí thức và ngăn cản họ khỏi tình trạng độc lập tri thức. Trong thư gửi đến giới văn nghệ sĩ và trí thức vào năm 1951, Hồ Chí Minh đã sử dụng ngôn từ mà Mao đã sử dụng trong buổi nói chuyện với giới trí thức tại Diên An, trong đó nhà Mao đã nêu rõ "Thực tế không có nghệ thuật vị nghệ thuật, không có nghệ thuật đứng trên giai cấp, không có nghệ thuật tách rời hoặc độc lập với chính trị. Văn học và nghệ thuật vô sản là một phần của toàn bộ lý tưởng đấu tranh cách mạng của giới vô sản". Từ đó về sau Đảng Cộng Sản Việt Nam hay dùng từ "căm thù" : căm thù đế quốc nước ngoài và phong kiến bản địa hoặc những điền chủ, phú nông, trí thức & hào kiệt". Những bó buộc đối với giới văn nghệ sĩ & trí thức đó đã đẩy một làn sóng trí thức khổng lồ bỏ Việt Minh chạy tới khu vực thuộc quyền kiểm soát của Pháp, những người nào còn trụ lại với Việt Minh thì gần như chỉ có việc sáng tác cho chiến dịch văn chương của Việt Minh và phải chịu đựng những nguyên lý khắt khe của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả những người trí thức ở lại chiến khu và gia nhập Đảng cũng phải chịu đựng chiến dịch học tập cải tạo dẫn đầu bởi "những cán bộ văn hóa cộng sản đặc biệt" – những người đã từng được "chỉ dẫn bởi ‘những người cộng sản đàn anh Trung Quốc ‘hệ thống nghệ thuật và văn chương Trung Quốc". Cũng thời điểm đó, Đảng Lao Động buộc tất cả văn nghệ sĩ phải gia nhập Hội Văn Nghệ chính thức và cuộc trấn áp bắt đầu. Tình trạng căng thẳng giữa cộng sản và trí thức bắt đầu khi Trần Dần, một tác giả quân đội đồng thời là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, viết một cuốn sách phóng sự về trận chiến Điện Biên Phủ vào tháng Hai năm 1955. Quyển sách là bức chân dung phác họa cuộc sống khổ cực bên trong chiến hào nơi hầu như không thấy bằng chứng cho thấy sự thắng lợi của cuộc chiến hay tính đúng đắn của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau đó với tâm trạng thất vọng, Trần Dần đã tập hợp một nhóm các nhà trí thức có cùng tư tưởng trong nội bộ quân đội cộng sản Việt Nam, để đòi lại sự tự do không chỉ từ các nhân viên kiểm duyệt quân đội mà còn từ các viên chính ủy của Đảng Cộng Sản Việt Nam – vốn là những thành phần nông dân ít học (Andrew Vickerman, The Fate of the Peasantry : The Premature "Transition to Socialism" in the Democratic Republic of Vietnam (New Haven, Conn. : Yale Center for International and Area Studies, Chuyên khảo số 28, 1986), and Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley : University of California Press, 1993), 224). Theo như cương lĩnh được soạn thảo và đệ trình cho Ban chấp hành Trung ương vào năm 1955 của Trần Dần và gần 30 các trí thức gia khác thì "một tác giả phải được cho phép sự tự do gần như hoàn toàn trong việc lựa chọn chủ đề, nhân vật, phong cách thể hiện thái độ và cảm xúc" và "tất cả trở ngại và hạn chế phải bị bài trừ như những kẻ thù của chủ nghĩa hiện thực". Những lời tấn công thẳng thắng như vậy vào sự kiểm soát của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khơi dậy khí phách trong lòng giới trí thức, những người đã tập hợp lại để bảo vệ cho Trần Dần. Phan Khôi, cha đẻ của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, khi đó 70 tuổi, đã viết "mỗi người trong chúng ta sở hữu nghệ thuật của chính bản thân mình và phản ánh tính cách của chúng ta trong đó. Chỉ có loại hình nghệ thuật và tính cách này mới có thể tạo ra quang cảnh trăm hoa đua nở. Trái lại, nếu các tác giả bị ép buộc phải viết theo cùng một phong cách, thì sẽ có ngày tất cả loài hoa đó sẽ trở thành hoa cúc vạn thọ hết thảy" (Giai Phẩm, tháng 9/1956, trích trong Jamieson, Understanding Vietnam, 258 ; và Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam, Sài Gòn, Nhà xuất bản Công Dân, 1958), 81-83 ; và Phan Khôi, "Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ," Giai Phẩm Mùa Thu (tháng 9/1956) trong Hoàng Văn Chí, biên tập, Giai cấp mới ở miền Bắc Việt Nam (Sài Gòn : Nhà xuất bản Công Dân, 1958), 75). Một nhà trí thức khác, Lê Đạt, đã than phiền rằng hiện thực xã hội chủ nghĩa giống như : Việc đặt các đồn cảnh sát và máy móc thiết bị vào giữa trái tim con người.Việc buộc cảm xúc phải thể hiện theo như một bộ quy tắc mà chính phủ ban hành (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 164). Nhà thơ Phùng Quán đã khẳn khái nêu bàn tuyên ngôn trong Nhân Văn – Giai Phẩm : Đường mật công danh không làm ngọt lưỡi tôi, Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã. Bút giấy tôi, ai cướp giật đi ? Tôi sẽ dùng dao khắc văn lên đá. (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 164). Phản ứng ban đầu của đảng đối với Trần Dần và những nhà chống đối khác là đặt họ trong chế độ quản thúc tại gia và sau đó cải tạo họ. Tố Hữu, nhà thơ của lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay sau đó đã phát động một chiến dịch nhằm tái củng cố đời sống của giới trí thức với những nguyên lý của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tố Hữu yêu cầu các nhà trí thức phải tuân thủ nghiêm ngặt các tham số được quy định trong bài phát biểu của chủ tịch Mao tại Diên An : "những nhân vật mang tính tích cực," "những anh hùng cách mạng," và "nông dân và công nhân như lực lượng tiên phong". Nói tóm lại, Tố Hữu kêu gọi sự tổng hợp không thỏa hiệp giữa chính trị và nghệ thuật bởi vì "nội dung quyết định hình thức". (Trần Lê Văn, "Fear Not that the Enemy Shall Benefit," Nhân Văn số 2, 30/09/1956) : 164 ; Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s"). Để thúc đẩy tạo dựng nên xã hội mang tính pháp trị hơn, giới trí thức đã kêu gọi chỉnh sửa Hiến pháp, yêu cầu đảng trao tự do cho quốc hội, và mong muốn một nhánh tư pháp được độc lập. Vị luật sư nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường, đã vạch ra bốn cuộc cải cách pháp lý cơ bản vào tháng 10 năm 1956 cần phải được thực hiện để tránh những việc lạm dụng ngoài vòng pháp luật như đã xảy ra trong suốt chiến dịch cải cách ruộng đất : thiết lập thời hiệu khởi kiện ; chấm dứt việc xử tội đồng lõa của gia đình và các thế hệ liên quan đến phạm nhân ; thiết lập một tiêu chuẩn cao hơn cho chứng cứ ; và cung cấp quyền lợi cho người bị khởi tố trong suốt thời gian điều tra. Theo ông, những trở ngại thêm vào đó là "sự khinh bỉ đối với pháp lý – thứ đứng dưới quyền lực chính trị – và sự khinh bỉ đối với các chuyên gia". Trong khi nhiều nhà trí thức ý thức được tương lai không lành sẽ xảy ra và tuân theo đường lối của đảng thì những người khác lại tạm lánh mặt cho đến đầu năm 1956 khi tuyển tập mang tên Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản. Tính táo bạo của tạp chí này, trong đó bao gồm một bài thơ Trần Dần viết nhằm miêu tả tình trạng tệ hại không thể chấp nhận được ở miền Bắc, đã làm chất xúc tác cho các nhà trí thức khác nổi dậy (Hirohide Kurihara, "Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’ Party, 1956-1958," in Indochina in the 1940s and 1950s (Ithaca, N.Y. : Nhà xuất bản Đại học Cornell, Southeast Asia Program, 1992), 165–196). Ngoài nhu cầu tự do sáng tác và quyền tự do thành lập các ấn phẩm độc lập mà không chịu sự kiểm soát và kiểm duyệt của đảng, những người bất đồng chính kiến nói trên còn có rất nhiều khiếu nại ôn hòa & hợp lý khác. Phần lớn nhu cầu của họ tập trung vào vấn đề "sự thật" và tính hợp pháp của các nguồn thông tin độc lập và thay thế. Các nhà đối kháng hiểu sự cần thiết của công tác tuyên truyền, nhưng họ cũng cảnh giác trước việc Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ diễn dịch sai hoặc nói dối về các sự kiện nhằm thúc đẩy các mục tiêu đàn áp của Đảng. Phùng Quán đã yêu cầu một cách rõ ràng về sự minh bạch trong một bài thơ nổi tiếng Lời Mẹ Dặn, được trích đoạn như sau : Con ơi một người chân thật Thấy vui muốn cười cứ cười Thấy buồn muốn khóc là khóc. Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu. Các nhà phê bình cũng đề cập rất nhiều đến sự thiếu dân chủ, sự chiếm hữu quyền lực trong tay một số ít nhân vật, và tình trạng trì trệ của chính trị nói chung. Hai tác phẩm táo bạo nhất là của Phan Khôi và Lê Đạt là hai tác giả viết về "ông bình vôi," ống nhổ mà người nhai trầu vẫn sử dụng, được lấp đầy bởi vôi để ngăn mùi ; đến lúc vôi tích tụ, làm cho bình vôi trở nên vô dụng, để ám chỉ Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã già nua và u tối. Hai tác phẩm này đã làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam giận dữ : Những kiếp người sống lâu trăm tuổi, Y như một cái bình vôi. Càng sống càng tồi. Càng sống càng bé lại. Phan Khôi đã viết một bài khảo cứu nhỏ dựa trên bài thơ bốn câu này, đặt tên là "Ông bình vôi," nhằm bổ sung thêm cho hình ảnh phúng dụ của Lê Đạt. Trong bài viết này, ông kể khi còn là một cậu bé 18 tuổi ông đã "hất một loạt ‘ông bình vôi’ thờ trên tường thành xuống đất. Sao lại làm như thế ? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận". Ông đả kích những nhà lãnh đạo đảng vô dụng và già cỗi : "Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cũ rũ trên tran hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ‘Ông’ ". Đối tượng của sự đả kích rất rõ ràng. Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đảng hàng đầu đã trở nên quá cứng nhắc và bảo thủ, cũng giống như những bình vôi cũ, đã mất đi tính hữu dụng. Đã đến lúc cất họ vào kệ. Ở đó họ sẽ được kính trọng, nhưng họ sẽ được thay thế bởi "những bình vôi" mới và có ích hơn. Vì điều này mà Phan Khôi bị tố là kẻ phản động và người theo chủ nghĩa xét lại, một người con người già nua suy yếu không thể vượt qua được "tâm tính tư sản" của mình, nhưng bất chấp những sự tấn công này, ông tiếp tục biên tập tờ Nhân Văn và Giai Phẩm để hỗ trợ cho những tác giả và trí thức trẻ. Các nhà lãnh đạo đảng bị chia rẽ trong việc giải quyết tờ Nhân Văn, Giai Phẩm và những tạp chí chống đối khác. Nhiều người muốn miễn tội cho giới trí thức này. Đặc biệt, quân đội khá cảm thông với nhu cầu của những nhà trí thức có lẽ bởi vì bản thân Quân đội Nhân dân cũng cảm thấy đảng can thiệp quá nhiều vào công việc riêng của mình. Nhiều người trong Quân đội Nhân dân, cũng như các nhà trí thức, cảm thấy lo lắng về sự quỵ lụy một cách mù quáng đối với các mô hình và học thuyết Trung Quốc (Bùi Tín, Following Ho Chi Minh : Memoirs of a North Vietnamese Colonel (Honolulu : University of Hawaii Press, 1995), 14-16 and Cecil Currey, Victory at Any Cost (Washington, D.C. : Brassey’s, 1997), esp. 145–212). Những người khác hoàn toàn không tin rằng giới trí thức có thể là mối đe dọa với chế độ : những cuộc tấn công gay gắt từ trong nội bộ giới này đã chọc giận nhiều người của đảng, nhưng dân chúng không mấy ai biết đến các nhà trí thức cùng với những lời phê bình chỉ trích của họ. Bùi Tín cho rằng phong trào được dung thứ vì tính cô lập của nó. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thường dưới dạng sách và phim Trung Quốc và Xô Viết, dễ tiếp cận với người dân Việt Nam có trình độ trung bình hơn nhiều so với các tác phẩm của Lê Đạt và Phan Khôi. Như Bùi Tín ghi lại, "Những ngày đó không ai có thể sở hữu các bản Nhân Văn hoặc Giai Phẩm để có thể tự hiểu được vấn đề ồn ào lúc bấy giờ". Lời kêu gọi của những nhà bất đồng chính kiến nói trên phần nào không tới được phần lớn dân chúng bởi vì gần 90 phần trăm dân cư là nông dân mù chữ hoặc bán mù chữ. Tuy nhiên, những người theo đường lối cứng rắn trong đảng đã giành phần thắng, vào tháng Hai năm 1956 cuộc đàn áp không nương tay bắt đầu với việc bắt giam Trần Dần và các đồng nghiệp của ông. Mặc dù đảng tiến hành hàng loạt các chiến dịch công khai bài trừ các tác phẩm của ông, nhưng vẫn phải để cho Nhân Văn, Giai Phẩm và các tạp chí khác được xuất bản vào mùa hè và mùa thu năm đó (Nhân Văn được xuất bản năm lần từ 20/9 đến 20/11). Học giả người Nhật Hirohide Kurihara đã lập luận rằng trong suốt giai đoạn này thật ra Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải thừa nhận những sai lầm trong chính sách văn chương, chẳng hạn như tạp chí lý thuyết Học Tập, đã công nhận những vấn đề nêu ra trong Nhân Văn và Giai Phẩm "phần nào phản ánh được thực tế," và một bài viết trong nhật báo của Đảng là tờ Nhân Dân nhật báo đã nói rằng chính sách "Trăm hoa" "nhìn chung là đúng". Ảnh hưởng thực của sức ép quốc tế và nhu cầu chính trị trong nước là một phản ứng hai mũi nhọn tấn công vào Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu tiên là cuộc đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến, bao gồm cả việc các ấn phẩm của họ bị tịch thu và những nhà lãnh đạo phong trào bị bắt và cho đi cải tạo. Hai là chiến dịch văn học mạnh mẽ dẫn đầu bởi giới trí thức trung thành với đảng và mệnh lệnh của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chiến dịch đàn áp bắt đầu khi tạp chí Nhân Văn bị đóng cửa vào tháng Mười Một năm 1956 sau một cuộc đình công có tổ chức của công nhân xưởng in, trước khi số báo thứ sáu được xuất bản. Tạp chí Giai Phẩm cũng bị đóng cửa chỉ sau khi phát hành bốn số (Tháng 3, Tháng 8, Tháng 10, Tháng 12 năm 1956). Các nhà xuất bản của cả hai tờ báo đều bị bắt, còn Phan Khôi qua đời tại Hà Nội vào đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi ông bị triệu tập xét xử vì tội "đi chệch đường lối". Các nhà lãnh đạo khác bị cáo buộc là đã "âm mưu kích động quần chúng thực hiện những cuộc biểu tình phản cách mạng nhằm lật đổ chế độ dân chủ nhân dân và sự lãnh đạo của đảng". Sau đó thì Hồ Chí Minh đã đưa ra quyết định biên dịch ra tiếng Việt tất cả tài liệu tiếng Trung và tiếng Nga về việc quản lý nghiêm ngặt giới trí thức. Thủ đoạn đàn áp tri thức con người bằng vụ án Nhân Văn – Giai Phầm đã gieo rắc sợ hãi trên khắp miền Bắc Việt Nam làm thui chột mọi sáng kiến phát triển quốc gia. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn trí tuệ để quản trị miền Bắc Việt Nam đúng với trào lưu phát triển đương thời [22]. Thứ sáu là yếu tố Hoại-Diệt phát sinh tự nhiên trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay sau vụ án chống xét lại 1963-1967. Năm 1961, Dương Bạch Mai, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phàn nàn về tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng Lao động Việt Nam. Những khẳng định năm 1961 nầy của Dương Bạch Mai càng trở nên đáng lo ngại nếu ta theo dõi diễn biến của các sự kiện vào năm 1963, 1964. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của Đảng Lao động vào tháng 12 năm 1963, ông Mai đã đưa ra cảnh báo mạnh mẽ chống lại quan điểm ngày càng "thân Trung Quốc", và trở nên bất đồng với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và một số người khác vốn cùng có ý định khởi xướng một chiến dịch chống "chủ nghĩa xét lại hiện đại" ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Một vài tháng sau đó, Dương Bạch Mai qua đời. Ông trở thành thành viên của một liên minh chặt chẽ cùng với các đảng viên khác như Hoàng Minh Chính và Bùi Công Trừng – những nhân vật sau này bị vướng vào một vụ án với tên gọi "vụ án xét lại chống Đảng". Theo các tài liệu cũ của Cộng hòa dân chủ Đức được giữ trong các kho lưu trữ tại Cộng hòa liên bang Đức hiện nay. Mâu thuẫn giữa nhóm do Lê Duẩn đứng đầu và nhóm đối nghịch lên đến đỉnh điểm tại Hội nghị Trung ương 9 và sau đó dẫn tới một cuộc thanh trừng trong nội bộ Đảng, thường được biết đến như là "vụ án xét lại – chống Đảng". Tài liệu này tập trung vào những diễn biến ở Việt Nam những năm 1963 và 1964. Những biến động đó phải được đặt trong bối cảnh trong nước của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào đầu những năm 1960 khi mà các nhà lãnh đạo của Đảng Lao động đang tăng cường công tác chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh ở miền Nam, và chống lại chủ trương "chung sống hòa bình" theo tư tưởng của nhà lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô. Sau Hội nghị lần thứ 15 của Ủy ban Trung ương Đảng Lao Động vào tháng 1/1959 và sự thành lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào tháng 12 năm 1960, cuộc chiến ở miền Nam ngày càng quyết liệt. Quyết định của Đảng Lao động quay lại chính sách chiến tranh cách mạng nhằm tái thống nhất đất nước đã dẫn đến mối bất hòa lên cao giữa Hà Nội và Moskva. Dựa trên học thuyết "chung sống hòa bình", các nhà lãnh đạo Liên Xô đã không ủng hộ việc tăng cường đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam đồng thời thúc giục Hà Nội phải kiềm chế hơn.[7] Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô nỗ lực tránh mọi tình huống có thể dẫn đến đối đầu trực tiếp với Mỹ. Trong bối cảnh đó, Liên Xô đi theo chính sách dần giảm can dự vào Việt Nam trong khi ảnh hưởng của Trung Quốc lại tăng theo một cách tương ứng [23]. Thông tín viên Thông tấn xã Đức Pommerening cho rằng hội nghị chính là một "minh chứng rõ ràng nhất cho sự bất đồng trong nội bộ Đảng". Khoảng 50 cán bộ đảng viên cấp trung đã gửi thư lên Ủy ban Trung ương Đảng, yêu cầu Đảng nên giữ vị trí trung lập giữa Trung Quốc và Liên Xô, không nên ngả về phía Trung Quốc. Theo thông tin mà sứ quán Đông Đức và Pommerening thu nhận được, những yêu cầu trên bắt nguồn từ các cán bộ như Đặng Thai Mai, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Tạ Quang Bửu và Bùi Công Trừng, hai Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Công nghệ Nhà nước, Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học Mác- Lênin, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm và một trợ lý của Phạm Văn Đồng. Trong bài diễn văn của mình tại hội nghị, chuyên gia kinh tế Bùi Công Trừng đã giải thích rằng tình hình kinh tế Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là cực kỳ căng thẳng. Ông đề xuất một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với Liên Xô và bác bỏ quan điểm phi thực tế nhằm tạo lập mô hình kinh tế tự cung tự cấp ở miền Bắc Việt Nam. Tạ Quang Bửu cũng cảnh báo rằng ông sẽ từ bỏ mọi chức vụ của mình và làm việc như một giảng viên đại học bình thường nếu lãnh đạo Đảng quyết định nghiêng hẳn về phía Trung Quốc và cắt đứt quan hệ với Liên Xô. Lê Liêm và Ung Văn Khiêm dường như là những người phản đối thẳng thắn và gay gắt nhất đường lối "thân Trung Quốc" mới trong Ủy ban Trung ương. Ung Văn Khiêm đã phát biểu trong ba giờ liền và Lê Liêm đã nói suốt bốn giờ tại hội nghị. Theo Tố Hữu, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Lao Động (Đảng Cộng Sản Việt Nam) thì cần phải bảo vệ sự "trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin" và cần phải tấn công trực diện vào các khuynh hướng "xét lại". Tháng 5/1963, Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội đưa Việt Nam đến gần hơn với Trung Quốc cùng nhau phản đối tư tưởng chung sống hòa bình, đồng thời nhấn mạnh rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên dựa vào sức mạnh của mình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành cách mạng (chiến tranh võ trang) ở miền Nam Việt Nam. Cùng thời điểm đó, "một nhóm các nhà văn của Đảng" đã viết thư cho Ủy ban Trung ương Đảng lên tiếng phản đối những phát ngôn ngày càng mang tính chất chống Liên Xô. Tháng 8/1963, "các phần tử thân Liên Xô" trong Đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống, đặc biệt áp dụng quản thúc Võ Nguyên Giáp tại nhà riêng từ khoảng giữa năm 1963, Thư ký riêng của Phạm Văn Đồng bị bắt giữ vì đã chuyển các thông tin mật cho sứ quán Liên Xô và cựu Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm mất ghế trong Ủy ban Trung ương Đảng. Đến mức này, Lê Duẩn dựa vào quyền uy do Trung Quốc ban phát đã buộc Hồ Chí Minh phải lựa chọn "hoặc theo Bộ Chính trị hoặc đứng ngoài" và kết cho Hồ Chí Minh đã phạm phải hai sai lầm chết người là thỏa hiệp với Pháp năm 1945, và chia cắt Việt Nam bằng hiệp định Genève 1954. Bên cạnh làm suy yếu uy tín của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn còn nhắm vào việc thanh trừng những "cộng sự thân cận nhất" của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, những người giờ đây đa phần đều phản đối việc xích lại gần Trung Quốc như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng hay Vũ Đình Huỳnh. Ngày hai tháng 9/1963, một bài báo có chủ đích của Lê Đức Thọ được đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng (Trần Lê Văn, "Fear Not that the Enemy Shall Benefit," Nhân Văn số hai (30/9/1956) : 164 and Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s"). Trong đó, ông lập luận rằng toàn bộ đảng viên phải đồng lòng nhất trí đi theo đường lối của Đảng. Ông cho rằng, nhìn chung, các cán bộ, đảng viên đều giữ một lập trường vững chắc về mặt ý thức hệ. Tuy nhiên, đã có một số đảng viên bị ảnh hưởng bởi "tư tưởng hữu khuynh" và "chủ nghĩa xét lại", từ đó có những hoài nghi về chiến lược của Đảng trong công cuộc tái thống nhất đất nước. Những đối tượng "lầm đường lạc lối" này cũng phản đối tiến độ chiến dịch tập thể hóa trong nông nghiệp, đồng thời truyền bá mô hình hợp tác kinh tế quốc tế thay vì nền kinh tế tự cung tự cấp mà ban lãnh đạo Đảng ưu ái ở miền Bắc. Theo Lê Đức Thọ, trong nội bộ Đảng đang tồn tại một số đảng viên thiếu tính kỷ luật, tuyên truyền những quan điểm không phù hợp với các nghị quyết của Đảng làm hủy hoại sức mạnh và tính thống nhất của Đảng. Ông cũng nhấn mạnh rằng Đảng Lao Động phải kiên quyết chống lại ảnh hưởng của các khuynh hướng phi vô sản, tư tưởng hữu khuynh, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xét lại hiện đại trong nội bộ đảng viên và đề xuất rằng những đảng viên không theo đúng đường lối của Đảng cần phải chịu sự phê bình, giáo dục, hoặc chịu thi hành kỷ luật thích đáng tùy thuộc vào mức độ phá hoại đối với những công tác của Đảng và sự nghiệp cách mạng (Boudarel, "Intellectual Dissidence in the 1950s," 166). Những lời lẽ của người giám sát về tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Đức Thọ và cũng là cộng sự thân thiết của Lê Duẩn này đã mở màn cho vụ án "Xét Lại Chống Đảng" dấy lên một điềm báo không mấy tốt đẹp. Danh sách bao gồm 19 người. Một số nhân vật trong đó sau này trở thành những người trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan tới "vụ án xét lại – chống Đảng" : Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao ; Vũ Đình Huỳnh, nguyên là thư ký riêng của chủ tịch Hồ Chí Minh và là Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao ; Bùi Công Trừng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Giám đốc Viện Kinh tế học ; Lê Liêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, nguyên Chính ủy trong trận Điện Biên Phủ, và Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.[42] Điều đáng lưu ý ở đây là danh sách lại vắng mặt Hoàng Minh Chính, người đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ vụ án. Chẳng bao lâu sau, cơ hội cho việc tự phê bình và phơi bày các khuynh hướng "xét lại" trong nội bộ đảng viên đã xuất hiện. Cuối năm 1963, Ủy ban Trung ương Đảng Lao Động tổ chức hội nghị lần thứ 9, một sự kiện có tầm quan trọng quyết định. Ban đầu, hội nghị dự kiến tổ chức trước đó hai tháng. Nhưng sau cùng, hội nghị đã bắt đầu vào ngày 22/11 và kết thúc vào đầu tháng 1 năm 1964 sau nhiều lần gián đoạn (Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam). Hội nghị đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình tiến gần hơn với Bắc Kinh và đưa đến một cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai nhóm "thân Trung Quốc" và "thân Liên Xô". Cuối cùng, nhóm do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đứng đầu đã chiếm ưu thế và triển khai ngay một chiến dịch chỉnh đốn trong nội bộ Đảng nhằm đấu tranh chống lại những ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại (Jack Woddis, 1969, Ho Chi Minh, "A Talk with Intellectuals", New York : International Publishers, 1969, 109). Ngay sau Hội nghị Trung ương 9, Lê Đức Thọ đã tấn công những đảng viên bị ảnh hưởng bởi "chủ nghĩa xét lại" và "lối suy nghĩ tư sản". Ông chỉ trích họ có tư tưởng "bi quan", thiếu cảnh giác cách mạng và không hiểu đúng nguyên tắc của chuyên chính vô sản, có xu hướng quá phụ thuộc vào các nguồn viện trợ nước ngoài thay vì ủng hộ quan điểm mô hình kinh tế tự cung tự cấp, và giữ thái độ thờ ơ, không ý thức được trách nhiệm của bản thân trong cuộc đấu tranh tái thống nhất đất nước. Đó là những lí lẽ mà Lê Đức Thọ và những nhân vật khác như Nguyễn Chí Thanh đã từng sử dụng trước đó, thế nhưng giọng điệu của bài báo này thậm chí còn mạnh mẽ hơn nhiều, cho thấy sẽ có những biện pháp cụ thể nhằm chống lại "chủ nghĩa xét lại" và "khuynh hướng hữu khuynh" trong nội bộ Đảng. Tuy nhiên, quan trọng nhất, Lê Đức Thọ đã trực tiếp khẳng định sự tồn tại của một nhóm quan trọng trong Đảng Lao Động đã không theo đúng đường lối của Đảng. Tuy không đề cập đến tên tuổi cụ thể nhưng rõ ràng ông đã nhắm tới những đảng viên như : Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Hoàng Minh Chính, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm và những nhân vật khác vốn đã lên tiếng phản đối Lê Duẩn và bè phái của mình trong Hội nghị Trung ương 9. Lê Đức Thọ cũng bổ sung rằng "những hành động bè phái, chia rẽ phải được ngăn chặn càng sớm càng tốt". Lê Đức Thọ đã ra một thông báo yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên phải tham gia lớp học để học tập và chỉnh huấn theo các nghị quyết đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai công tác tự phê bình. Cuối khóa học, tất cả đảng viên đều phải nộp một bản thu hoạch cá nhân viết tay và giải thích tất cả những gì đã học được. Sau vụ án "Chống Xét Lại" nầy Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nắm quyền lực tuyệt đối và bao trùm. Cả trong chiến tranh Việt Nam và sau 1975, quyền lực tuyệt đối của Lê Duẩn khiến cho chính sách sai lầm của ông ta không bị kiểm soát. Việt Nam suy tàn nhanh chóng trong mười năm hậu chiến. Sau khi Lê Duẩn chết năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành cơ chế "tứ trụ", chia quyền lực trong đảng cho bốn nhân vật cao nhất, nắm các vị trí tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội [21]. 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển và tự ươm mầm mống Hoại-Diệt từ 1975 đến 1990 Năm 1990, Đảng Cộng Sản Việt Nam khoe rằng con số đảng viên trên toàn quốc đã lên đến hơn hai triệu. Phát triển đảng viên như vậy là phát triển nhanh và khá mạnh, vì riêng thời khoản 15 năm 1975-1990, Đảng Cộng Sản Việt Nam phát triển thêm hơn 1 triệu đảng viên. Thế thì mầm mống Hoại-Diệt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đến từ đâu ? Phân tích & tổng hợp lại thì các mầm mống đó đều là nội tại, tức là từ bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam và do chính Đảng Cộng Sản Việt Nam tạo ra. Thứ nhất là chiến thắng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước dưới ách cai trị của cộng sản và chi phối toàn cõi Đông Dương vào năm 1975 là yếu tố Hoại-Diệt đầu tiên trong thời kỳ nầy. Thật vậy, ngay sau khi chiếm Sài Gòn (30/04/1975), Đảng Cộng Sản Việt Nam huênh hoang & khoác lác (boast) tuyên bố "chủ nghĩa Mác-Lê vô địch toàn cầu", "thời đại nầy là thời đại Hồ Chí Minh quang vinh" & "Đảng ta đã chiến thắng Đế Quốc Mỹ"… mà không hề biết là cộng sản Việt Nam đã lọt vào âm mưu dàn dựng do Tàu-Mỹ thỏa thuận bằng ngoại giao, nhờ vào những thủ đoạn hoạt đầu của Henry Kissinger nhằm hy sinh Việt Nam & Đông Dương cho quyền lợi kinh tế và chính trị của Tàu-Mỹ. Vì bản tính kiêu căng cộng sản và ngủ quên trên chiến thắng Đảng Cộng Sản Việt Nam bị phương Tây và Trung Quốc cô lập hàng chục năm từ 1975, riêng Trung Quốc còn tìm cách quấy rối biên giới phía Bắc & phía Tây Việt Nam nhắm làm suy yếu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Yếu tố Hoại-Diệt nầy tác hại không những riêng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam mà còn tác hại lớn lao đến cộng sản quốc tế : cộng sản Liên Xô đánh vào cộng sản Tàu, cộng sản Tàu lại đánh vào cộng sản Việt Nam và cộng sản Việt Nam đánh vào cộng sản Miên (Khờ Me đỏ) như một chuổi hiệu ứng Domino [24]. Thứ hai là chính sách trả thù man rợ của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với hơn 1 triệu quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa ngay sau khi nhuộm đỏ Việt Nam năm 1975. Việc bỏ tù hơn 1 triệu người miền Nam Việt Nam trong các nhà tù lao động khổ sai – ngụy danh "Trại Cải Tạo"- hàng chục năm kể từ 1975 đã làm phát sinh ngay lập tức yếu tố Hoại-Diệt cho Đảng Cộng Sản Việt Nam vì bị quốc tế lên án, bị quốc tế cấm vận gần 20 năm và bị gần 10 triệu người miền Nam Việt Nam thù ghét. cộng sản Việt Nam rơi vào tình trạng bị cô lập ngoại giao, mặc dù đã được gia nhậpLiên Hiệp Quốc [25]. Thứ ba là chính sách "đổi tiền", "cải tạo tư bản tư doanh" và vơ vét chiến lợi phẩm tại miền Nam Việt Nam do Lê Duẫn & Lê Đức Thọ chủ trương và giao cho Đỗ Mười thực hiện tại miền Nam Việt Nam từ 1978 đã làm cho Việt Nam kiệt quệ kinh tế trong suốt 20 năm sau. Yếu tố Hoại-Diệt nầy tác hại khá trầm trọng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam về kinh tế, chính trị, văn hóa & xã hội. Thực chất của hai chính sách nầy là cướp tiền, tài sản và quí kim của nhà giàu và của chính phủ thua trận là Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam để đem về nuôi miền Bắc đang kiệt quệ sau 20 nội chiến. Tuy vậy, các cơ xưởng công nghiệp bị tháo gở từ miền Nam Việt Nam chở ra Bắc đã bị bỏ phế nhiều năm sau đó và đã trờ thành đống sắt vụn. Lý do là Đảng Cộng Sản Việt Nam không có các chuyên gia công nghiệp đủ trình độ kỷ thuật để lắp ráp những công xường đó cho miền Bắc Việt Nam [26]. Thứ tư là vào năm 1976, Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định thống nhất Việt Nam và đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba cuộc cách mạng : về quan hệ sản xuất, khoa học – kỹ thuật, tư tưởng và văn hóa (phát triển từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa). Yếu tố Hoại-Diệt phát sinh từ chính sách nầy dường như vẫn kéo dài cho đến tận hôm nay. Các chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa được đẩy mạnh ở miền Nam, và phân bổ lại nguồn lực lao động trên cả nước, bao gồm cả xây dựng các vùng kinh tế mới, từng bước hoàn thiện phân phối xã hội chủ nghĩa làm theo năng lực hưởng theo lao động, xóa bỏ hoàn toàn nề kinh tế thị trường của miến Nam Việt Nam trước năm 1975. Chỉ tiêu kinh tế đặt ra rất cao trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các vùng nông thôn và một số cơ sở hạ tầng giao thông và công nghiệp miền Bắc, nhân lực hạn chế do tỷ lệ thương tật trong chiến tranh cao, tỷ lệ mù chữ khá cao, khả năng quản lý kinh tế yếu kém, phát triển kinh tế dàn trải, đầu tư nhiều cho nông thôn và các tỉnh (hòng sớm xóa bỏ hố phân hóa kinh tế giữa hai miền, nông thôn - thành thị, đồng bằng - miền núi) trong khi điều kiện các vùng về tài nguyên tự nhiên, nhân lực rất khác nhau. Đường lối kinh tế hoang tưởng của cộng sản Việt Nam trong thời ký nầy là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế, các xí nghiệp, nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, và nông dân làm việc trong các hợp tác xã. Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem phiếu. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm : Năm 1977, tăng 2,8% ; năm 1978, tăng 2,3% ; năm 1979, giảm 2% ; năm 1980, giảm 1,4%, bình quân 1977–1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. GDP bình quân đầu ngưới là 80 USD năm 1980 thấp hơn Lào (94 USD), và Campuchia (191 USD). Rõ rang là cộng sản Việt Nam thiếu khả năng hoạch định và quản lý kinh tế do đa số cán bộ trình độ quản lý kinh tế kém. Mô hình kinh tế nặng về tự cung tự cấp, quan liêu, không sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất cũng như con người của quốc gia. Thêm và đó phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", làm cạn kiệt vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng [27]. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thời kỳ 1980-2010. Thứ năm là thảm trạng thuyền nhân Việt Nam từ 1975 kéo dài cho đến nay – hiện nay vẫn còn thuyền nhân Việt Nam vượt biển Manche qua Anh Quốc xin tỵ nạn. Thảm trạng nầy phát sinh yếu tố Hoại-Diệt được ghi đậm nét cho lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam dù đảng nầy cố xuyên tạc sự thật. Thật vậy, trong lịch sử của nhân loại, chưa khi nào có một cuộc di tản bi thảm và kéo dài như thảm trạng thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản kể từ sau 1975 cho mãi đến thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ vừa qua. Sự phi lý của thảm kịch thuyền nhân Việt Nam còn nổi bật vì những người tị nạn Việt Nam đã phải rời quê hương ra đi để tìm quyền sống, trong khi tiếng súng chiến tranh đã không còn trên lãnh thổ Việt Nam. Trái lại, lòng thù hận và chủ nghĩa cuống tín mù quáng của những người cộng sản nắm quyền lực bằng súng đạn đã tiếp tục bao phủ đất nước và dân tộc trong một không gian đàn áp và khủng bố tàn bạo, khiến cho người dân miền Nam thời đó chỉ còn một lối thoát là lao mình ra biển cả để tìm con đường sống. Với một niềm hy vọng và một lời cầu nguyện, hàng chục ngàn gia đình gồm cả trẻ thơ và bô lão đã ra khơi bằng những chiếc thuyền máy mong manh hướng về những bến bờ hy vọng, bất kể những hiểm nguy mà có lẽ tất cả mọi người đã dự đoán được trước khi quyết định ra đi. Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5.000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.000 tị nạn, Tân Gia Ba 1.800 người, và có khoảng 1.250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7/1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy bù nhìn của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng vượt biển tỵ nạn cộng sản bắt đầu gia tăng. Đến cuối năm 1977, đã có trên 15.000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền cộng sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân sang Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1978, đã có 62.000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam Á. Riêng trong tháng 6/1979, đã có trên 54.000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Vì vậy, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả đã gia tăng từ năm 1979. Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con ; đến chuyện chia nhau từng giọt nước qúy hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc Thái Lan. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương. Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết nên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới [28]. Số thuyền nhân được định cư tại các nước trên thế giới   Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi (Tran Nam Bac, "Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens", Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục). Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức "phong trào nhập thành", hay nói nôm na là phong trào "dinh tê". Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu "an toàn Phát Diệm", thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950 ? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình ? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy. (Nguyễn Văn Lục, "Nhìn lại cuộc di cư 1954 – 1955 II", Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023). Thứ sáu là chiến tranh biên giới với Trung Cộng & Miên Cộng hơi bày bộ mặt thật của cộng sản Đệ III : Việt Cộng đánh Miên Cộng (Khờ Me Đỏ) và Trung Cộng đánh Việt Cộng trong khi Liên Xô đứng ngoài vỗ tay cổ vũ cho Hà Nội. Sự kiện nầy phát sinh ngay lập tức yếu tố Hoại-Diệt không riêng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam mà cho toàn khối cộng sản và đóng góp cho sự sụp đổ của khối nầy từ bên trong vào đầu thập niên 1990 của thế ký 20. Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978 : Khmer Đỏ tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, phá hủy nhiều ngôi làng và giết hại hàng ngàn thường dân Việt Nam. Chiến tranh biên giới Việt Cộng – Miên Cộng (Campuchia Dân Chủ/Khờ Me Đỏ) còn được gọi là cuộc chiến Việt Nam xâm lược Campuchia hay là cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ.    Ban lãnh đạo Khmer Đỏ ở Phnom Penh sau khi giành chính quyền. Từ trái sang phải : Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary, Son Sen và Vorn Vet, 17/2/2022. Chiến tranh chính thức khởi sự vào ngày 25/12/1978 khi quân đội cộng sản Việt Nam tiến hành một cuộc tấn công toàn diện vào Campuchia, sau đó chiếm đóng nước này và lật đổ chính phủ của Đảng Cộng sản Campuchia, lập ra một chế độ cộng sản mới do Heng Samrin đứng đầu rồi tới Hun Sen, kéo dài đến tận ngày nay (Hun Sen & Heng Samrin là thành viên Khờ Me Đỏ đã chấp nhận làm bù nhìn cho Hà Nội). Ngay lập tức chế độ cộng sản Việt Nam bị quốt tế lên án là xâm lược, bị cấm vận và cô lập ngoại giao, riêng Thái Lan, Mỹ và Trung Quốc thì viện trợ cho Khờ Me Đỏ kháng chiến từ đó đến năm 1986 để chống quân chiếm đóng của quân đội cộng sản Việt Nam. Trước áp lực quốc tế và… năm 1989, Việt Nam buộc phải rút quân về nước trả độc lập cho một nước Campuchia quân chủ lập hiến do dòng dõi các vua Norodom đứng đầu. Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những đồng chí, đồng minh một thời. Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa mới thống nhất đất nước sau cuộc nội chiến Quốc-Cộng, đang sa lầy trong cuộc xâm lược Campuchia và bây giờ phải lâm chiến với đàn anh Trung Quốc ! Hồng quân Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên ngay những ngày đầu cuộc chiến. Chiến tranh kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố đạt mục tiêu "dạy cho cộng sản Việt Nam một bài học" đắt giá và sau đó hoàn thành việc rút quân vào ngày 16/3/1979, sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí lệnh Tổng động viên toàn dân và sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng. Mặc dù chịu thiệt hại lớn và thất bại trong việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhưng Trung Quốc đã chứng minh được rằng đối thủ Liên Xô sẽ không trực tiếp tham chiến để bảo vệ đồng minh Việt Nam của mình. Cuộc chiến cũng để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột võ trang giữa Trung Quốc & Việt Nam vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa. Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần thứ 3 [29], [30] và [31]. Với Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (1978) mà tinh thần của nó là "hợp tác toàn diện", cộng sản Việt Nam đã ra mặt chống lại Trung Quốc. Trước đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam làm "tiền đồn" cho phe chủ nghĩa xã hội chống đế quốc, và bây giờ chế độ cộng sản Việt Nam lại trở thành tiền đồn của phe Liên Xô để chống Trung Quốc, đưa đất nước vào một cuộc chiến tranh mới mà sự xâm lấn Campuchia 1978 và nhận "bài học" của Trung Quốc ở biên giới phía Bắc 1979 là kết quả. Những sự việc không thuận lợi gì cho phát triển đó đã được những người lãnh đạo gọi là một "sứ mệnh lịch sử", nhưng trong thực tế đó chỉ là cái đà trượt của một cuộc chiến tranh vừa nóng vừa lạnh mà các phe liên hệ chưa tìm ra được giải pháp căn bản để giải quyết đến nơi đến chốn. Cái "sứ mệnh lịch sử", hoang tường đó đã gây ra những điều kiện bất ổn cho xây dựng (bị cô lập hoàn toàn) và trong nước cái mô hình xây dựng mệnh danh là "chủ nghĩa xã hội" cũng không hề mang lại được chút kết quả nào. Đó chỉ là con đẻ của chiến tranh, nó theo con đường ủng hộ cuộc chiến tranh ấy của "phe" xã hội chủ nghĩa mà du nhập vào Việt Nam, hết Stalin, Mao Trạch Đông rồi đến Brejnev. Khi đem cái mô hình ấy ra xây dựng, nó không chứng tỏ một tí gì là "ưu việt". Thực hiện ở một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, lại diễn ra trong điều kiện mà người dân luôn luôn phải thắt lưng buộc bụng hy sinh, nhiều lắm nó chỉ là một thứ sản xuất tự túc để thích ứng với chiến tranh, tất cả đều được "kế hoạch hóa" trên những gì mà "bầu bạn xã hội chủ nghĩa" đã viện trợ để tiếp tục cuộc chiến tranh ấy, nó không thể là một hình mẫu để thúc đẩy sự phát triển đưa xã hội vào thế giới hiện đại. Thứ bảy là chính sách "Đổi Mới" (renovation) của Đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra yếu tố Hoại-Diệt lâu dài cho họ. Thật vậy, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa, Đảng Cộng Sản Việt Nam bê nguyên xi mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc vào áp dụng ở miền Nam Việt Nam gây tàn phá tất cả những thành quả mà miền Nam đã đạt được trong suốt quá trình công nghiệp hóa (dù còn ở bước đầu) và hiện đại hóa. Chỉ sau "tiếp quản" rồi sau đó là "cải tạo" tư sản ở thành phố, "hợp tác hóa" ở nông thôn, đời sống người dân đã bị đẩy lùi lại tình trạng trước đó khoảng vài ba chục năm, khốn khổ như chưa bao giờ đã xảy ra, dưới chế độ phong kiến, thực dân. Nền sản xuất hàng hóa mở rộng đã bị phá vụn thành những khu vực nhỏ bé, chiếm lĩnh bởi những cái gọi là "ngành" hay "lãnh thổ" ; bất cứ cơ quan nào hay địa phương nào (kể cả xã, ấp) cũng có thể lập ra các hàng rào, trạm gác để chặn xe cộ lại xét hỏi, tịch thu, đánh thuế ; còn nếu có gì gọi được là sản xuất thì cũng chỉ là những phong trào vận động ồ ạt người ta đi "lao động xã hội chủ nghĩa" (đắp mương, làm thủy lợi...) hoặc rủ nhau đi ra khỏi thành phố xin đất để làm rẫy kiểu "tự túc" như thời kháng chiến trong rừng, tốn không biết bao xăng nhớt, thì giờ mà kết quả chẳng đi đến đâu. Còn những chương trình gọi là "kinh tế mới", giãn dân về các miền nông thôn để sản xuất thì chỉ là việc "đem con bỏ chợ", đày đọa con người qua mọi khổ sở, cuối cùng không chịu nổi nên đã nhếch nhác kéo nhau về lại thành phố, ngủ đường ngủ chợ sau khi đã tán gia bại sản. Trong khi nông thôn trở về nền kinh tế tự cung tự cấp (thiếu máy móc, phân, giống) dưới danh nghĩa "tập đoàn" thì thành thị lại bị biến thành một thứ nông thôn lạc hậu, đi đâu cũng thấy người ta phá các luống hoa để trồng rau, còn nhà cửa thì hầu hết đều bị biến thành những chuồng heo, chuồng gà, chuồng thỏ nồng nặc mùi cám, mùi phân. Các công sở, vốn là chỗ làm việc trang nghiêm, cũng đã biến thành một thứ chợ nho nhỏ : cả ngày người ta chỉ lo mua bán, cung cấp xăng dầu, nhu yếu phẩm (một tí gạo, một tí xà phòng, cá, thịt...). Là một cái vựa thóc, trong những năm tháng ấy, người dân miền Nam đã phải ăn độn với khoai lang, khoai mì và khủng khiếp nhất là với cái gọi là... bobo do Liên Xô viện trợ [32]. Cuộc cải cách 1986 tuy có quan trọng thật nhưng chưa đáng được gọi là "đổi mới" (renovation) bởi vì : - Di lụy của thời kỳ bao cấp (1976-1985) vẫn kéo dài sau khi cải cách bắt đầu từ năm 1985, khiến đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết về kinh tế - xã hội ; - Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm về chỉ đạo chiến lược sách lược và tổ chức thực hiện ; - Không có đủ cán bộ khoa học kỷ thuật để học hỏi những tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật toan cầu thời đó ; - Hoảng loạn vì cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác và không đủ tầm nhìn để rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng đó ; - Đổi mới mà không đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thì vẫn như cũ ; - Đổi mới vá víu và không toàn diện & đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa mà chỉ chú trọng việc đổi mới kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoang tường ; - Đảng Cộng Sản Việt Nam dù hô hào đổi mới từ năm 1986/1989, quyền lực lực chính trị của dân vẫn bị tước đoạt rõ nét qua các cuộc bầu cử phi dân chủ ; - Về đối ngoại thì mở cửa làm ăn với mọi nước không phân biệt chế độ, nhưng vẫn không nâng được uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lên ngang tầm vóc các quốc gia Đông Nam Á. - Tình trạng nhân quyền từ 1986 đến ngày nay vẫn tệ hại và thường xuyên bị quốc tế lên án. - Chịu áp lực của Đảng Cộng Sản Liên Xô và ông Gobachev dưới áp lực giảm thiểu viện trợ nên bất đắc dĩ phải đồi mới để thoát hiểm [33]. Bà Melanie Beresford, một học giả hàng đầu về kinh tế chính trị của Việt Nam đã đánh giá trên Tạp Chí Châu Á 2008 như sau "Đổi mới trong đánh giá : Những thách thức của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội thị trường tại Việt Nam", và đưa ra một phân tích quan trọng về lịch sử gần đây của Việt Nam. Bà đã lưu ý rằng : "nền kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường dưới sự chỉ đạo của nhà nước" có những khía cạnh tiêu cực đối với sự chuyển đổi này — ví dụ như tội phạm gia tăng, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế công cộng giảm sút, bất bình đẳng gia tăng . Tuy nhiên, tốc độ thay đổi quá nhanh đặt ra một số thách thức nghiêm trọng liên quan đến con đường phía trước [34]. Thứ tám là sự kiện cộng sản Đệ III sụp đổ trên qui mô toàn cầu từ 1989 đến 1991 đã tạo ra một yếu tố Hoại-Diệt ngoại tại lớn lao nhất cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cuộc chính biến tháng 8/1991 là hệ quả tất yếu của quá trình cải tổ và công khai hóa do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. Gobachev khởi xướng từ tháng 3/1985. Công cuộc cải tổ đó đã làm thoái hóa, biến chất, tự chuyển hóa diễn ra tại trung tâm quyền lực của Đảng Cộng Sản Liên Xô và các đảng cộng sản khác gây ra những nguy cơ tan vỡ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây chính là đêm trước của sự tan rã làm cho sụp đổ toàn bộ khối cộng sản Châu Âu vào năm 1991. Từ đó đến nay Đảng Cộng Sản Việt Nam mất đi ngưới cha đẻ là Đảng Cộng Sản Liên Xô & những người anh em thân thiết là các đảng cộng sản Đông Âu. Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ còn lại bà mẹ đẻ là Trung Quốc đã từng gây khó khăn cho chế độ cộng sản Việt Nam từ năm 1978 rồi chấm dứt ngày 4/9/1990 bằng Hiệp ước Thành Đô ký kết bí mật giữa Giang Trạch Dân & Lý Bằng của Trung Quốc với Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng & Đỗ Mười của Đảng Cộng Sản Việt Nam [35] và [36]. Thứ chín là quay đầu thần phục Trung Quốc qua mật ước Thành Đô (Chengdu) – Tứ Xuyên (Sichuan Province) năm 1990 là yếu tố Hoại-Diệt nội tại do chóp bu lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư), Đỗ Mười (Thủ tướng) & Phạm Văn Đồng (Cố vấn) chủ xướng. Hiệp ước nầy Hội nghị Thành Đô (còn gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4/9/1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng cộng sản của Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc. Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc [37] và [38].  Hội nghị Thành Đô được nhóm họp vào hai ngày 3 và 4/9/1990 tại Thành Đô – Tứ Xuyên Trung Quốc. Cuối thập niên 1980, hệ thống cộng sản xã hội chủ nghĩa Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi sụp đổ hàng loạt. Về phần mình, mặc dù đã thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng cộng sản Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế - xã hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975. Lo sợ cho số phận chao đảo của mình vào thời điểm đó và tự huyễn hoặc "dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa", một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam, đứng đầu là TBT Nguyễn Văn Linh, đã quay sang ôm chân các ông chủ Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đã đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm 1988. Cuộc hội nghị bí mật này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng vốn bị băng hoại từ 1976 đến 1989. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, tuy nhiên trên trang thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho đăng hình ảnh chụp trong hội nghị, trong những cột mốc ngoại giao quan trọng. Sự kiện vẫn còn tác động tới đường lối và cán bộ của bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam Việt Nam đến tận ngày nay. Theo các giới chức ngoại giao quốc tế, phía Trung Quốc đã chuẩn bị rất kỹ các nội dung đàm phán, ký kết, kể cả những điều được cho là 'phụ lục' nhưng lại có vai trò như những nguyên tắc chỉ đạo cho bình thường hóa và cả 'hậu bình thường hóa' lẫn 'tái cấu trúc' quan hệ và chiến lược 'quan hệ, hợp tác' giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi là 'các thỏa thuận cấp cao' và 'sự kế tục'. Trong đó cụ thể có các nguyên tắc 'chỉ đạo' đàm phán không chỉ liên quan tình hình chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà còn các phương châm 'chỉ đạo chiến lược và lâu dài' về giải quyết tranh chấp, xung đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính trị dưới danh nghĩa 'quan hệ về ý thức hệ' liên Đảng v.v... [39] và [40]. Hôm 17/10/2014, một cựu lãnh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn còn đang tác động tới tâm lý của lãnh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ liên quan Trung Quốc. Cựu Lãnh sự cộng sản Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao, ông Đặng Xương Hùng nói : "Trung Quốc đã khống chế toàn bộ lãnh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam," "Trong đó không chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc," "Bất cứ nhân vật nào lên lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều, không dám đứng ra như ông Nguyễn Cơ Thạch đã đứng ra công khai chống lại việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các điều kiện bất lợi cho Việt Nam)". Từ nhiều năm trước, trong dư luận đã lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đề nghị và lãnh đạo Trung Quốc đồng ý để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung Quốc. Đến tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí còn đăng tải nội dung của bản "mật ước" (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã công bố) : "…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.…" Sự kiện nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không dám công khai mật ước Thành Đô 1990 là vì đó không chỉ là một thất bại nhục nhã trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà còn là bằng chứng không thể chối cãi về hành vi "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi về dày mả tổ" của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chỉ chừng ấy thôi họ đã bị lịch sử và nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một bộ phận của "đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" [41]. Thứ mười là tranh chấp lãnh thổ trên biển và trên đất liền với Trung Quốc là một yếu tố Hoại-Diệt tự thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1958, Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh đã đồng ý cho Trung Quốc làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ thời phong kiến cho đến sau khi độc lập từ tay thực dân Pháp.  Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào năm 1958. Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 tại Thụy Sỹ đã công nhận lãnh hải và thềm lục địa Việt Nam bao gồm Hoàng Sa & Trường Sa. Vì mắc quay bởi Công Hàm 1958 do Phạm Văn Đống ký, nên đến năm 1974, Khi Trung Quốc gây chiến với Việt Nam Cộng Hòa chiếm Hoàng Sa thì Việt Nam im lặng không dám phản đối Trung Quốc. Ngày nay công ước UNCLOS 1982 củaLiên Hiệp Quốc là quốc tế công pháp căn bản cho Việt Nam đòi lại Hoàng Sa [42]. Đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc theo các Công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 thì đường biên giới này đã được xác định theo tiêu chuẩn quốc tế, thể hiện qua các bộ bản đồ do Sở Địa dư Đông dương ấn hành (các năm 1948 và trước đó). Đường biên giới này rõ rệt và có hiệu lực pháp lý. Việc phân định biên giới vào các năm 1887 và 1897 giữa Pháp và nhà Thanh đã gây thiệt hại đất đai cho Việt Nam. Nhà nước bảo hộ Pháp đã trao đổi đất đai của Việt Nam để lấy lợi ích kinh tế. Điều này vi phạm hiệp ước bảo hộ 1884 theo đó Pháp cam kết bảo toàn lãnh thổ của đế quốc Đại Nam. Việt Nam mất những vùng đất quan trọng như Tụ Long (thuộc Hà Giang, 750 km²), Đèo Lương (thuộc Cao Bằng, 300km²), các tổng Kiến Duyên và Bát Tràng (thuộc Hải Ninh, nay là Quảng Ninh, diện tích vài ngàn cây số vuông) và vùng đất mũi Bạch Long (phía bắc Móng Cái, nay là vùng đất mà Trung Quốc gọi là là Kinh Đảo, các đảo của dân tộc Kinh). Sau khi hoạch định biên giới 1887 đến năm Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, thì đường biên giới Việt-Trung đã không còn rõ rệt nữa. Các bản báo cáo của các viên chức phụ trách biên giới người Pháp cho thấy là hầu hết các cột mốc trên biên giới đều thay đổi chỗ, phần lớn do Trung Quốc dời sâu về phía Việt Nam. Việt Nam có nên phân định biên giới với Trung Quốc theo Công ước 1887 vẫn còn hiệu lực pháp lý. Hai bên Việt Nam và Trung Quốc nên thảo luận để điều chỉnh lại vị trí các cột mốc cho phù hợp theo các tấm bản đồ do Sở địa dư Đông dương ấn hành. Vấn đề khác làm phức tạp thêm là cuộc chiến biên giới 1979, Việt Nam đã mất một số lãnh thổ, đặc biệt là cao điểm chiến lược dọc theo biên giới cho Trung Quốc. Điều quan trọng là Việt Nam có mất đất hay không ? Câu trả lời ngắn gọn là có. Tức là việc ký hiệp ước biên giới 1999 không "thành công", mà là một thất bại cho Việt Nam. [Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký ngày 30/12/1999] chế độ cộng sản Việt Nam đã bỏ đường biên giới lịch sử, bác bỏ đường biên giới qui ước (Pháp-Thanh) để nhìn nhận hiện trạng đường biên giới. Tức Việt Nam chấp nhận thuộc về Trung Quốc các vùng đất trước kia của Việt Nam bị Pháp nhượng để được đặc quyền kinh tế. Việt Nam cũng nhượng cho Trung Quốc những vùng đất hiện do Trung Quốc kiểm soát sau cuộc chiến biên giới thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chắc chắn là Việt Nam bị thiệt thòi, nhưng mất bao nhiêu lãnh thổ, lãnh hải là không thể nói chính xác. Rồi còn Ải Nam Quan, bãi Tục Lãm, thác Bản Giốc… còn chuyện phía Trung Quốc cho di dời cột mốc biên giới sâu vào trong nước ta, một số cao điểm bị Trung Quốc chiếm đóng sau cuộc chiến tranh biên giới, và vịnh Bắc Bộ v.v…[43] và [44]. * Kết lại giai đoạn Trụ là thời kỳ phát triển khá mạnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm gia tăng số lượng đảng viên lên đến hơn hai triệu, nhưng không tránh khỏi nhiếu yếu tố Hoại-Diệt lớn lao. Yếu tố Hoại-Diệt lớn lao nhất do biến cố sụp đổ toàn diện hệ thống cộng sản từ 1989 đến 1991 để lại cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một đội ngủ đảng viên hơn hai triệu mất hết lý tưởng cộng sản, rã rời và lâm vào tình trạng băng hoại do não trạng "bạo lực cách mạng" đã ăn sâu vào tâm thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo tác phẩm "L’homme révolté" (Người nổi loạn) của Camus, xuất bản vào năm 1951, phân biệt giữa "người nổi loạn" (révolté) và "người cách mạng" (revolutionaire). Theo ông, làm cách mạng tất yếu sẽ dẫn đến chế độ độc tài toàn trị, và sự chuyên quyền của nhà nước sẽ đưa đến chính sách khủng bố và đày đọa người dân. Chế độ khủng bố của nhóm Robespierre thời cách mạng Pháp và nhà tù của chính quyền Nga Xô Viết không phải là ngẫu nhiên mà là hậu quả của ý thức hệ cách mạng. Trong lúc đó, nổi loạn là sự bùng nổ ngẫu nhiên bắt nguồn từ sự phản kháng bất công, đòi hỏi thay đổi, chứ không nằm trong một kế hoạch tiền định. Qua tác phẩm, Camus bày tỏ thẳng thắng quan điểm chống chủ nghĩa cộng sản của mình. Trong lúc đó, Jean-Paul Sartre ca ngợi chế độ Stalin của Liên Xô. Sartre tấn công một cách quyết liệt "L’homme révolté" trên tờ "Les temps modernes" của mình. Trái hẳn với Camus, Sartre quả quyết rằng cách mạng phải đi đôi với bạo lực. Cách mạng cần bạo lực để hoàn thành mục tiêu của nó. Do đó, bạo lực là công cụ cần thiết và hợp lý của chính nghĩa. Ngược lại, Camus cho rằng, thay vì cứu giúp nhân loại, cái gọi là ý thức hệ bạo lực cách mạng cộng sản sẽ đưa nhân loại đến chỗ chịu nhiều khổ đau hơn. Trần Đan Tâm (30/10/2024) 1. Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Quy Luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt   Thư mục tham khảo [01] Đại tá, Trung Quốc Phan Sỹ Phúc, "Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân : Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam", Quân đội Nhân dân, 21/09/2024  [02] Dr. Dixee Bartholomew-Feis, The OSS in Vietnam, 1945 : A War of Missed Opportunities, July 15, 2020 [03] Javigos.com, Ngày này năm xưa : 11/3/1945 – Tuyên cáo độc lập của vua Bảo Đại, 11/3/2022 [04] Duiker, William (1976), The Rise of Nationalism in Vietnam, 1900–1941. Ithaca, New York : Cornell University Press. ISBN 0-8014-0951-9 [05] Hoàng Văn Đào (1970), Việt Nam Quốc Dân Đảng : Lịch sử đấu tranh cận đại 1927–1954, Lưu trữ 2021-12-17 tại Wayback Machine [06] Giáo sư Alex – Thái Đình Võ, Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956 : Ảnh hưởng của Cố vấn Trung Quốc (phần 1), 08/10/2022. [07] Trần Gia Phụng Toronto, Trận Điện Biên Phủ, 13/10/2013 [08] Vietnamese Heritage Museum, Lịch sử người Việt tỵ nạn – Hai cuộc di cư vĩ đại 1954 và 1975 [09] RFA, Cuộc di cư vĩ đại năm 1954 : chạy trốn cải cách ruộng đất và đi tìm tự do, 22/08/2024 [10] Tưởng Năng Tiến, Tháng Mười nhớ mẹ, 22/10/2024 [11] Tran Nam Bac, "Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens", 22/01/1955, Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục. [12] Nguyễn Văn Lục, Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (II), Đàn Chim Việt Online, 09/12/2023 [13] RFA, 70 năm cuộc di cư 1954 : hành trang mang theo đến vùng đất mới, 16/07/2024 [14] Đằng-Giao, ‘Di cư 1954’ : ‘Nỗi lòng người đi’ vẫn như ngày nào’, Người Việt, July 22, 2024  [15] Nguyễn Đình Lê, Lịch sử Việt Nam 1954-1975, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, trang 6-7 [16] Alex Thai, Vai trò của cố vấn Trung Quốc trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo Việt Nam thi hành cải cách ruộng đất, 09/10/2022, Public [17] Giáo sư Alex – Thái Đình Võ, Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956 : Ảnh hưởng của Cố vấn Trung Quốc (phần 2), 08/10/2022 [18] BBC tiếng Việt, Cải cách Ruộng đất : Số người bị giết ở Việt Nam ít hơn bên Trung Quốc nhưng 'di chứng lâu hơn', 3 tháng hai 2022 [19] Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư Mở, Nguyễn Thị Năm, 01/10/2024  [20] Zachary Abuza, The Nhan Van–Giai Pham Affair, the 1967 Purge, and the Legacy of Dissent,  Renovating Politics in Contemporary Vietnam, Published by Lynne Rienner Publishers 2001 [21] Zachary Abuza (2001). "The Nhan Van–Giai Pham Affair, the 1967 Purge, and the Legacy of Dissent", in Z. Abuza, Renovating Politics in Contemporary Vietnam (London : Lynne Rienner Publisher), Biên dịch : Vương Thảo Vy | Hiệu đính : Lê Hồng Hiệp, Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm, cuộc thanh trừng năm 1967, và di sản của sự bất đồng chính kiến [22] Ngô Thị Thứ, Sợi dây thừng vô hình , 22 October 2024 [23] Martin Grossheim, ‘Revisionism’ in the Democratic Republic of Vietnam : New Evidence from the East German Archives, 18 August 2006  [24] Nguyễn Đức Hạo Nhiên, Bệnh kiêu ngạo công sản, VNTB, 27/06/2021 [25] U.S. Mission Vietnam, Kỷ niệm 30 năm dỡ bỏ lệnh cấm vận, Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, 07/02/2024  [26] Tu Hoa, Đánh tư sản" ở miền nam sau 1975, 14/07/2015 [27] Nguyen Van Canh, Chiến tranh biên giới Việt–Trung : cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí, 07/12/2018 [28] Nguyễn Quốc Cường, Sự kiện thuyền nhân Việt Nam sau 1975, Nghiên Cứu Lịch Sử, 18/07/2016 [29] BBC tiếng Việt, Chiến tranh biên giới Việt–Trung : cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí’, 16/02/2024 [30] BBC tiếng Việt, "17/02/1979 : Các yếu tố Hoa kiều, Campuchia, Trung-Xô và mục đích của Đặng Tiểu Bình", 17/02/1979 : Các yếu tố Hoa kiều, Campuchia, Trung-Xô và mục ... [31] Việt Long, Chiến tranh Việt-Trung 1979 : Diễn biến và hậu quả, Nghiên cứu quốc tế, 15/02/2029 [33] BBC tiếng Việt, Vai trò của Gorbachev với Đổi Mới ở Việt Nam từ Đại hội VI năm 1986, 4/1/2022 [34] Kosal Path, The Origins and Evolution of Vietnam's Doi Moi Foreign Policy of 1986, 20/03/2020, The Origins and Evolution of Vietnam's Doi Moi Foreign Policy of 1986 | TRaNS : Trans-Regional and -National Studies of Southeast Asia | Cambridge Core. [35] Carl Bildt, Remembering the Miracle of 1989, PROJECT SYNDICATE, 19/08/2019,  [36] John Simpson, Khi người dân đứng lên lật đổ chủ nghĩa cộng sản vào năm 1989, BBC tiếng Việt 30/12/2019 [37] BBC tiếng Việt, 'Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô ?', 17/10/2014 [38] Lena Sun, Leaders of Vietnam, China Held Secret Talks, The Washington Post, 19/09/1990 [39] Lê Anh Hùng, Nên hiểu ‘Mật ước Thành Đô’ như thế nào ? VOA tiếng Việt, 13/12/2017  [40] David Holley, "Vietnam, China Reveal Meeting of Top Leaders : The collapse of communism elsewhere has pressured the two nations to bury the hatchet. Cambodia has been a sticking point", Sept. 18, 1990 [41] Deng Xiaoping's Long War : The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The New Cold War History), The 1990 Chengdu Meeting - Chapter 8 : The Road to Conflict Termination (pp. 202-206). The University of North Carolina Press [42] RFA, Một số vấn đề về quản lý lãnh hải của Việt Nam theo Luật biển Quốc tế, 17/10/2022 [43] BBC tiếng Việt, Hiệp ước Biên giới Việt – Trung là một "thành công" của cả hai nước ?, 17/02/2017  [44] Nam Việt, Khi hai đồng chí cộng sản ôm chặt và gườm nhau (Nam Việt), Thứ Hai, 10/28/2024   Nguồn: Thông Luận  
......

Đất nước VN này còn lâu mới chịu phát triển

Người nói câu trong ảnh là bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ông Dũng cho biết, thiết kế thành phố Dubai được duyệt trong 2 giờ, sau 5 năm bộ mặt Dubai hình thành. Nếu để Việt Nam làm, phải mất 1500 năm mới xây dựng được Dubai. Không dừng lại ở đó, ông Dũng còn so sánh số liệu như sau: muốn xây dựng 1 khách sạn 5 sao ở Việt Nam nhà đầu tư phải mất 3 năm làm thủ tục, trong khi xây dựng 1 trung tâm thương mại tại Trung Quốc chỉ mất 68 ngày vừa thủ tục vừa triển khai; một nhà máy sản xuất ô tô trị giá 1 tỷ đô la của họ chỉ mất 1 năm từ lúc làm thủ tục đến lúc hoàn thành xây dựng. Nếu dân thường nói ra những điều trên đây sẽ bị lực lượng dư luận viên chụp mũ là phản động, nhưng nó được thốt ra từ miệng 1 ông bộ trưởng của chính phủ Việt Nam hiện tại. Một thực tế quá phủ phàng từ miệng ông Dũng đã lột tả sự quan liêu trì trệ của bộ máy cầm quyền. Lại nhớ lời của bà luật sư Ngô Bá Thành ngày nào: Việt Nam có 1 rừng luật nhưng chỉ dùng luật rừng. Trong đám bùng nhùng của luật và các quy định- được các bộ phận chính quyền thiết kế để hành dân hòng mưu lợi cho cá nhân và ngành mình, đất nước này còn lâu mới chịu phát triển. Muốn phát triển, điều đầu tiên phải làm sạch bộ máy nhân sự, mà việc đó còn khó hơn thay đổi thể chế từ cộng sản sang cộng hòa. Nhưng không phải khó mà không làm nếu muốn thay đổi đất nước này. Chúng ta chờ xem những nỗ lực thay đổi của ông Tô (nếu có) sẽ được đáp đền hay húc phải bức tường không lối ra./.  
......

Cửa chuồng cọp ở trại 6 đã “bị phá”

Trịnh Thị Thảo   Như mọi người đã biết ở trại 6, k1 đợt vừa rồi đã diễn cuộc tuyệt thực của 3 anh em gồm Tư, anh Thuận, anh Bách. Cuộc tuyệt thực diễn ra từ ngày 28/9/2024 đến ngày 16/10/2024 gia đình tôi đi thăm Tư thì Tư cho biết Anh Bách đồng hành cùng hai anh em được 10 ngày, do sức khỏe của anh yếu,hôm đó mọi người trong đó đã tuyệt thực được 19 ngày và vẫn tiếp tục tuyệt thực. Từ đó đến hôm nay gia đình tôi không có tin tức gì của Tư và anh Thuận. Chiều hôm qua ngày 30/10/2024 em tôi Trịnh Bá Tư đã gọi điện thoại về và thông báo với gia đình rằng: Điều kiện giam giữ ở trong tổ A được cải thiện một phần. Thứ nhất là cửa chuồng cọp đã được mở cả tuần, tuy nhiên sáng sớm và đầu giờ chiều mở trễ 15-30phút sau khi mở cửa buồng chính. Còn sáng thứ 6,sáng chủ nhật và chiều chủ nhật mở cả 4 buồng để các anh em ra ngoài sân chung chơi cờ,thể thao, ca hát,nói chuyện khoảng 2 tiếng. Trong cuộc họp tổ A ngày 17/10/2024 có sự tham gia của thiếu tá Trần Anh Quế, số hiệu : 559853 thì trại 6 ghi nhận ôn hòa trong hành động, lời nói của các anh em tổ A. Lời cảm ơn của Tư và anh Thuận. Tôi và các các anh em tù nhân chính trị tổ A, K1 trong trại 6 xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan ngoại giao, các chính phủ dân chủ, các cơ quan báo chí độc lập cùng toàn thể các cô bác anh chị em đang khao khát đấu tranh vì một Việt Nam dân chủ nhân quyền đã quan tâm đồng hành và cất lên tiếng nói bảo vệ chúng tôi. Có được sự quan tâm kịp thời và quý giá đó giúp chúng tôi càng vững tin bước đi trên con đường mà mình đã chọn. Chính trong nhà tù này chúng tôi nhận thức rõ hơn trong công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam dân chủ,nhân quyền là vô cùng quan trọng và cần thiết, do vậy chúng tôi cảm thấy mình sống một cuộc sống thực sự ý nghĩa. Những năm tháng bị cầm tù và những khắc nghiệt trong nhà tù chỉ là nơi chúng tôi rèn luyện ý chí, học tập các kiến thức hữu ích mà thôi. Hiện tại chúng tôi đã kết thúc đợt tuyệt thực tập thể sau 3 tuần, sức khỏe chúng tôi đang dần hồi phục. Một lần nữa chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các bạn. Hẹn các bạn khi chúng tôi ra khỏi nhà tù nhỏ này, chúng tôi tin với sự quyết tâm và ý chí chúng ta sẽ gây dựng một Việt Nam dân chủ thịnh vượng, thượng tôn pháp luật và quyền con người. Phá bỏ nhà tù lớn đã giam hãm tư tưởng và tiềm năng phát triển của dân tộc Việt Nam trong nhiều thập kỉ qua. Xin gửi lời cảm ơn tri ân tới chú Trần Huỳnh Duy Thức một người bạn tù tốt, người đã hướng dẫn dạy chúng tôi tận tình khi chúng ta ở bên nhau, dù thời gian đó không dài, cảm ơn chú khi đã tự do vẫn quan tâm, và lên tiếng cho các anh em đang bị cầm tù. Như vậy Tư và anh Thuận đã tuyệt thực kéo dài từ ngày 28/9/2024 đến ngày 18/10/2024 tức là 21 ngày, lần tuyệt thực này Tư và anh Thuận đều sụt cân từ 68 xuống còn 57kg. Một lần nữa thay mặt hai gia đình của em Tư và anh Thuận xin cảm ơn mọi người đã luôn đồng hành và động viên hai anh em ở trong lao tù cộng sản./.    
......

Temu không làm ta… te tua

Dân Trần (VNTB)  Không có Temu thì cũng có hãng khác, quan trọng là nhà nước phải biết cách quản lý, xử lý, điều hành nền kinh tế!   Ứng dụng bán hàng Temu đang tạo ra cơn sốt tại thị trường Việt Nam, khiến nhà chức trách cùng với doanh nghiệp trong nước như ngồi trên đống lửa. Sàn thương mại điện tử này tung ra vô số chương trình quảng cáo, mời gọi người dân mua sắm với giá siêu rẻ, có mặt hàng được giảm tới 90%. Hiện nay sàn thương mại thuộc tập đoàn PDD Holdings của Trung Quốc vẫn chưa được nhà nước Việt Nam cấp phép hoạt động. Cho nên việc Temu bán hàng ở Việt Nam là bất hợp pháp. Nhưng nếu quy trách nhiệm cho Temu là không đúng, vì Việt Nam có đầy đủ các cơ chế pháp lý để xử lý những trường hợp này. Tuy rằng có một rừng luật, nhưng nhà chức trách lại không biết dùng luật. Chính những người được trả lương từ thuế của dân đã không biết cách bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước. Thiếu năng lực, vô trách nhiệm thì mới để các tập đoàn ngoại bang tha hồ hoạt động bất hợp pháp tại Việt Nam như vậy. Dư luận cũng cho rằng Việt Nam nên học theo Indonesia là cấm hẳn Temu. Nhưng không dễ, vì chúng ta có đường biên giới chung với Trung cộng trên đất liền, và nhà nước cộng sản Việt Nam cũng chịu nhiều áp lực và bị uy hiếp bởi cộng sản Trung Quốc. Nói về vấn đề này, bà Hoàng Thị Mai Hương, thạc sĩ chính sách công đại học Harvard, chủ tịch hội đồng trường Fulbright Việt Nam viết trên trang facebook cá nhân rằng nhiều người đã lo lắng thái quá. Bà Hương phân tích: “những thương hiệu sản xuất tại Việt Nam mà mạnh và chất lượng cao như Vinamilk, Cafe Viet, bút bi Thiên Long, giày Biti’s, quạt Điện cơ, Vinamit, Vifon… họ có sợ không? Lo bò trắng răng, họ chả sợ gì vì họ có thương hiệu mạnh, sản phẩm chất lượng cao, mạng lưới phân phối, marketing tốt. Còn các sản phẩm sản xuất ở sân sau bán truyền miệng trên facebook thì tất nhiên hoặc phải đầu tư phát triển thế mạnh của mình (nếu có), tập trung xây dựng kênh phân phối, thương hiệu.. hoặc là chết… Suy cho cùng về lâu dài, người tiêu dùng VN có lợi vì có nhiều chọn lựa, ngành công nghiệp tiêu dùng VN nếu không bóc ngắn cắn dài thì cũng có thêm nhiều Vinamilk, Bitis, Thiên Long…” Bà Hoàng Thị Mai Hương cũng đang là chủ tịch tập đoàn Publicis Group Việt Nam, kiêm giám đốc điều hành của Saatchi & Saatchi Vietnam. Trong bài viết trên trang cá nhân này thì bà Hương cũng lường trước rằng sẽ có người tranh luận rằng Mỹ cũng bảo vệ mậu dịch bằng cách cấm hàng Tàu, đánh thuế cao… Nhưng bà cho rằng Mỹ và Việt Nam không giống nhau, và không thể dùng chiến lược của Mỹ tại Việt Nam. Trong bài viết được đặt chế độ chỉ bạn bè xem, bà Hương viết: “Trước hết, Mỹ không CẤM hàng Tàu nhé. Họ dùng các đòn bẩy như thuế, tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh môi trường để quản lý. Và hệ thống thực thi các tiêu chuẩn này rất hữu hiệu, chặt chẽ, quên chuyện lót tay hải quan đi. Thứ hai, Mỹ có những ngành công nghiệp mũi nhọn xương sống vượt trội cần bảo vệ như xe hơi, hi-tech products. Sức cạnh tranh của họ rất cao, có kém chỉ là về giá cả. Vì chi phí lao động của họ cao ( người dân mức sống cao, phúc lợi tốt). Vì vậy cái loại Temu, Taobao, doanh nghiệp Ecommerce cung cấp hàng tiêu dùng đơn giản cho dân họ mua rẻ, dùng nhanh họ sợ chi mà tẩy chay và cấm ? Biến Trung Quốc thành nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng nhanh cho họ, tập trung nguồn lực và tiền thuế củng cố các ngành mũi nhọn như AI, SpaceX, Vaccine, chữa ung thư… Cuối cùng, các bạn chửi hàng Tàu được trợ giá, lách thuế nên mới bán rẻ ở VN để giết doanh nghiệp Việt… Có bao nhiêu người Việt sẵn sàng mua hàng đắt, chờ lâu, dịch vụ kém hơn chỉ vì yêu nước? Hay chỉ giỏi hô khẩu hiệu thôi? Nếu muốn ủng hộ hàng Việt nam, đại đa số người tiêu dùng phải biết hy sinh cái lợi trước mắt: chất lượng OK, mẫu mã đa dạng, rẻ tiền để mua (một số nhiều) mặt hàng Việt chất lượng chưa cao… Phải chịu khó đóng thuế để nhà nước có tiền mà trợ giá cho hàng Việt. Các bạn đang hô hào tẩy chay có sẵn sàng làm việc đó không? Các bạn xem lại hàng các bạn mua trên Shopee, Tiki  hay Lazada đi, có phải toàn hàng sản xuất tại VN không? Tôi thấy 2/3 cũng là made in China đấy!” Quả thật, trước bối cảnh xã hội đang biến đổi từng giờ, nếu hôm nay không có Temu này thì ngày mai cũng sẽ có Temu khác. Vấn đề là chúng ta đối diện, đối phó với những biến đổi này như thế nào. Chứ không phải cấm là được, không phải chỉ có các tập đoàn Trung Quốc, mà sẽ là những tập đoàn thương mại từ Nhật, Mỹ, Âu… Chúng ta không thể bế quan tỏa cảng. Người tiêu dùng có các lựa chọn sản phẩm phù hợp túi tiền của họ, không thể ép họ vét cạn túi mua những thứ mắc tiền để chứng minh lòng yêu nước. Mà nhà nước phải có trách nhiệm quản lý, xử lý để bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp trong nước cũng phải nỗ lực đầu tư, phát triển các sản phẩm của mình. _____________________ Tham khảo: https://www.facebook.com/share/p/uQAW5kYmjm3nk6bd/?  
......

Liệu Tô Lâm có ‘kéo’ nổi nền kinh tế đang ‘xập xệ’?

Sonnie Tran Nền Kinh tế Thị trường (ME) – danh hiệu mà Việt Nam đã dày công vun đắp, ra sức thuyết phục Hoa Kỳ công nhận suốt bao năm qua, vẫn còn là câu chuyện dang dở, treo lơ lửng giữa dòng thời cuộc. Số phận của nó phần nào phụ thuộc vào kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới. Việt Nam đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do làn sóng thông tin tiêu cực về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư (MPI) gióng lên hồi chuông cảnh báo về nguy cơ “chảy máu” vốn đầu tư, thẳng thắn nhận định rằng chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã “lập lờ nước đôi,” không còn phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế. Chính quyền Việt Nam cũng đang phải đau đầu vì rào cản từ thuế tối thiểu toàn cầu, một rào cản mới trên con đường thu hút đầu tư. Chính sách này ra đời nhằm siết chặt “vòng kim cô,” ngăn chặn các tập đoàn đa quốc gia lách luật, chuyển lợi nhuận đến các quốc gia có mức thuế thấp. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” này, nhiều tập đoàn đã quyết định dứt áo ra đi khỏi Việt Nam, bởi Hà Nội chưa có những chính sách hỗ trợ kịp thời từ ngân sách nhà nước. Tình trạng dậm chân tại chỗ cho thấy rõ sự ngần ngại, thiếu quyết đoán trong việc hoạch định chính sách của giới quan chức Việt Nam trong bầu không khí “đốt lò” ngột ngạt. Trong bối cảnh lò vẫn đang nóng bỏng, không ai muốn trở thành “vật tế thần,” hứng chịu hậu quả từ những quyết định “nhạy cảm” có thể động chạm đến lợi ích của các phe phái trong cuộc chiến quyền lực. Nhất là khi Tổng Bí Thư Tô Lâm đương nhiệm nổi tiếng với “bàn tay sắt” và không ngại sử dụng “luật rừng” để trừng trị những kẻ chống đối. Việt Nam không ngừng vận động, thuyết phục chính quyền Hoa Kỳ công nhận nền kinh tế thị trường, việc vẫn bị “gắn mác” nền kinh tế phi thị trường (NME) không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ song phương, mà còn khiến Hà Nội lo ngại, nhất là khi Mỹ đang xem Việt Nam như một đối trọng chiến lược với Trung Quốc. Nền kinh tế thị trường (ME) hoạt động theo nguyên tắc độc lập và phụ thuộc vào sự vận động hành lang rất lớn của các tổ chức hiệp thương ngành nghề Hoa Kỳ để giúp bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì thế, Washington không thể tùy tiện áp đặt chính sách mà phải xem xét đến các kiến nghị của các hiệp hội này để bảo đảm cân bằng lợi ích và duy trì sự ủng hộ chính trị trong khuôn khổ dân chủ. Điều này khác hẳn với cách đang điều hành nền kinh tế theo hướng chỉ đạo của phong cách “định hướng Xã hội Chủ nghĩa” của Đảng CSVN. Trong chuỗi hoạt động tại New York trong chuyến đi Mỹ cuối Tháng Chín, ông Tô Lâm kêu gọi các “ông lớn” công nghệ như Apple, Meta và các công ty tài chính khác ủng hộ Hà Nội trong nỗ lực “gỡ mác” NME, đồng thời thúc đẩy hợp tác về chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Nhưng Google bất ngờ “quay lưng,” tuyên bố đầu tư tổng cộng $3 tỷ vào Malaysia và Thái Lan để xây dựng trung tâm dữ liệu, thay vì chọn Việt Nam. Nói là làm, hôm 1 Tháng Mười, Google và chính quyền Malaysia tổ chức lễ động thổ xây dựng trung tâm dữ liệu kiêm vùng lưu trữ dữ liệu đám mây (cloud region) trị giá $2 tỷ. Google khẳng định khoản đầu tư này sẽ tạo ra 26.500 việc làm và đóng góp hơn $3 tỷ vào nền kinh tế Malaysia từ nay đến năm 2030. Trước đó một ngày, Google cũng công bố đầu tư $1 tỷ vào một trung tâm dữ liệu tương tự ở Thái Lan, tạo ra trung bình 14.000 việc làm mỗi năm từ nay đến năm 2029. Sự “quay lưng” đột ngột của Google phơi bày rõ nét thiệt hại to lớn mà Việt Nam phải gánh chịu. Để dễ hình dung, con số việc làm mà Google tạo ra tại Malaysia tương đương với số lượng nhân viên mà tập đoàn bất động sản thân cộng sản hàng đầu Việt Nam là VinGroup của tỷ phú đầy tai tiếng Phạm Nhật Vượng tạo ra. Trong khi nguồn nhân lực này đa số là kỹ sư công nghệ thông tin chất lượng cao và có mức thu nhập cao hơn nhiều của VinGroup. Bản thân MPI cũng phải thừa nhận, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam mới chỉ tập trung vào miễn, giảm thuế và ưu đãi về tiền thuê đất, mà chưa quan tâm đúng mức đến các ưu đãi dựa trên chi phí. Điều này khiến sức cạnh tranh của Việt Nam không còn đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư dài hạn. Theo MPI, nếu không sớm nội luật hóa để điều chỉnh mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp lên tương đương với mức thuế tối thiểu toàn cầu (15%), Việt Nam sẽ “mất trắng” phần thuế chênh lệch, các công ty đầu tư tại Việt Nam cũng không được hưởng ưu đãi này, vì phần lợi ích đó sẽ bị các quốc gia của công ty mẹ “thu gom”. Việc Việt Nam chưa có những giải pháp đồng hành kịp thời cùng doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến quyết định mở rộng hoặc duy trì đầu tư của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, kéo theo sự sụt giảm trong việc thu hút các công ty vệ tinh; đồng thời làm “giảm nhiệt” động lực đầu tư của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch “rót vốn” vào Việt Nam. Hậu quả nhãn tiền là quy mô sản xuất có thể bị thu hẹp, nhu cầu lao động giảm sút. Nếu Việt Nam không nhanh chóng điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư và cơ chế thực hiện cho phù hợp, thì việc áp dụng chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu sẽ triệt tiêu hiệu quả của chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, khiến Việt Nam không còn là “miền đất hứa” để giữ chân hoặc thu hút thêm vốn đầu tư mới từ các tập đoàn đa quốc gia. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực, cũng như ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư ngoại quốc có chọn lọc, chất lượng cao./.  
......

Tháng mười nhớ mẹ

Tưởng Năng Tiến Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời. Suốt đời bà chỉ biết “giáo huấn” các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu: – Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa. Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm: CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ! Vietnamnet hớn hở chạy tin: “Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2024)”. Ôi! Tưởng chuyện gì lạ, chớ cờ quạt, bích chương, pa nô, áp phích, băng rôn, biểu ngữ, khẩu hiệu (tuyên truyền) thì Hà Nội lúc nào mà không sẵn và …dư! Hơn nữa, con số hàng chục ngàn người dân Hà Nội túa ra đường hoan hô vẫy chào đoàn quân chiến thắng (hồi bẩy mươi năm trước) là sự kiện hoàn toàn có thật – theo lời của những nhân chứng thế giá: Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. (Nguyễn Mạnh Tường. Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectual – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công, Hà Nội 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức, bản dịch Nguyễn Quốc Vĩ). Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố… (Lê Phú Khải. Lời Ai Điếu. NXB  Người Việt: 2016). Thiệt là vui hết biết luôn, và vui còn hơn Tết nữa. Niềm vui, tiếc thay, rất ngắn – theo lời của tác giả (và tác phẩm) vừa dẫn: Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.” Nguyễn Khải thêm: Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận. Thảm vậy sao? Ông nhà văn (e) có hơi quá lời chăng? Cũng không quá (lắm) đâu! Tác giả Nguyễn Văn Luận cũng đã từng tâm sự với nỗi buồn phiền tương tự: Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”. Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”. Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động” thì con nít cởi truồng… Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó. Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con. Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là “Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do”. Câu hỏi đặt ra là sao có quá nhiều người “bị lừa” đến thế trong khi đã có hằng triệu người đã vội vã, hối hả, hốt hoảng và ùn ùn bỏ của chạy lấy người ngay trước mặt mình: Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Geneva trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt. Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi. (Tran Nam Bac. “Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens”, Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục). Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức “phong trào nhập thành”, hay nói nôm na là phong trào “dinh tê”. Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu “an toàn Phát Diệm”, thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950? Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy. (Nguyễn Văn Lục. “Nhìn Lại Cuộc Di Cư 1954 – 1955 II”. Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023). Lời khẳng định của G.S Nguyễn Văn Lục, không dưng, khiến tôi nhớ đến mẫu thân – một người VN quê mùa và thất học. Nói nào ngay thì bà cũng biết đọc biết viết (sơ sơ) nhưng tôi chưa thấy mẹ cầm cây bút lần nào và có lẽ cũng không bao giờ đọc sách báo gì ráo trọi, ngoài vài ba cuốn kinh (Phật) đã rách bìa long gáy từ lâu. Vậy chớ khi mà tiến sỹ Nguyễn Mạnh Tường, thạc sỹ Trần Đức Thảo, kỹ sư Võ Quí Hân, giáo sư Trần Đại Nghĩa …  lật đật vội vàng rời nước Pháp để về VN để phục vụ cho cuộc Cách Mạng Vô Sản VN (theo lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh) thì bà cuống cuồng bồng bế mấy đứa con thơ bỏ chạy một mạch vô Nam. May mắn là gia đình chúng tôi chạy thoát. Tuy không thoát luôn nhưng cũng được khá lâu: 1954 – 1975. Hơn hai chục năm trời. Khoảng thời gian đủ dài để tôi được sống hết cả tuổi thơ và tuổi trẻ trong một vùng đất tương đối an bình, phú túc.  Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời. Suốt đời bà chỉ biết “giáo huấn” các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu: – Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa. – Dạ mẹ ! Tôi luôn “dạ” ngọt như đường cát (mát như đường phèn) nên chắc hẳn là mẹ hiền phải hết sức hài lòng, và an tâm, ngay cả khi đã bước qua bên kia thế giới. Khi âm dương chưa cách trở – có lần – từ bên này bờ đại dương xa thẳm, tôi đã đọc cho bà nghe đôi câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Thế lực đỏ phải đồng tâm đập nát Ðể nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh Đó là lần duy nhất trong đời mà tôi nghe mẹ cười, qua điện thoại. Sao tự nhiên mà nhớ cái tiếng cười (khanh khách) của má quá, má ơi! Tưởng Năng Tiến  
......

Ở Việt Nam, ‘thể chế’ là… quái thú bất trị! (Phần 1)

Trân Văn Hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam đồng thanh quy trách cho…. “thể chế” sau khi ông Tô Lâm – Tổng bí thư đương nhiệm tuyên bố: Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Ở ngày đầu tiên trong Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa này, ông Tô Lâm nhận diện ba “điểm nghẽn” đang kiềm chế Việt Nam là “thể chế, hạ tầng và nhân lực”, trong đó “thể chế” là “điểm nghẽn” lớn nhất, nan giải nhất [1]. Tuyên bố của ông Tô Lâm không những không mới mà còn khiến thiên hạ cảm thấy rất… tệ! Tô Lâm chỉ lặp lại điều mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam ra rả suốt từ 2011 đến giờ. Tháng 1/2011, tại Đại hội lần thứ 11 của Đảng CSVN, các đại biểu tham dự đại hội này đã xác định “thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng là ba khâu đột phá chiến lược” [2]. Hãy bỏ ra vài phút dùng “thể chế” như từ khóa kèm với những “Nguyễn Phú Trọng”, “Nguyễn Xuân Phúc”, “Vương Đình Huệ”, “Võ Văn Thưởng”,… để tìm kiếm trên Google ắt sẽ thấy, “thể chế” chẳng khác gì một loại… quái thú vừa làm cho người Việt khốn khổ, vừa giúp tổ chức chính trị giành giữ quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối tại Việt Nam không những vô can mà còn có cơ hội sắm vai… “hiệp sĩ” xả thân chống… quái thú! Xin nhìn qua một số kết quả từ Google: Tháng 1/2011, ông Nguyễn Phú Trọng xác định “phải xem đột phá về thể chế, cải cách các chế độ và thủ tục hành chính, chống phiền hà, sách nhiễu là khâu trọng yếu, bảo đảm phát huy đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, tạo xung lực mới cho phát triển nhanh và bền vững”. Năm năm sau (2016) khi BCH TƯ đảng khóa 11 mãn nhiệm, tới lượt BCH TƯ đảng khóa 12 (2016 – 2021), rồi BCH TƯ đảng khóa này (2021 – 2026) nhận nhiệm vụ, đến giờ, “phát triển nhanh và bền vững” vẫn chỉ là… mục tiêu chưa biết lúc nào có thể chạm tới, bởi “hoàn thiện thể chế” vẫn là nhiệm vụ lâu dài. Khởi xướng “đột phá về thể chế” lúc 67 tuổi, ra đi ở tuổi 80 nhưng ông Nguyễn Phú Trọng vẫn thúc thủ trước “thể chế”, thành ra đồng đảng chỉ có thể ca ngợi “dấu ấn” của ông trong “công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế” [3]. Chẳng riêng ông Trọng, ông Nguyễn Xuân Phúc cũng vật lộn với “thể chế” từ lúc còn là Thủ tướng cho tới khi trở thành Chủ tịch Nhà nước (CTNN). Năm 2016 – năm năm sau khi BCH TƯ đảng khóa 11 xác định “thể chế” là một trong “ba đột phá chiến lược” – Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu: Kiểm điểm xem Chính phủ còn nợ gì về thể chế [4]! Người đứng đầu bộ máy hành pháp tại Việt Nam, sau đó là người đứng đầu Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam liên tục sáng tạo ra đủ loại “thể chế” để thúc giục “đột phá”, yêu cầu “đổi mới”, đòi hỏi “hoàn thiện”, kể cả “thể chế về rác thải nhựa” [5]! Năm 2018, khi tham dự đối thoại về chính sách do Diễn đàn Kinh tế Việt Nam tổ chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu quan điểm của Daron Acemoglu và James A. Robinson trong “Tại sao các quốc gia thất bại” và nhấn mạnh, đó là vì “thể chế, thể chế và thể chế” [6]. Dường như “thể chế” dễ tạo “dấu ấn”, dễ giương danh nên ông Phúc cũng tâm đắc với “thể chế” chẳng thua gì ông Trọng. Đầu năm 2020, ông Phúc nhận định: Nút thắt lớn nhất hạn chế sự phát triển là thể chế, nút thắt về tư duy [7], đến cuối năm ông chỉ đạo: Muốn hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân phải tập trung xây dựng thể chế pháp luật [8]. Những Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng,… tất nhiên không thể đứng ngoài cuộc chiến công kích “thể chế” để vươn lên dẫn đầu công cuộc “đổi mới” và “hoàn thiện”. Có thể tìm thấy trên Internet vô số những tuyên bố rổn ràng về “thể chế” của họ. Chẳng hạn: Thể chế, chính sách, nguồn lực là điểm nghẽn lớn trong phát triển văn hoá [9]. Hay: Sẽ hoàn thiện thể chế để cán bộ không thể tham nhũng [10]… *** Về ngữ nghĩa, thể chế là hệ thống văn bản lập pháp và lập quy của một quốc gia, xác định phương thức tạo dựng, duy trì, điều chỉnh quan hệ giữa các tập thể bao gồm cả chính quyền với cá nhân. Thể chế ấn định cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ cho tất cả các bên và tất nhiên không thể thiếu cách thức chế tài. Một trong những cách thức phổ biến để dân chúng chế tài chính quyền là sử dụng lá phiếu để bày tỏ ý chí, nguyện vọng của họ. Tại sao ở Việt Nam, thể chế lại chẳng khác gì quái thú bất trị mà những cá nhân hữu trách không thể xác định từ đâu ra, vì lẽ gì mà có thể tác oai, tác quái và lợi hại đến như vậy? “Chiến lược” của đảng CSVN thế nào, năng lực của đảng CSVN ra sao mà sắp tròn 14 năm, “ba khâu đột phá” cùng trở thành ba… “điểm nghẽn”, thậm chí “thể chế” – khâu “đột phá” đầu tiên – còn trở thành “điểm nghẽn của điểm nghẽn”? Khi dõng dạc bảo rằng “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn” ông Tô Lâm hoặc vô tình, hoặc cố ý đã phủ nhận toàn bộ cả “dấu ấn” lẫn “công trạng” của những người tiền nhiệm. Giống như các nhân vật tiền nhiệm, ông Tô Lâm chỉ tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của quái thú, đổ sự bế tắc của quốc gia, sự lầm than của dân chúng lên đầu quái thú chứ không đề ra cách thức giải trừ! Chú thích [1] https://www.sggp.org.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-the-che-la-diem-nghen-cua-diem-nghen-post764593.html [2] https://xaydungdang.org.vn/co-so-dang/dai-hoi-dang-xi-voi-3-khau-dot-pha-3276 [3] https://baophapluat.vn/dau-an-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-trong-cong-tac-xay-dung-hoan-thien-the-che-post519751.html [4] https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/Thu-tuong-Kiem-diem-xem-Chinh-phu-con-no-gi-ve-the-che-104246.html [5] https://cebid.vn/thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-can-co-the-che-voi-van-de-rac-thai-nhua/ [6] https://tuoitre.vn/tai-sao-cac-quoc-gia-that-bai-the-che-the-che-the-che-20180112080228529.htm [7] https://vneconomy.vn/thu-tuong-nut-that-lon-nhat-han-che-su-phat-trien-la-the-che-nut-that-ve-tu-duy.htm [8] https://baophapluat.vn/the-che-the-che-va-the-che-post372457.html [9] https://baodautu.vn/ong-vo-van-thuong-the-che-chinh-sach-nguon-luc-la-diem-nghen-lon-trong-phat-trien-van-hoa-d180401.html [10] https://dantri.com.vn/xa-hoi/ong-vo-van-thuong-se-hoan-thien-the-che-de-can-bo-khong-the-tham-nhung-20220627184628187.htm  
......

HỆ QUẢ vụ bằng không hợp pháp của ông Vương Tấn Việt là gì?

LS Lê Ngọc Luân Tại thời điểm này, có thể khẳng định 100% ông Việt đã sử dụng bằng cấp 3 (giả) để học cao lên cử nhân luật, cử nhân anh văn, tiến sĩ luật và đang mon men học tiếp tiến sĩ tại ĐH KHXH&NV thì bị tiếng nói dư luận phanh phui. Tất cả bằng cấp ông Việt có được từ các trường này đều là bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng pháp luật và có dấu hiệu của hành vi “sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại BLHS 2015. Cho dù bằng tiến sĩ luật có bị thu hồi, nhưng hình ảnh tập thể giảng viên Đại học Luật Hà Nội quỳ gối trước Vương Tấn Việt trong lễ trao bằng sẽ còn được công chúng ghi nhớ mãi Tất cả chúng ta đều thấy, lễ trao bằng tiến sĩ luật do ĐH Luật Hà Nội cấp 2019 và đặc biệt sau đó là buổi lễ tri ân 20/11 được tổ chức rầm rộ có hàng trăm con người tham gia hào hứng trong không khí phấn chấn hồ hởi, trong số đó nhiều người quỳ sụp tặng hoa với lòng tôn kính và ngưỡng mộ dành cho ông Việt (cái kỳ lạ ở chỗ buổi lễ này ông Việt tổ chức để gọi là Tri ân thầy cô nhưng chính một số người lại quỳ gối trước học trò - ông Việt). Nếu quan sát kỹ và tinh ý sẽ thấy rằng buổi bảo vệ luận án tiến sĩ đã có đội ngũ truyền thông quay lại toàn bộ diễn biến, trong đó có rất nhiều lời khen, tung hô ngút trời kiểu ông Việt là người có tài năng thiên bẩm về “học thuật pháp lý” với đề tài “nghĩa vụ con người” nhưng chỉ với thời gian rất ngắn khoảng 2 năm là hoàn thành, rồi tiếp đến ông Việt khoác bộ đồ đỏ, đội mũ cùng nhiều con người hiên ngang đi đến Văn miếu Quốc Tử Giám (nơi linh thiêng của Đất nước) để thắp hương bố cáo “có một tiến sĩ luật loại giỏi đây”. Không dừng lại, có thêm cá nhân khác là ông Hoàng Chí Bảo đích thân đến nơi ở của ông Việt để nói chuyện và đẩy câu chuyện kiểu ông Việt như là một thánh nhân, nhân tài Đất Việt trước hàng ngàn con người bên dưới đang nghe say đắm, vỗ tay liên tục.   Tất cả sự kiện liệt kê trên đây đều được đội ngũ chuyên nghiệp quay video và đăng công khai lên Website tuyên truyền rộng rãi. Đây rõ ràng là việc làm có chủ đích.   Chính vì vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đã tạo ra cho hàng vạn con người u mê, tin tưởng ông Việt là bậc thiên tài, tiến sĩ luật học xuất sắc và ông Việt cũng từng ra sách kêu gọi mua ủng hộ.   Ông Việt sử dụng bằng không hợp pháp là hành vi cố ý “gian dối”, không thể chối cãi.   Nên câu hỏi ĐẶC BIỆT LỚN đặt ra là “có hay không ông Việt sử dụng bằng không hợp pháp (gian dối) và vì những thông tin, sự kiện trên đây có khiến cho con người tin tưởng từ đó ủng hộ tiền bạc, vật chất không?”. Trong những thông tin này rõ ràng ông Việt cố ý sử dụng thủ đoạn gian dối - bằng cấp không hợp pháp và giả thiết (giả sử) nếu tiền, vật chất được chuyển từ thông tin gian dối này thì có hay không hành vi “chiếm đoạt tài sản”? Tôi đứng ở góc độ trung dung khách quan để viết bài này và hoàn toàn dựa trên góc độ phân tích pháp lý của một luật sư ít nhiều đã giải quyết các vụ án hình sự để cơ quan chức năng xem xét làm rõ và xử lý triệt để đến nơi đến chốn. Tôi tin rằng, những gì tôi viết, chia sẻ cũng giống hàng ngàn con người có trí tâm khác chỉ với mục đích duy nhất, đó là:   “Lòng khát khao cho một xã hội tốt đẹp, văn minh và tiến bộ!”   Và tôi cũng tin những nhà lãnh đạo, cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật và người dân ai cũng có mong muốn như tôi. Đúng không?   P/S: Hành vi sử dụng bằng “không hợp pháp” cần xử lý nghiêm minh, triệt để và tận gốc. Điều này sẽ tạo tiền đề và đưa nền giáo dục Đất nước đến chỗ “VĂN MINH và TỬ TẾ” của nhân loại!   Sài Gòn, 23/10/2024
......

Chế độ gì mà sao lắm thế lực thù địch?

Nguyễn Thông Thời sự 20.10   Tối hôm qua (20.10), tôi vừa ăm cơm vừa coi tivi, mà lại tivi mậu dịch (chắc nghiện khó cai). Tôi nghe người đứng đầu bộ máy cầm quyền xứ này đọc diễn văn, liên tục nhắc đi nhắc lại cụm từ "đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch". Cứ tưởng cuộc sống hòa bình, yên ổn làm ăn, sống để yêu thương, ai dè không như mình nghĩ. Nhưng thôi, ma nhát hoặc nhát ma là chuyện của người ta, tôi chỉ lăn tăn về từ ngữ họ dùng. Cần hiểu rằng từ ngữ trong văn bản hoặc lời nói phản ánh suy nghĩ, ý thức, tình cảm, thái độ của người sử dụng. Chỉ những người không hiểu diều này mới dùng từ một cách ba vạ. Trước hết là từ "thù địch". Trong cuộc sống, dù cá nhân hay đoàn thể, tổ chức, đơn vị, thậm chí một nước, một phe... đều có thế lực thù địch, kẻ thù địch, chống đối mình. Lẽ đương nhiên phải chống lại, đấu tranh, phản bác nó. Một chế độ như chế độ xã hội chủ nghĩa lắm thế lực thù địch nhất, vừa có thật, vừa do tưởng tượng ra. Đường vinh quang xây xác quân thù. Nói theo kiểu của Lê Nin, không có thế lực thù địch thì không phải chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản. Không khi nào hết thế lực thù địch, bởi vậy không cần bàn về từ/chữ này. Đấu tranh, phản bác thì đương nhiên rồi. Từ tiếp theo, "sai trái", rất có vấn đề. Chả hiểu sao họ cứ thích dùng. Có nhẽ do bản chất của họ. Xưa các cụ dạy "nhân vô thập toàn", nghĩa là con người không ai có thể mười thứ toàn vẹn cả mười. Ngay tôi đây, nếu mười điều, chắc chỉ được một rưỡi ở sự chăm chỉ. Thích cào chẳng hạn, biết không hay, nhưng rằng quen mất nết đi rồi. Ai cũng có mặt này mặt kia, có sai có đúng, hay dở, tốt xấu cùng tồn tại, vấn đề là nhiều hay ít từng mặt. Con người cũng như bất kỳ tổ chức, thực thể nào do nó lập ra đều thế, không thể "thập toàn". Mặt trời còn có vết đen, mặt trăng còn những khoảng tối nữa là. Vấn đề ở chỗ, sai thì sửa, biết lắng nghe, tiếp thụ, điều chỉnh để mình hoàn thiện hơn, tốt hơn, hay đẹp hơn. Không có cái thói nghe ai góp ý, vạch ra cái sai thì giãy nảy lên, đòi chống, đòi phản bác, gọi người ta là thế lực thù địch. Chỉ những ai tự nhận mình luôn đúng, không hề sai, đồng thời "mục hạ vô nhân" cho rằng những người khác mình là sai thì mới sinh ra cái thói "đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái". Xin lỗi, không biết lắng nghe những "trung ngôn nghịch nhĩ" để răn mình, sửa mình, để gột mình sạch hơn, tốt hơn, chỉ thấy đó là sai trái, sẽ không bao giờ tạo dựng được cuộc sống tốt đẹp, con người lương thiện, hòa đồng hướng tới tương lai. Kênh kiệu, ngạo nghễ, tự đắc, tự sướng, coi khinh người khác, xem mình là toàn vẹn, không biết lắng nghe, không cầu thị chân thành, coi mình là thánh, là đỉnh cao, bất khả xâm phạm - đó là căn bệnh ung thư của bộ máy cầm quyền xứ này. Hãy nhớ rằng, thứ mà mình cho là sai lại chính là điều đúng, chuyện ấy xảy ra ở xứ này nhiều rồi, không cần kể nữa. Đấng bậc như Khổng tử vẫn cần học từ đứa trẻ chăn trâu, nên mới thành thánh, chứ đâu có ngạo nghễ quy kết người khác là sai trái. Thông cào  
......

Tại sao phải tuyệt thực?

Trịnh Nhung Chính bản thân tôi cũng đặt ra câu hỏi này khi nghe tin chồng tôi tuyệt thực để đòi mở cửa chuồng cọp. Đối với tôi, sức khỏe của chồng là điều quý giá nhất, chỉ cần thấy chồng sụt cân, hoặc đau khớp… là tim tôi lại đau nhói. Tôi đã không vui khi biết chồng lấy sức khỏe ra để đánh đổi. Nhưng khi nghe chồng tả về “chuồng cọp”, một cụm từ được cán bộ xem là nhạy cảm mỗi khi vợ chồng tôi nhắc đến. Nhẹ thì bị nhắc nhở, nặng thì bị dập máy điện thoại. Họ nói rằng không có chuồng cọp nào ở đây. Ừ thì cũng đúng, ở nhà chồng tôi hiền như con mèo, có phải cọp đâu mà được nhốt vào “chuồng cọp”. Tôi nghe chồng tả nơi giam giữ mà tôi rùng mình, nước mắt chỉ chực trào ra. Làm gì có “chuồng cọp” ở đây, đó chỉ là căn phòng kín với những lớp cửa, những hàng rào lưới sắt, với mái che kín bưng mà những tia nắng cũng ngại đi qua. Tôi không dám tưởng tượng làm sao con người có thể sống ở đây. Cái cây cũng cần có nắng mới có thể phát triển, chẳng nhẽ khi vào đây, giá trị con người không bằng cọng cỏ ngoài kia. Sống trong môi trường thiếu ánh nắng mặt trời, không có không gian để đi lại, tập thể dục, cũng dễ hiểu vì sao bệnh đau khớp của chồng ngày càng trở nặng. Không chỉ ảnh hưởng đến xương khớp, thiếu vitamin D còn gây ra bệnh trầm cảm, suy nhược cơ, đau nhức răng, làm suy yếu hệ miễn dịch… và vô vàn căn bệnh khác. Chồng tôi không thể nào tiếp tục nằm đó và chờ đợi cho sức khỏe ngày càng suy kiệt. Tất nhiên, người làm sai luật giam giữ, không phải là chồng tôi. Nhưng có cách nào để chồng tôi phản đối sự ngược đãi ấy? Bao nhiêu lần kiến nghị lên lãnh đạo mà có thay đổi được gì? Và tuyệt thực là cách cuối cùng để chồng tôi phản đối sự ngược đãi từ phía Trại 6, Nghệ An. Sau hơn 20 ngày tuyệt thực, chồng tôi có lẽ không thể tự bước đi nổi. Đổi lại, quản giáo Nguyễn Ngọc Thuận nói rằng sẽ mở cửa chuồng cọp “tùy vào thái độ”. “Tùy vào thái độ” có nghĩa là gì, là phải “ngoan ngoãn” chờ ai đó ban phát ân huệ cho mình sao. Chồng tôi phải ngoan như thế nào, phải ngoan trong bao lâu để cầu mong họ làm đúng luật, mong họ đối xử nhân đạo. Chẳng phải nguyên nhân khiến giáo dục thối nát, môi trường ô nhiễm, tài nguyên suy kiệt… như hiện tại cũng vì một phần thế hệ đi trước đã rất “ngoan” hay sao? Tôi thật sự thấy mình nhỏ bé, tôi bất lực trước tình cảnh của chồng. Có thể lần tuyệt thực này của chồng tôi sẽ thất bại, “chuồng cọp” kia vẫn sẽ bị đóng kín, nhưng tôi và cả chồng đều sẽ không hối hận. Vì ít ra trong hoàn cảnh khốn khổ nhất, anh ấy đã không đánh mất bản thân. Tôi luôn khắc sâu câu nói mà chồng dặn dò tôi gần đây nhất: “Em phải tôn trọng sự thật. Chúng ta đều là những con người yếu thế, nhưng công lý, sự thật, và lẽ phải sẽ trở thành vũ khí của chúng ta“. P/s: Bên dưới là ảnh phác họa “chuồng người”. Buồng giam anh Thuận đang ở là buồng số 4. Buồng này được ưu ái hơn các buồng khác vì được bật chế độ chống nắng.  
......

Hội chứng kinh niên quan hệ Việt – Trung: Đồng sàng dị mộng

Hoàng Trường Tuy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng, nhưng thiếu hụt lòng tin là một yếu tố quyết định cản trở sự phát triển của quan hệ song phương. “Đồng sàng dị mộng” vẫn là “hội chứng kinh niên” trong bang giao Việt – Trung. Manila và Hà Nội, cách nào hay hơn? Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), các tuyên bố về căng thẳng ở Biển Đông tại Hội nghị ấy ở Lào (8—11/10), cũng như chuyến thăm Hà Nội của Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường (12—14/10) là bối cảnh của bức tranh vân cẩu Trung – Việt. Điều khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam và Philippines tại các cuộc họp vừa nêu là thái độ và cách hành xử giữa Manila và Hà Nội. Philippines dẫn đầu trong việc chỉ trích các hành động bất hợp pháp và nguy hiểm của Bắc Kinh tại Biển Đông, kêu gọi các nước cần có kết luận ngay lập tức về Bộ quy tắc ứng xử (COC) để giải quyết các xung đột trên biển trong khu vực (1). Tổng thống Marcos, người đã chủ động nêu vấn đề Biển Đông trong hầu hết các phiên thảo luận, cho biết "hơn một nửa" các thành viên của khối đã đề nghị giúp đỡ Philippines trong bối cảnh các hành động leo thang của Trung Quốc (2). Trong khi Thủ tướng Phạm Minh Chính vẫn lặp lại “bài ca đi cùng năm tháng” , vẫn là “nỗ lực thúc đẩy đối thoại, hợp tác và xây dựng lòng tin…, gia tăng điểm đồng, giảm thiểu bất đồng, tôn trọng khác biệt, hướng đến tương lai…”. Để đối phó với Trung Quốc, cách nào hiệu quả hơn? Quyết liệt của Philippines, hay thận trọng kiểu Việt Nam? Việt Nam tránh đối đầu trực diện với Trung Quốc tại diễn đàn này. Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính kỳ vọng EAS phát huy hơn nữa vai trò và giá trị là diễn đàn hàng đầu đối thoại về các vấn đề chiến lược ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và phát triển tại khu vực… (3). Chính sách quyết liệt nói trên của Philippines được Tiến sĩ Ian Storey, học giả của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute) tại Singapore, đánh giá từ cả hai mục tiêu: tạo sự ủng hộ quốc tế đối với việc bảo vệ quyền chủ quyền của mình và khiến người dân Philippines nhận thức được sự hung hăng của Bắc Kinh trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Manila. Theo Tiến sĩ Storey, dù chính sách này cả ở hiện tại lẫn tương lai đều không ngăn được Bắc Kinh sử dụng chiến thuật vùng xám (hành động gây căng thẳng nhưng dưới mức chiến tranh), nhưng mục đích của Philippines là tập hợp dư luận trong nước và quốc tế ủng hộ Manila như chàng David trong cuộc chiến với gã khổng lồ Goliath (4). Phía bờ này Biển Đông, Việt Nam cũng đã từng “gọi sự vật đúng tên” người hàng xóm võ biền, chẳng hạn như khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi năm 2014. Vào thời điểm đó, một làn sóng phẫn nộ đã bùng nổ trong dư luận Việt Nam dẫn đến các cuộc biểu tình thậm chí mất kiểm soát, khiến nhiều nhà máy bị đập phá. Kết quả là chính quyền Việt Nam đã vào cuộc vào thời điểm ấy và mời báo chí quốc tế, đến thực địa để đưa tin về sự kiện. Tuy nhiên, điều đáng nói là, kể từ năm 2020 đến nay, Việt Nam chọn cách tiếp cận ngược lại, theo ý kiến của nhà phân tích Derek Grossman thuộc Viện nghiên cứu Rand của Mỹ trên Nikkei Asia tháng 7/2024. TS. Grossman cho rằng Hà Nội đã đạt thỏa thuận ngầm với Bắc Kinh là không công khai hóa các xung đột và giải quyết các bất đồng và căng thẳng giữa hai nước hoàn toàn trong hậu trường, với hy vọng tránh các bước leo thang mới của Bắc Kinh (5). Đây thực chất là một thỏa hiệp nguy hiểm, đồng ý “trùm chăn lại để cho Trung Quốc đánh mà không được kêu”, theo như quan niệm của bình dân. Philippines có lập trường cứng rắn một phần, nhờ chủ trương liên minh với Mỹ kể từ khi Marcos Jr. làm Tổng thống. Nhưng phần quan trọng hơn là bản lĩnh và chính sách không khoan nhượng với Trung Quốc của cá nhân Marcos Jr. Sự xoay trục này là có lợi cho Việt Nam, nhưng Hà Nội đã không cùng cách tiếp cận với Manila. Việt Nam không dám “rầm rộ phản ứng” theo cách của Philippines. Đây là nhận định của Giáo Sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye tại Hawai (Mỹ) dành cho RFI hồi đầu năm nay (6). Theo GS. Vuving, từ hàng chục năm nay, ASEAN và Trung Quốc đã thương thảo Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) nhưng đã không đạt được thỏa thuận nào đáng kể. Lý do: Trung Quốc tham vọng quá nhiều và gần như vi phạm mọi nguyên tắc cơ bản của Luật Biển Quốc tế, trong khi một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines muốn rằng, COC phải đi đúng tinh thần của Luật Quốc tế, nhất là phải tuân thủ UNCLOS-1982. “Nỏ thần” cố ý trao tay “đối tượng”? Trung Quốc rõ ràng vừa là đối tượng vừa là đối tác của Việt Nam. Với Tuyên bố chung 14/10/2024 tại Hà Nội (7), Bắc Kinh tiếp tục biến Việt Nam thành quân bài trên “Con đường tơ lụa mới” – một thí nghiệm bị đánh giá là thất bại lịch sử của cá nhân Tổng bí thư Tập Cận Bình. Mặc dầu vẫn còn ý kiến khác nhau trên thượng tầng lãnh đạo, nhưng Việt Nam dường như vẫn “tình nguyện” để Trung Quốc xây dựng đường sắt Bắc – Nam nhằm kết nối sáng kiến “Hai hành lang, Một vành đai” của mình với “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) của Trung Quốc. Theo lời của Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này “sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu – Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á" (8). Tuyên bố chung 14/10 nói trên vẫn tiếp tục “trói” con tàu Việt Nam vào hai “trụ cầu” là “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” và “Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Tuyên bố ấy còn buộc phải “thề non hẹn biển”: “Không quên nguyện ước hữu nghị ban đầu, khắc ghi sứ mệnh chung, kiên định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên định con đường XHCN…, kiên trì nắm bắt quan hệ Việt – Trung từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn dài hạn”. Nghe quá mũi mẫn! Nhưng theo đánh giá của giới chuyên gia, nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng”! (9) Không phải ngẫu nhiên, chỉ một ngày sau Tuyên bố chung 14/10, Hội đồng thẩm định Nhà nước Việt Nam đã đề nghị Bộ Giao thông Vận tải (MOT) làm rõ mức đầu tư hơn 67 tỷ USD đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, nhằm tính đúng, phù hợp. Theo đề xuất của MOT, dự án này có tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng (tương đương 67,34 tỷ USD), tuyến đường đôi, khổ 1.435 mm. Ngày 15/10, Hội đồng thẩm định Nhà nước đã đề nghị MOT rà soát tổng mức đầu tư, quy mô đầu tư từng hạng mục trên cơ sở tính đúng, đủ và phù hợp tại bước lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Việc này phải phân tích dựa trên khung tiêu chuẩn áp dụng thực tiễn của các dự án tương đồng trên thế giới và phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam. Bộ Giao thông Vận tải cũng cần rà soát lại đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội, tài chính của dự án. Cơ quan này làm rõ phương án huy động, khả năng cân đối vốn cho dự án. Việc này phải bảo đảm khả thi, đúng quy định (10). Sáng kiến “Hai hành lang, Một vành đai”, được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang thứ nhất là “Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng” và hành lang thứ hai là “Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng”, còn một vành đai là “Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ”. Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của TBT, CTN Tô Lâm (11). Bức tranh chung được đánh dấu bởi tham vọng phát triển đường sắt của Việt Nam, muốn tận dụng nguồn vốn dồi dào bên phía Trung Quốc, nhưng mấy ai chịu khó nhìn sang Lào… Chỉ vì hám lợi nối đường sắt từ thủ đô Vientiane với thành phố Côn Minh, hơn 7 triệu dân Lào hiện mang nợ Trung Quốc 6 tỷ đô la Mỹ. Gần một chục năm sau ngày Bắc Kinh khởi động đại dự án BRI, nhiều tiếng nói không ngần ngại cho rằng Trung Quốc đã làm giàu trên xương máu của những nước nghèo (12). Dù cùng hệ tư tưởng chính trị, Việt Nam và Trung Quốc vẫn luôn bị ám ảnh bởi sự ngờ vực và mâu thuẫn trong các tương tác song phương. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Trung – Việt vào năm 1991, trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, quan hệ Việt – Trung được giới bình luận quốc tế “gọi là sự bất đối xứng trưởng thành”. Điều này đã ảnh hưởng đến các cân nhắc chiến lược trong chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc (13). Chiến lược hợp tác của Việt Nam với Trung Quốc bao gồm “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Nói cách khác, không giống như “các điều kiện bất đối xứng trưởng thành”, khi cả hai nước đều cố gắng duy trì quan hệ hòa bình. Trong trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, sự chủ động luôn thuộc về ban lãnh đạo Bắc Kinh. Mặc dù mối quan hệ thường cho là được thúc đẩy bởi sự đồng cảm về hệ tư tưởng và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng, nhưng “thiếu vắng lòng tin” là một yếu tố quyết định cản trở sự phát triển của quan hệ giữa hai nước. “Đồng sàng dị mộng” vẫn luôn là “hội chứng kinh niên” trong bang giao Việt – Trung (14). Tham khảo: (1 và 2) https://manilastandard.net/news/314508980/marcos-reaffirms-philippines-commitment-to-asean-us-cooperation.html (3) https://baochinhphu.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-du-hoi-nghi-cap-cao-dong-a-102241011181951218.htm (4) https://medium.com/@Dr_nabil_ebraheim/david-and-goliath-the-victory-of-faith-over-fear-d7ea7acfb6ad (5) https://asia.nikkei.com/Opinion/Philippines-and-Vietnam-s-South-China-Sea-strategies-have-failed (6) https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-vi%E1%BB%87t-nam/20240226-2-cach-tiep-can-viet-nam-philippines-ve-bien-dong-voi-trung-quoc (7) https://baochinhphu.vn/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-102241014172145671.htm (8) https://vietnamnet.vn/en/chinese-ambassador-highlights-vn-s-role-as-key-connector-in-global-rail-network-2298668.html (9) https://www.facebook.com/t.viet.lam (10) https://vnexpress.net/de-nghi-lam-ro-muc-dau-tu-hon-67-ty-usd-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-4804562.html (11) https://dangcongsan.vn/thoi-su/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-675584.html (12) https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-kinh-t%E1%BA%BF/20220830-l%C3%A0o-mi%E1%BA%BFn-%C4%91i%E1%BB%87n-m%E1%BB%93i-ngon-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BB%A7-n%E1%BB%A3-trung-qu%E1%BB%91c (13) https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/09700161.2024.2311477 (14) https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/24761028.2021.1932018?scroll=top&needAccess=true#abstract  
......

Người & Rác

Tưởng Năng Tiến Trong Chuyện Kể Năm 2000 – tập II – của Bùi Ngọc Tấn, tôi “nhặt” được câu danh ngôn đắt giá như sau: “Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa.” Tôi hỏi tác giả: – TBT nào đã phát biểu một câu để đời như thế? Ông cười nụ: – Ông TBT nào mà chả nói y như thế. Ah! Thì ra thế. Tuy thế, mọi người đều biết rằng mấy ổng nói vậy thôi chớ hổng phải vậy đâu. Bởi vậy nên những phụ nữ đẩy xe bò hay xe rác lềnh khênh, khắp mọi nẻo đường, từ hơn hai phần ba thế kỷ qua mà chả thấy có đồng chí nào xúc động (hay xúc cảm) gì ráo trọi. Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam chỉ mang lại một thay đổi duy nhất cho giới người này là họ được đổi tên từ “phu quét đường” thành “công nhân vệ sinh đường phố” thôi. Làm phu quét rác thì vô tư nhưng khi đã trở thành công nhân (lực lượng tiên tiến và tiên phong của Đảng) lại được Mặt Trận Tổ Quốc giao thêm rất nhiều trọng trách: “là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.” Vừa thôi chớ! Họ vừa phải đẩy xe rác làm vệ sinh đường phố, lại vừa kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa nên (lắm lúc) không tránh được tai nạn giao thông thảm khốc – theo tin loan của trang Tin Tức Việt Nam: “Trên địa bàn Hà Nội, một chiếc ô tô Hyundai từ phố Vĩnh Hồ đi về đường Láng, hướng Cầu Giấy đã đâm liên hoàn nhiều phương tiện khiến chị Lê Thị Thu Hà (42 tuổi, Đặng Văn Ngữ, Hà Nội) đang là công nhân quét rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội – Chi nhánh Đống Đa tử vong… Hoàn cảnh của chị Lê Thị Thu Hà rất đáng thương. Ly thân chồng, chị phải một mình nuôi hai con còn đang ăn học và mẹ già bị bệnh nặng. Gia đình bốn người sống trong căn nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói dột nát, tường nhà toàn bộ bong tróc, nứt toác. Khi còn sống, chị Hà mong ước có thể sửa sang lại căn nhà cho mẹ và các con nhưng lại ngặt nỗi chẳng có tiền. Tiền lương từ nghề vệ sinh môi trường không đủ để lo cho các con ăn học nên chị phải làm cả việc khác để kiếm thêm tiền. Hàng ngày, chị đi quét rác đến 2-3h sáng mới về. Chợp mắt được vài tiếng, chị gắng dậy, chạy xe ôm Grab… Sự việc của chị Lê Thị Thu Hà như một hồi chuông cảnh báo xã hội cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường. Để cho cuộc sống chúng ta sạch đẹp, họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khi ngày ngày ra giữa đường phố quét rác. Chị Hà không phải người lao công đầu tiên gặp tai nạn giao thông. Đã có rất nhiều trường hợp tương tự xảy ra khi các công nhân môi trường ra đường lao động để mang lại mỹ quan đô thị cho người dân. Đấy là chưa kể đến những mối tiềm tàng bệnh tật do hàng ngày đối mặt với rác thải độc hại.” Úy Trời/Đất/Quỉ/Thần ơi! Cái xã hội này có ai dòm ngó gì đến đám phu quét đường bao giờ đâu mà nói “cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường,” cha nội? Ngoài việc “đối mặt với rác thải độc hại” – hằng ngày – họ còn phải gánh chịu biết bao là nỗi tủi nhục và đắng cay khác nữa. Ký giả  Đào Thanh Tuy tường thuật: “Có lần tận mắt chứng kiến một chiếc ô tô đẹp đi trong ngõ, ngang qua xe phu rác đang đẩy. Xe chậm lại, từ trong xe, một ả hạ kính rồi lẳng ngay chiếc bỉm vàng khè vào xe rác. Bởi xe không dừng hẳn nên cú ném ấy không trúng đích mà trúng đầu phun rác. Uất ức, phu rác chửi. Xe dừng, thằng chồng phi xuống vớ ngay cái xô rác ở gần đó vụt tới tấp vào đầu phu rác. Phu rác chỉ biết thụp xuống ôm mặt khóc.” Không bao lâu sau, báo Pháp Luật loan tin: “Một đoạn video xuất hiện trên mạng xã hội, được cho là quay tại Quảng Trị. Theo đó, khi chủ một shop quần áo vứt rác ra đường thì bị một công nhân vệ sinh nhắc nhở, sau đó chủ shop trên đã lao vào hành hung và mắng chửi người công nhân vệ sinh.” Chả hiểu khi bị “hành hung và mắng chửi” hay bị ném “chiếc bỉm vàng khè vào đầu” (giữa phố đông người) đám phụ nữ đẩy xe rác có ai nghĩ đến lời khuyên của ông cựu Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân không: “Những lúc khó, cực, lúc không hài lòng với công việc, hãy nghĩ tới Bác.” Bác chính là vị Tổng Bí Thư đầu tiên của ĐCSVN và là tác giả Hồ Chí Minh Toàn Tập. Trong tác phẩm này (bản in lần thứ ba, do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tái bản năm 2011) nơi trang 12 có câu: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.” Cố TBT Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng cập nhật “tình hình” (không mấy lạc quan) như sau: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa nữa” Chuyện giải phóng phụ nữ ở VN, như thế, đành phải đợi đến… cuối thế kỷ sau vậy!
......

Bác Hồ khước từ Nguyễn Ái Quốc?

Lê Bá Vận   Phải chăng Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc là yếu tố bất lợi, làm hoen ố thanh danh và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, danh nhân thế giới, anh hùng dân tộc! (https://dangcongsan.vn › chu-tich-h...). ----- 1) Các văn kiện chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) mô tả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) là một chuỗi dài sự kiện có tầm vóc lịch sử liên kết liên tục: Bác là con cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sinh năm 1890 tại Nghệ An, Bác được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn đi học có thêm tên là Nguyễn Tất Thành. Năm 21 tuổi Thành trốn ra khỏi nước, tìm đường cứu quốc và sống ở Anh quốc cho đến năm 1917. Thế chiến I sắp kết thúc thì sang Pháp do cụ Phan Châu Trinh khuyến dụ. Cụ Phan Châu Trinh đỗ Phó bảng năm 1901 là bạn đồng khoa với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngày 4/9/1919 tại Pháp, Bác đổi tên mới là Nguyễn Ái Quốc (NAQ). Năm 1923 NAQ bí mật sang Nga, trở thành cán bộ Cộng sản Quốc tế phương Đông, công tác tại Cục phương Nam. Cuối cùng từ tháng 6/1942 Bác chọn tên HCM và giữ mãi cho đến năm 1969 Bác qua đời.   2) Con đường Bác chọn bỏ nước ra đi cứu quốc là như sau: Tại Sài Gòn Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin được một chân phụ bếp trên chiếc tàu buôn Pháp “Đô đốc Latouche-Tréville” ngày 5/6/1911 rời Bến Nhà Rồng, suôn sẻ cập cảng Marseille, Pháp ngày 6/7. Những bước đầu tiên trên đất Pháp tất bỡ ngỡ song cụ Sắc thân sinh và Bác đã lên sẵn kế hoạch chu đáo, bất ngờ: Từ Marseille, để kịp ngày khai giảng niên học Bác - ký tên là Nguyễn Tất Thành, sinh viên sinh tại Vinh năm 1892, cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học nội trú vào Trường Thuộc địa (École Coloniale) - chuyên đào tạo các viên chức hành chánh cho chính quyền các thuộc địa - với hy vọng "giúp ích cho Pháp". Thư yêu cầu của ông bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế. Đường công danh hoạn lộ trắc trở, thật đáng tiếc ngoài dự liệu song hai cha con Bác vẫn còn kế hoạch tiếp.   3) Để nuôi thân Bác tiếp tục xin làm phụ bếp trên tàu buôn Pháp ghé nhiều cảng ở châu Âu, châu Phi cuối cùng đến New York, Mỹ năm 1912 đúng vào cuối năm có nhiều ngày lễ nghỉ lớn. Tại New York Bác dùng tên Pháp ‘Paul Tất Thành’ gửi thư về Khâm sứ Trung kỳ, Huế nhờ chuyển các số tiền Bác dành dụm cho cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc, đồng thời xin cho cha được làm việc lại, trong các chức vụ cũ. Đúng vậy cụ Sắc năm 1907 là tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, đã xử tra tấn đến chết một nghi can về nộp thuế. Gia đình nạn nhân kiện ra Huế. Vụ kiện kéo dài. Năm 1910 Triều đình Huê giáng Tri huyện Nguyễn Sinh Sắc xuống 4 cấp và sa thải. Cụ Sắc vào Nam, sắp đặt cho con là Thành ra đi, kỳ vọng tương lai tốt đẹp. Thế rồi cụ lang bạt ở các tỉnh, sống nhờ hành nghề bốc thuốc, viết liễn đối, đợi tiền con gởi về. Phải chăng cụ Nguyễn Sinh Sắc là tổ sư của quốc sách hiện tại “Xuất khẩu lao động” của ĐCSVN? Và 100 năm trước Bác Hồ là người (duy nhất lúc đó?) đầu tiên lao động làm ra tiền gởi về nước! Học tập Bác lớp trẻ nam nữ ngày nay hùa nhau đổ xô ra đi cứu nước theo cách Bác, gởi tiền về nhà!   4) Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu buôn trở về châu Âu, đến định cư ở London, Anh quốc như đã nói trên và kiếm được việc làm lâu dài cào tuyết, hầu bàn, phụ bếp tại khách sạn Carlton. Có vài nhận xét: Nguyễn Tất Thành chỉ ở Mỹ trong vài tuần lễ thay vì trong 1, 2 năm như CS khoe. Thành là đứa con chí hiếu, rất chịu khó vất vả. Từ lúc rời nước năm 1911 đến những năm sống trên tàu buôn rồi chọn ở lại Anh quốc, vắng người Việt đồng hương, Thành yên tâm lao động.   Lúc Nguyễn Tất Thành ra đi, theo lời Cộng sản (CS) nói là với quyết tâm cứu nước đúng hay sai chưa minh bạch, CS thêu dệt thông tin giả, bịa đặt (fake news) quá nhiều. Điều thấy rõ ngay trước mắt là Thành trong nhiều năm không lui tới cộng đồng người Việt, không ngừng làm lụng vất vả, có tiền gởi về cho cha già đang ngóng đợi. Chưa kể Thành xin học trường thuộc địa của Pháp.   Mãi đến năm 1917 Thành sang Pháp, sống với các cụ Phan Châu Trinh (1872-1926), Phan Văn Trường (1876-1933) luật sư tại Pháp là những vị cách mạng lão thành, chịu ảnh hưởng. Ở Pháp làm chính trị là quyền hợp pháp nên không ai phải lo lắng bị cảnh sát quấy nhiễu.   Thành dần dà nhập cuộc vào đời sống chính trị, càng hăng say và còn thiếu chín chắn nên đã sớm rơi vào cạm bẫy của chủ nghĩa Mác-Lê độc đoán, hoang tưởng, nói bậy. Quả thế, khác Việt Nam chịu rủi ro không cần thiết, hàng chục nước thuộc địa cũ đã thu hồi độc lập, lãnh thổ toàn vẹn ít tốn công sức, tránh nhờ Cộng sản giải phóng (kiểu HCM) gây thảm họa chiến tranh trường kỳ, trong nước giết nhau sinh linh chết như ngóe nhiều triệu. CS kẻ thắng trả thù man rợ. Một chế độ độc tài được áp đặt, tham nhũng vĩ mô gây tài nguyên đất nước kiệt quệ, đạo đức phong hóa suy đồi, nhân tâm chia rẽ.      5) Năm 1916 các cụ Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập ra Hội/Nhóm những người An Nam yêu nước. ‘Người An Nam’ là Nguyễn, ‘yêu nước’ là Ái Quốc, là một thuộc tính. Ai mà không yêu nước, dù ít, vd. CS? Họ Nguyễn là đặc thù của người dân Việt. Hội này không khai báo để được công nhận song sinh hoạt không gặp trở ngại vì ở Pháp người dân có quyền tự do lập hội, phát biểu.   Các cụ Phan và Nguyễn Thế Truyền, cử nhân luật lại soạn ra bằng tiếng Pháp “Bản Yêu sách của người An Nam” nổi tiếng gồm 8 điểm ký tên chung Nguyễn Ái Quốc, địa chỉ 56, rue Monsieur le Prince-Paris, chủ yếu đòi hỏi tổng ân xá tù chính trị, các quyền tự do dân chủ và tự quyết căn bản. Ngày 18/6/1919 Nguyễn Tất Thành thư ký? (đang còn là tên Thành), lãnh nhiệm vụ mang Yêu sách công khai gửi lên Hội nghị Hòa bình Versailles. (Wikipedia).   Qua ngày 4/9/1919 là 2 tháng rưỡi sau Nguyễn Tất Thành tự mình đến sở Cảnh sát xin làm thẻ căn cước, tấu xảo lạ kỳ khai tên là Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894, địa chỉ 6, Villa des Gobelins, Paris 13e là nhà luật sư Phan Văn Tường (Google - Thẻ căn cước Nguyễn Ái Quốc). Tên Quốc ở Việt Nam thì nhiều, kèm các tên đệm ngỏ ý một ước vọng song chẳng một ai tự cao tự đại giành đặt tên mình là Ái Quốc, dù ‘yêu nước’ thực sự.   Nực cười nếu yêu nước là phải yêu dân thì đâu đến nỗi CCRĐ hàng vạn đông bào bị giết, chôn sống dã man! Đó lại là tên của một chức sắc Quốc tế Cộng sản vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc (Tam vô).   Lấy tên gì là quyền cá nhân song hiển nhiên đây là hành vi kẻ bất chính mạo nhận là tác giả “Bản Yêu sách 8 điểm” dùng làm bàn đạp chính trị và được ĐCSVN nhiệt liệt tán đồng, “đánh lận con đen”, bảo là thật, tọa đàm khoa học, tô son trát phấn. Và kể từ tháng 9/1919 người thanh niên yêu nước NAQ trẻ tuổi mưu cao, danh tiếng nổi bật trong chính giới, thay thế ‘Tất Thành’ là một tên rất hay, rất có ý nghĩa, song lận đận, vô danh tiểu tốt.                 6) Ngày 9/8/1932 nhiều tờ báo các đảng Cộng sản Liên Sô, Anh, Pháp… đều loan tin NAQ người lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã từ trần do bệnh lao phổi tại bệnh xá nhà tù ở Hong Kong, đăng lời phân ưu và tiểu sử cách mạng của người quá cố. Điều này thực hư chưa tường song sau đó NAQ đúng là đã bặt tin trong nhiều năm. Do tin NAQ đã chết vì lao phổi năm 1932 có xác suất cao nên HCM và NAQ ắt phải là 2 người khác nhau, HCM là người giả dạng! Quả vậy họ khác nhau về nhiều mặt như NAQ rất có hiếu, nặng tình gia đình, chuộng ăn mặc chỉnh tề, bảnh bao, tốn kém.    Đài truyền hình VTV4 của Đảng Nhà nước Việt Nam vào tháng 5/2023 đã phát hành một YouTube dài 11 phút 19 giây với tựa đề “Nguyễn Ái Quốc - ẩn số từ nước Pháp (phần 1) | VTV4”. YouTube mở đầu với câu: “Cao 1m62, thân hình gầy, trán cao, 28 tuổi, quốc tịch An Nam Trung Kỳ. Tổng thống nước Cộng hòa yêu cầu tiến hành điều tra bí mật về thanh niên Đông Dương này… Anh ấy sở hữu giấy tờ nào và đã được cấp bởi các nhà chức trách hành chính Đông Dương tới Châu Âu băng phương thức nào... Người thanh niên này đã trà trộn vào hệ thống chính trị của chúng ta trở thành thành viên các hội nhóm và có tiếng nói quan trọng trong nhiều cuộc họp… Nguyễn Ái Quốc là ai?”   YouTube này giải bí mật, xác định NAQ có chiều cao 1m62, cao hơn chiều cao trung bình thanh niên Việt Nam thời đầu thế kỷ 20 là 1m60, nữ1m50. Bác Hồ là người khá cao, gầy thon thả lúc ở độ tuổi 50, cao hơn NAQ trên 10cm, không thể nhầm lẫn giữa 2 người rất khác biệt (xem 3 hình minh họa).   7) Lời kết. Sự khác biệt này giúp Chủ tịch HCM giã từ dòng họ cụ Sinh Sắc sản sinh cha, tri huyện bị sa thải nhục nhã và con, tha phương lỡ vận nhưng khi cơ hội đến là tay thủ đoạn “lù khù vác cái lu (bản Yêu sách 8 điểm) mà chạy“, tham ô của chung. Chỉ đáng tiếc nay gốc gác mơ hồ, nằm an vị trong Lăng, ít nhiều Chủ tịch HCM cũng chịu nghi vấn về lai lịch ví dụ quốc tịch bất minh, con người tâm cơ bí ẩn.   Lê Bá Vận  
......

Yêu cầu chấm dứt hình thức đàn áp xuyên quốc gia

Người tị nạn được UNHCR công nhận Y Quynh Bdap sẽ phải đối mặt với sự tra tấn và án tù 10 năm nếu ông bị dẫn độ về Việt Nam. Nhiều quốc gia, thông qua sứ quán của họ ở Bangkok, tổ chức nhân quyền và cá nhân trong đó gồm có Dân biểu Hoa Kỳ Michelle Steel kêu gọi Thái Lan cho phép ông Bdap được tái định cư ở nước thứ ba, trong khi nhà nước cộng sản Việt Nam đã cử các quan chức đến gây áp lực buộc Thái Lan phải trả ông về cho họ. "Đây là một hình thức đàn áp xuyên quốc gia", Sunai Phasuk, nhà nghiên cứu cấp cao về Thái Lan tại Ban Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch cho biết. Đây là "một sự hợp tác vi phạm pháp luật", ông Phasuk nói. Trả lời phỏng vấn trang báo điện tử Thời báo tại Đức hôm thứ Tư (9/10), Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch tổ chức BPSOS cho biết ông Bdap "có được 30 ngày để làm kháng cáo" sau khi tòa án quyết định rằng chính phủ Thái Lan "đã theo đúng thủ tục và sau đó chuyển lại quyền quyết định cho Thủ tướng Thái Lan". Trong cùng ngày, Thái Lan đã thành công trong nỗ lực giành được một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, nhiệm kỳ 3 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2025. Thế giới đang nghiêm túc xem Thái Lan sẽ giải quyết thế nào. Liệu chính phủ mới của Thủ tướng Paetongtarn Shinawatra có hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ người tị nạn và nhân quyền? Người Đà Lạt Xưa October 13, 2024  
......

Tôi đã về nhà

Nguyễn Thúy Hạnh   Bạn bè thân yêu của tôi! Tôi đã về nhà trong vòng tay thân ái của bè bạn, người thân. Thật cảm động không lời nào tả xiết. Thời gian qua, những lúc tăm tối nhất ở trại giam hoặc trong bệnh viện khi đối mặt với căn bệnh tinh thần quái ác, tôi lại nghĩ đến anh chị em, bè bạn, cô bác ở ngoài đang dành hết tình cảm cho tôi, tin tưởng tôi. Và thế là tôi đã đứng dậy bước tiếp. Tình cảm quý giá ấy tôi nguyện mãi để trong tim, coi đó như động lực để tôi tiếp tục sống, và sống có ý nghĩa. Qua những dòng ngắn ngủi này, bằng tất cả sự chân thành từ trọn vẹn con tim, tôi xin đa tạ tất cả anh chị em, bạn bè đã dành tình cảm, động viên an ủi tôi, đồng hành cùng tôi và gia đình trong chặng đường mấy năm tù đày, bệnh tật vừa qua. Những dòng chữ sơ sài, đơn điệu này không thể truyền tải hết tình cảm thiết tha và sự biết ơn chan chứa trong tâm hồn tôi lúc này cũng như suốt mấy mùa đông qua. “Một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”. Có đi tù mới hiểu hết ý nghĩa câu nói ấy. Tôi đã về nhà, nhưng còn hàng trăm anh chị em, bạn bè của chúng ta vẫn đang mòn mỏi trong nhà tù. Mong mọi người tiếp tục đồng hành và giúp đỡ các tù nhân lương tâm cùng gia đình của họ để vượt qua chặng đường khắc nghiệt chông gai. Xin đừng bỏ rơi họ, đừng bỏ rơi một người nào. Cả nhà yêu quý! Căn bệnh ung thư của tôi vẫn chưa chữa chạy được dứt điểm, và tù đày khiến căn bệnh trầm cảm của tôi càng trầm trọng thêm. Ngay từ ngày mai tôi phải đến viện K Tân Triều tiếp tục chữa bệnh, và chạy đi chạy lại giữa hai bệnh viện, K và Tâm thần Hà Nội cách xa nhau. Nên tôi chưa thể gặp gỡ bạn bè để hàn huyên, cúi mong mọi người thông cảm. Một lần nữa tôi xin cám ơn các bạn bè yêu quý. Xin được ôm thật chặt, thật chặt từng người bạn thân yêu của tôi!  
......

Đối thoại và cái còng số 8

Trần Mai Trung Cách đây vài năm, đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng cho Vương Đình Huệ và Võ Văn Thưởng đứng hai bên cái ghế Tổng bí thư. Trọng dự tính sẽ cho Huệ ngồi lên cái ghế đó, mấy năm sau sẽ đến phiên Thưởng. Đó là tính toán riêng của Trọng chứ ông ta không thèm biết nhân dân có đồng ý hay không. Lúc đó, Tô Lâm chỉ được đứng nhìn cái ghế từ xa. Sử dụng quyền kiểm soát toàn diện xã hội của Bộ công an, của cái còng số 8, Tô Lâm làm cho Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc cuối đầu từ chức, Chủ tịch Võ Văn Thưởng cuối đầu từ chức, trùm Quốc hội Vương Đình Huệ cuối đầu từ chức để khỏi bị cùm vào cái còng số 8. Tô Lâm đánh bại các phe nhóm trong đảng cộng sản Việt Nam và giành chức Tổng tịch. Tô Lâm cũng vô hiệu hóa Bộ chính trị bằng cái Ban lãnh đạo chủ chốt mới thành lập, Lâm ngang nhiên qua mặt các điều lệ của đảng để đưa đàn em lên làm Bộ trưởng công an, vào Bộ chính trị, Ban bí thư. Sau giai đoạn đấm đá tưng bừng, tuyên giáo công an tô vẽ Tô Lâm một hình ảnh hiền lành, vay mượn một chút tính nghệ thuật bên gia đình vợ 2. Trong buổi nói chuyện ngày 23/9/2024 tại Đại học Columbia ở New York, Mỹ Quốc, trả lời câu hỏi về cách giải quyết bất đồng giữa hai bên, Lâm nói hãy lắng nghe nhau, nuôi dưỡng văn hóa đối thoại. Câu trả lời được cho điểm A+ vì chọn đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa chứ không dùng bạo lực. Cuộc đời Tô Lâm gắn liền với nghề công an, từ lúc mới ra trường đến giữa năm 2024. Trong thời gian đó Lâm đã thấy nhiều bất đồng giữa đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam. Lâm đã ngồi xuống lắng nghe ý kiến người dân được mấy lần? Lâm đã đối thoại với người dân nào để tránh dùng bạo lực? Năm 2012, đảng cộng sản muốn lấy ruộng đất của nông dân ở Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, để làm dự án thương mại. Nhiều nông dân không đồng ý giao đất với giá đền bù quá thấp. Lúc đó, Tô Lâm là Thứ trưởng bộ công an. Tháng 4/2012, Bộ công an huy động hàng ngàn công an, cảnh sát đến cưỡng chế đất bằng bạo lực. Các hình ảnh ghi lại cho thấy công an đã đánh đập dã man nhiều nông dân trên mảnh đất của họ. Không thấy đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Năm 1980, chính phủ ra quyết định lấy đất của xã Đồng Tâm, ngoại ô Hà Nội, cho quân đội xây sân bay quân sự. Sau một thời gian, sân bay không được xây dựng, Ủy ban xã Đồng Tâm đã làm thủ tục hợp pháp hóa các giao dịch đất đai của người dân địa phương. Mấy chục năm sau, đảng cộng sản muốn lấy số đất đó cho tập đoàn Viettel làm dự án nhưng người dân không đồng ý. Tháng 1/2020, Bộ trưởng công an Tô Lâm ra lệnh cho 3.000 công an, cảnh sát tấn công vào xã Đồng Tâm, Lâm ỷ có súng đạn nên đã giải quyết bất đồng với người dân bằng võ lực. Súng đạn nổ vang trời, cụ Lê Đình Kình hơn 80 tuổi bị công an giết chết trong nhà của cụ, 3 công an cũng bị chết gần đó. Không thấy đối thoại để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Ở mọi quốc gia, nhiều người có những suy nghĩ khác nhau trong cách xây dựng đất nước, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Nhiều người Việt Nam muốn xây dựng đất nước giống như đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay, không thích con đường xã hội chủ nghĩa của một vài quốc gia có chế độ cộng sản. Họ phân tích cái hay, cái dở và trình bày một cách ôn hòa để người dân đánh giá. Theo như phát biểu của Tô Lâm tại Đại học Columbia thì đảng cộng sản nên đối thoại với những người có suy nghĩ khác biệt để giải quyết bất đồng một cách ôn hòa. Thực tế lại khác hẳn. Phải công nhận người cộng sản có can đảm nói hươu nói vượn những điều tốt đẹp mà họ sẽ không làm. Hình như họ xem thường danh dự cá nhân, đó cũng là một lý do kéo đạo đức xã hội đi xuống, không biết xấu hổ khi tham nhũng. Tô Lâm làm Bộ trưởng công an năm 2016. Trong năm đó, Lâm cho công an đến gặp người bất đồng chính kiến Lưu Văn Vịnh, không phải để ngồi lắng nghe nhau và đối thoại, mà đến với cái còng số 8 và bắt ông Vịnh vào tù, sau đó kết tội 15 năm tù. Sang năm 2017, Lâm cho công an đến gặp ông Hoàng Đức Bình, ông Trương Minh Đức, không phải để ngồi lắng nghe nhau và đối thoại, mà đến với cái còng số 8 và bắt ông Bình, ông Đức vào tù, sau đó kết tội ông Bình 14 năm tù, ông Đức 12 năm tù. Trong thời gian làm Bộ trưởng công an, Tô Lâm đã bắt vào tù 300 người Việt Nam yêu nước và muốn tự do tôn giáo. Có những người được công luận biết đến như ông Phạm Chí Dũng, bà Cấn Thị Thêu, cô Phạm Đoan Trang. Có nhiều người ít được biết đến như ông Vương Văn Thả bị kết tội 12 năm tù, ông Y Pum Bya bị kết tội 14 năm tù, ông Đặng Ngọc Tấn bị kết tội 24 năm tù. 300 gia đình đang sống sum vầy thì Tô Lâm đến gây cảnh phân ly, vợ xa chồng, con cái xa cha mẹ. Sau mấy chục năm độc quyền cai trị đất nước, đảng cộng sản khoe khoang có một xã hội ổn định nhưng vẫn duy trì đội quân công an, mật vụ lên đến 1 triệu người, bắt nhân dân đóng nhiều thuế, nhiều phí để nuôi đội quân đó. Thay vì giảm xuống một nửa để bớt gánh nặng cho nhân dân thì Tô Lâm vẽ ra hình ảnh công an bận rộn, đi lùng bắt những người không còn hoạt động và bày tỏ ý kiến chính trị mấy năm qua. Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, thêm một số người bị bắt vào tù như ông Nguyễn Lân Thắng, ông Phan Tất Thành, thêm một số gia đình bị phân ly. Công an không liên quan gì tới biến đổi khí hậu nhưng Tô Lâm cũng đi theo phái đoàn tham dự COP26 tại Anh Quốc vào tháng 11-2021 để ghé thăm cô con gái đang du học ở đó. Sau khi viếng mộ Karl Marx, ông tổ cộng sản người nước Đức đã chết ở nước Anh, người hô hào tranh đấu cho giai cấp vô sản, Tô Lâm đi ăn tại một nhà hàng đắt tiền của giới tư sản nhà giàu mà mỗi phần ăn lên đến hàng ngàn mỹ kim. Một video đã quay cảnh đầu bếp Thánh rắc muối Salt Bae biểu diển rắc muối lên miếng thịt bò dát vàng và đút cho Tô Lâm ăn. K-pop nổi tiếng thế giới, nhiều bạn trẻ đã bắt chước ca hát, nhún nhãy theo K-pop, không ai bị bắt vào tù. Ông Bùi Tuấn Lâm ở Đà Nẵng bắt chước Salt Bae khi rắc hành vào tô bún bò thì bị công an tìm đến và bắt vào tù. Một người nào đó đặt ra cái biệt hiệu Thánh rắc hành, nếu Tô Lâm căm giận thì đi tìm bắt người đặt ra cái tên đó. Ông Tuấn Lâm không nói gì khi rắc hành vào tô bún, không thể bắt ông Tuấn Lâm chịu trách nhiệm về các bình luận của những người khác. Có người nói Tô Lâm cho bắt ông Bùi Tuấn Lâm vào tù vì tư thù nhỏ nhen. Có người nói không phải. Tô Lâm có thể dễ dàng chứng minh mình vô can trong việc này, ông ta đã "cưỡng bách ân xá" ông Trần Huỳnh Duy Thức thì cũng có quyền "cưỡng bách ân xá" ông Bùi Tuấn Lâm về sum họp với gia đình. Nhìn hình ảnh của chế độ công an trị, nhìn tính cách của Tô Lâm và những việc ông ta đã làm trong thời gian qua thì thấy tương lai đất nước dưới sự lãnh đạo của Tổng tịch Tô Lâm không được sáng sủa, tương lai của các đảng viên cộng sản cũng không sáng sủa. Trần Mai Trung Tháng 10-2024  
......

Về những tác động của con kinh Phù Nam lên Đồng bằng Sông Cửu Long, nếu nó hoàn tất và được đưa vào hoạt động

Trương Nhân Tuấn Dự án kinh đào Phù Nam của Campuchia gây lo ngại cho nhiều người Việt Nam. Có ba điểm cần bàn: Thứ nhứt, dự án con kinh, nói theo lời thủ tướng Hun Manet, ngoài mục tiêu vận chuyển hàng hóa, còn có các “kế hoạch phát triển đô thị, quy hoạch đô thị và thị trường bất động sản. Đồng thời mở rộng các khu phát triển nông nghiệp, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi và hỗ trợ phát triển cực kinh tế thứ tư“. Việc “mở rộng các khu phát triển nông nghiệp” này diện tích là bao nhiêu? Phía Campuchia không thông báo cho Việt Nam và cũng không công bố trước dư luận quốc tế. Ước tính diện tích đất sẽ được con kinh này tiêu tưới sẽ không dưới diện tích ĐBSCL, khoảng 40 đến 50 ngàn cây số vuông. Như vậy lưu lượng nước lấy từ sông Mekong dành cho việc tiêu tưới này có thể sẽ làm khô cạn dòng chảy sông Mekong. Đây là con số Việt Nam cần muốn biết, đúng theo tinh thần Hiệp định 1995 về Hợp tác và phát triển bền vững sông Mekong. Vấn đề là đến nay Campuchia không đưa ra. Phía Campuchia bào chữa việc giấu giếm thông tin bằng cách ngụy biện. Họ so sánh việc đào kinh Phù Nam với việc cải tạo con kinh Chợ Gạo ở Việt Nam. Con kinh Chợ Gạo được Pháp đào từ năm 1872. Con kinh có chiều dài tổng cộng 80 cây số, nối sông Vàm Cỏ với sông Tiền Giang. Con kinh nguyên thủy có bề rộng 30 mét và bề sâu 3 mét 50. Việt Nam mới đây cải tạo kinh Chợ Gạo mà thực chất là be bờ con kinh này. Con kinh vẫn giữ nguyên trạng như thời 1872, tức giữ nguyên bề rộng và bề sâu. Con kinh này không làm thay đổi bất cứ hình thức nào đối với sông Mekong. Tức là Việt Nam không có nghĩa vụ, vì thấy không cần thiết, phải trình vụ này lên Ủy hội sông Mekong. Trong khi con kinh Phù Nam là con kinh mới, mà sự hiện hữu của nó có thể làm giảm thiểu lưu lượng nước, hệ quả gây thiệt hại cho dân Việt Nam khu vực ĐBSCL. Thứ hai, thủ tướng Hun Manet cho rằng “Dự án phát triển kênh đào Funan Techo chỉ là vấn đề đối nội và chủ quyền của Campuchia, trong đó Campuchia có thể thực hiện bất kỳ dự án phát triển nào trong Vương quốc“. Thủ tướng Hun Manet không thể kết luận như vậy vì sông Mekong là sông quốc tế, liên quan đến nhiều quốc gia. Các quốc gia Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam đã ký kết hiệp ước về sông Mekong năm 1995 với mục đích quản lý con sông này hữu hiệu sao cho quốc gia không bên nào bị thiệt hại trong việc sử dụng nguồn nước. Campuchia không có trọn vẹn chủ quyền trên đoạn sông Mekong chảy qua lãnh thổ Campuchia. Mọi công trình xây dựng của phía Campuchia trên sông Mekong tuân thủ theo tinh thần Hiệp định 1995. Campuchia có nghĩa vụ phải chia sẻ tin tức, dữ kiện chính xác của con kinh cho Việt Nam. Mặt khác, chủ đầu tư dự án kinh đào Phù Nam là công ty của Trung Quốc. Campuchia lựa chọn mô hình BOT, tức là phía đầu tư thực hiện công trình, sau đó khai thác công trình này trong vòng một thời gian thỏa thuận trước, ở đây là 50 năm (hoặc 70 năm). Điều này đồng nghĩa với việc Campuchia mất chủ quyền trên con kinh. Chỉ sau thời gian khai thác 50 năm (hay 70 năm) Campuchia mới thực sự làm chủ con kinh. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn phản đối dự án này thì phải hành động trước khi con kinh hoàn tất. Bởi vì sau khi hoàn tất, Việt Nam sẽ phái đối mặt với (nhà đầu tư) Trung Quốc. Nếu Việt Nam im lặng về việc này thì ta có thể hình dung nhà đầu tư Trung Quốc có quyền khai thác con kinh, về mặt vận chuyển tàu bè và về mặt dẫn thủy nhập điền trong thời gian 50 đến 70 năm. Thứ ba, về hệ quả đối với Việt Nam khi con kinh hoàn tất. Viễn tượng một mặt ĐBSCL bị thiên tai hạn hán, nước biển dâng cao, hạn mặn sâu trong đất liền do hệ quả trái đất bị hâm nóng. Mặt khác lưu lượng của sông Mekong bị xuống thấp, do kinh đào Phù Nam hút nước, Miền Nam Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng vừa khô hạn, vừa nhiễm mặn, vừa thiếu nước ngọt. Có khoảng từ 10 triệu tới 15 triệu người dân khu vực này phải di cư sang các vùng đất khác để tìm cách sinh sống. Đây là một thảm họa về nhân số, khiến xã hội Việt Nam bị đảo lộn. Thứ tư, là sự hiện diện của quân cảng Ream cách đảo Phú Quốc của Việt Nam không xa; đồng thời với dự án kinh đào Phù Nam vốn là một bộ phận của sáng kiến “Vành đai Con đường” của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc không chỉ hiện diện ở vịnh Thái Lan, mà còn kiểm soát vịnh này. Mục đích của Trung Quốc là khai thông kinh đào Kra trên lãnh thổ Thái Lan. Nếu dự án Kra không được thực hiện thì có dự án quốc lộ 9A, nối hải cảng Song Khla trong vịnh Thái Lan với cảng Krabi ở Ấn Độ dương. Dĩ nhiên, nếu các dự án này hoàn tất thì không chỉ xã hội Việt Nam đảo lộn do nạn di dân vì ĐBSCL không thể sinh sống nữa, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn bị khủng hoảng vì vựa lúa, vựa trái cây từ ĐBSCL đã bị tiêu hủy. Sự hiện diện của Trung Quốc ở vịnh Thái Lan sẽ khiến an ninh quốc gia của Việt Nam bị đe dọa nặng nề. Vì vậy, nếu Việt Nam có phản đối thì phản đối bây giờ. Nhiệm vụ này thuộc về chính phủ. Chính phủ Việt Nam phải khẩn cấp nói chuyện tay đôi với Campuchia. Nếu chính phủ Việt Nam “câu giờ”, chờ đến khi con kinh hoàn tất, lúc đó Việt Nam sẽ lâm vào thế khó. Khó là vì Việt Nam sẽ phải “nói chuyện” với chủ đầu tư – khai thác Trung Quốc. Bài trích đoạn Nguồn Báo Tiếng Dân  
......

Tội mấy ông chủ tịch!

Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh Vàng sa xuống giếng, khôn tìm Người sa lời nói, như chim sổ lồng (Ca dao) Nguyên thủ quốc gia, ở xứ nào cũng vậy, từ hành động cho tới lời ăn tiếng nói đều được truyền thông, dân chúng chú ý đặc biệt. Riêng Việt Nam thời nay, sự chú ý đó dường như lại có những nét đặc biệt … không giống ai. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết (2009) Trong chuyến thăm nước Cuba cộng sản anh em, phát biểu trước báo chí, ông nói: “Có người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía … đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ. Việt Nam gác thì Cuba nghỉ.” (1) Trong một cuộc nói chuyện với hội nghị Việt kiều, ông cho biết trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc của mình, ông có hoan nghênh Tổng Thống Mỹ, Barack Obama, tuyên bố sẽ đóng cửa nhà tù Guantanamo, nhưng cũng cho là “khó lắm”, và nói như vậy, theo ông, “là mình vừa động viên ông Obama, nhưng mình vừa phân hóa cái nội bộ” chính quyền đó. (2) Nếu những ai hiểu ông, có lẽ sẽ cười vui, thể tất cho ông, coi đó như là những lời lẽ mộc mạc kiểu “Hai Lúa”, mà “quên” đi mình đang là nguyên thủ. Thế nhưng, dư luận người Việt trong ngoài nước nhiều năm nay thì có những đánh giá trái chiều. Thương ông Chủ tịch. Chủ tịch Trần Đại Quang (2018) Trong cuộc tiếp xúc cử tri ngày 19/6/2018, ông có phát biểu, và được báo Tuổi trẻ tường thuật, trong đó có đoạn: “Tiếp xúc cử tri với vai trò đại biểu Quốc hội TPHCM, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nói ông đồng tình với kiến nghị của cử tri cần có Luật biểu tình và hứa báo cáo Quốc hội về nội dung này”. Thế nhưng, ngót một tháng sau, bất ngờ tờ báo này bị Bộ Thông Tin – Truyền Thông phạt 50 triệu đồng, buộc xin lỗi, cải chính nội dung trên. Vì theo cơ quan này, Chủ tịch nước Quang không có phát biểu như vậy. (3) Ai ít biết và quan tâm tới cách làm việc của làng báo và vấn đề dự luật Biểu tình, ắt hẳn chẳng thắc mắc lắm. Còn ngược lại, những ai biết chút về sự nghiêm ngặt trong cách làm báo, nhất là liên quan tới các VIP, và vấn đề “nhạy cảm” của luật Biểu tình, thì không khỏi nghi ngại, ví như bảo: “Làm sao một tờ báo lớn nổi tiếng mà dám liều lĩnh, nhét chữ vào miệng ông Chủ tịch nước thế nhỉ, mà lại những chữ quá quan trọng như vậy? Tưởng là quyền lực lắm, thế mà nói năng cũng bị …” Khổ cho ông (cố) Chủ tịch. Chủ tịch Tô Lâm (2024) Trong chuyến làm việc tới Mỹ vừa qua, trên cương vị Tổng bí thư – Chủ tịch nước, ông có bài phát biểu tại sự kiện kỷ niệm một năm nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, hướng tới kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ ở New York, trong đó (được cho là) có đoạn: “Trong Cách mạng Tháng 8, những người bạn Mỹ là lực lượng nước ngoài duy nhất bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được mời tham dự Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 và chứng kiến Hồ Chủ tịch trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ. Hôm đó, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trên khán đài nổi bật khẩu hiệu ‘Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”. Thế nhưng, trên báo nhà nước hiện tại không có đoạn trên (4), còn trong bản lưu trên Internet thì vẫn có (5) (6). Lại tha hồ bình luận, đồn đoán thực hư. Người “bênh” thì chắc sẽ bảo: “Ôi dào! Đối ngoại thì phải nói thế thôi, chứ không cần thiết phải để người dân trong nước biết mấy câu đó, không có lợi”. Nhưng ngược lại, biết đâu cũng có người cho là “Lại trống đánh xuôi, kèn thổi ngược rồi. ‘Nhất thể hóa’ đến như thế, tưởng là quyền lực ‘vô đối’, thế mà cũng vẫn bị …”. Khó cho ông (tân) Chủ tịch, nhiều lẽ. Ghi chú: com/watch?v=cAqyjhrwVeo&ab_channel=ch%E1%BB%91ngt%E1%BA%A9yn%C3%A3o com/watch?v=5wj0BBvTbF4&t=6s&ab_channel=PhungMai https://baochinhphu.vn/bao-tuoi-tre-online-bi-dinh-ban-3-thang-phat-220-trieu-dong-102241772.htm https://tuoitre.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-mot-nam-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-my-20240923103303079.htm https://web.archive.org/web/20240924014140/https://tuoitre.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-nhan-mot-nam-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-my-20240923103303079.htm https://www.facebook.com/BBCnewsVietnamese/photos/nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-b%E1%BA%A1n-m%E1%BB%B9-kh%C3%B4ng-c%C3%B2nh%C3%B4m-239-tu%E1%BB%95i-tr%E1%BA%BB-online-%C4%91%C4%83ng-nguy%C3%AAn-v%C4%83n-b%C3%A0i-ph%C3%A1t-bi%E1%BB%83/933309642168647/
......

TBT, CTN Tô Lâm giữa hai chuyến công tác dài ngày

Đinh Hoàng Thắng Chuỗi hoạt động quốc tế của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước [TBT - CTN] Tô Lâm từ 30/9—7/10 bao gồm chuyến thăm cấp Nhà nước đến Mông Cổ, Ireland và Pháp, đồng thời tham dự Hội nghị cấp cao Francophonie lần thứ 19. Nội hàm “kỷ nguyên mới” là gì? Đợt công tác kéo dài của ông Tô Lâm diễn ra ngay khi hiệu ứng tích cực từ chuyến thăm Mỹ và Liên Hợp Quốc [21–27/9] vẫn đang được cảm nhận. Tần suất hoạt động ngoại giao quốc tế liên tiếp và dày đặc này không chỉ thể hiện một nỗ lực quan trọng trong chủ trương đối ngoại của Việt Nam, mà còn làm nổi bật vai trò của ông Tô Lâm trong bối cảnh chuyển giao quyền lực trên thượng tầng. Các chuyến thăm cấp nhà nước này không chỉ nhằm củng cố các mối quan hệ chiến lược quan trọng với những đối tác then chốt, mà còn phản ánh định hướng sâu xa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nâng cao vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Qua những động thái này, dường như lãnh đạo Việt Nam muốn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng quốc tế và nhân dân trong nước rằng Việt Nam đang sẵn sàng bước vào một "kỷ nguyên mới". Đấy là thời kỳ mà đất nước không chỉ tích cực tham gia các vấn đề toàn cầu, mà vẫn duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong nội bộ, tiếp tục gắn kết các mục tiêu quốc tế với chiến lược phát triển trong nước. Trước mỗi chuyến công du quốc tế, ông Tô Lâm thường có những động thái nội trị nhằm tạo dấu ấn. Trước khi sang Mỹ, ông đã cho công bố bài viết "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới". Bài viết nhanh chóng nhận được sự quan tâm từ các cán bộ, đảng viên trong nước, theo TTXVN [1], coi đây là định hướng quan trọng cho giai đoạn chuyển mình của Đảng. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, bài viết này lại chưa tạo được ảnh hưởng lớn. Các nhà quan sát chính trị trong và ngoài nước đã có những phản ứng trái chiều. Theo buổi hội luận trên VOA ngày 18/9/2024 [2], một số ý kiến cho rằng bài viết còn thiếu những điểm đột phá trong tư duy lãnh đạo và không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý từ quốc tế. Trước chuyến thăm đến khu vực Á – Âu, vào ngày 29/9, ông Tô Lâm, với vai trò Tổng Bí thư, Chủ tịch nước kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, đã có chuyến làm việc với Tổng cục II [Tổng cục Tình báo]. Ông đã ghi nhận những thành tựu quan trọng của lực lượng tình báo quốc phòng, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của việc nâng cao năng lực hoạt động tình báo trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp [3]. Trong bối cảnh chuyển giao quyền lực trên thượng tầng, ông Tô Lâm đã khéo léo tận dụng các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, Thượng đỉnh Tương lai, và Hội nghị cấp cao Pháp ngữ để khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, đồng thời đối mặt với những thách thức nội bộ. Các chuyến thăm này không chỉ nhằm củng cố vị thế của ông trên trường quốc tế, mà còn thể hiện năng lực điều hành và kiểm soát tình hình trong nước, đặc biệt khi cuộc đấu tranh quyền lực trong Đảng vẫn tiếp diễn. Trên phương diện đối ngoại, ông Tô Lâm đã khéo léo giữ được sự cân bằng quan hệ chiến lược với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, trong khi vẫn duy trì được mối quan hệ truyền thống với các quốc gia như Trung Quốc. Những động thái này vừa khẳng định dấu ấn cá nhân của ông, vừa phản ánh sự chuyển dịch chính trị sâu sắc bên trong Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chuỗi hoạt động ngoại giao dày đặc và sự xuất hiện liên tục của ông trên trường quốc tế, từ Tây bán cầu đến Á – Âu, đã thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế và tạo nên một dấu ấn quan trọng cho thời kỳ chuyển giao quyền lực này [4]. Tuy nhiên, nỗ lực của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong việc định hình nội hàm “kỷ nguyên mới” dường như vẫn chưa đạt được thành công rõ ràng. Dù có một bộ phận dư luận hy vọng rằng các bài phát biểu của ông, cả trong nước và tại các diễn đàn quốc tế, có thể hé mở khả năng dân chủ hóa đất nước, nhưng kết quả thực tế lại chưa thể hiện rõ điều này. Trước đó, ông Tô Lâm từng khẳng định tại Đại học Columbia [Mỹ]: "Con đường phát triển của Việt Nam không thể tách rời xu thế chung của thế giới và nền văn minh nhân loại" [5], làm dấy lên kỳ vọng về những thay đổi tiến bộ. Tuy vậy, một số chuyên gia đã đưa ra cảnh báo rằng các cải cách nửa vời hoặc những thay đổi ngôn từ có thể khiến dư luận tạm thời yên lòng mà không thực sự giải quyết các vấn đề cấu trúc sâu sắc. Một bình luận trên VOA ngày 24/9 đã nhấn mạnh: Những thay đổi chỉ mang tính bề mặt có thể tạo ra ảo giác về sự tiến bộ, nhưng nếu người dân nhận ra sự thật này và mất niềm tin, hệ quả có thể rất nghiêm trọng [6]. Điều này gợi mở rằng, những nỗ lực của ông Tô Lâm, dù có những động thái tích cực, vẫn có thể không đạt được kỳ vọng của cả trong nước lẫn quốc tế. Lựa chọn cải cách hay bảo thủ? Chuyến công tác đến Mỹ, Pháp, và Ireland của TBT, CTN Tô Lâm là điều dễ hiểu, nhưng tại sao ông lại chọn thêm Cuba và Mông Cổ? Nếu đây chỉ là sự ngẫu nhiên, bởi vì hai nước này nằm trên lộ trình công tác, thì sự ngẫu nhiên ấy lại mang tính tất yếu. Việc nghiên cứu trên thực địa các mô hình khác nhau có thể mang lại cho ông Tô Lâm những góc nhìn đa chiều về sự thành công và thất bại trong quản trị quốc gia. Đặc biệt, sau khi cung cấp 10.000 tấn gạo cho Cuba, liệu ông có dám khuyến khích "người bạn vàng" này tiến hành đổi mới kinh tế sớm để người dân được hưởng lợi? Như Facebooker Nguyên Tống từng đề cập, nếu Cuba thực hiện cải cách, hàng ngàn công ty và văn phòng từ châu Âu, châu Á, và Mỹ có thể sẽ đến đây đầu tư, tạo ra việc làm và cải thiện đời sống người dân, giống như Dubai. Tuy nhiên, đáng tiếc là Cuba vẫn giữ vai trò "tiền đồn" mà không thực sự tận dụng điều kiện tự nhiên và địa chính trị để phát triển. Họ tiếp tục chìm trong đói nghèo và mơ về một thiên đường không thực sự tồn tại [7]. Thăm Mông Cổ, nếu ông Tô Lâm chịu khó lắng nghe bài học chuyển đổi dân chủ trên đất nước thảo nguyên bất tận, thì quả là một đại phúc cho dân tộc Việt Nam [8]. Trong cuộc tiếp kiến ngày 30/9, ông Tô Lâm chắc hẳn biết rằng Tổng thống Khürelsükh, người vừa hội đàm với mình, là một thành viên của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) – Đảng Cộng sản của Mông Cổ trước đây. Điều đáng chú ý là MPRP đã chủ động tiến hành cải cách dân chủ và trở thành Đảng Nhân dân Mông Cổ (MPP), phù hợp với một Mông Cổ đã dân chủ hóa. Kể từ năm 1990, MPP đã giữ quyền lực trong hơn một nửa thời gian, và đây là nhiệm kỳ thứ ba liên tiếp mà Đảng này cầm quyền. Đáng ra, ông Tô Lâm nên chúc mừng Cuộc cách mạng Dân chủ của Mông Cổ, một cuộc cách mạng diễn ra mà không cần đổ máu. Liệu các bạn Mông Cổ có kể cho ông nghe về những khẩu hiệu đấu tranh từ những năm 90 như: “Thời cơ đã đến, hãy tỉnh dậy đi”, “Nhân dân… hãy leo lên lưng ngựa”, “Sự thật sẽ không được biết đến nếu nó bị che giấu”? Kết quả của sự thay đổi đó là ngày nay, Mông Cổ đang nổi lên như một trong những quốc gia tự do nhất châu Á [9]. Cho đến nay, giới quan sát vẫn chưa thể xác định chắc chắn liệu TBT, CTN Tô Lâm là nhà cải cách hay vẫn là một thành trì bảo thủ? Chuyến thăm Cuba và Mông Cổ của ông có thể không chỉ dừng lại ở các hoạt động ngoại giao thông thường, mà còn là những phép thử chính trị nhằm tham khảo các mô hình phát triển và phương thức quản trị quốc gia. Mông Cổ, với sự thành công trong quá trình chuyển đổi dân chủ, và Cuba, nơi còn bị kìm hãm bởi ý thức hệ giáo điều, đều mang đến những bài học quý báu về lãnh đạo và cải cách. Hơn nữa, sự tự tin khi ông Tô Lâm thực hiện các chuyến công du dài ngày mà không lo ngại về việc mất quyền lực trong nước cho thấy vị thế lãnh đạo của ông hiện khá vững chắc. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể khẳng định được sự ổn định của chính trường Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp, vì thời kỳ quá độ này vẫn tiềm ẩn nhiều thách thức nội bộ. Tham khảo: [1] https://baotintuc.vn/thoi-su/doi-moi-phuong-thuc-lanh-dao-cua-dang-yeu-cau-tu-cap-chi-bo-den-trung-uong-20240919190700942.htm [2] https://www.voatiengviet.com/a/7787781.html?withmediaplayer=1 [3] https://laodong.vn/thoi-su/xay-dung-luc-luong-tinh-bao-quoc-phong-tuyet-doi-trung-thanh-1400982.ldo [4] https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/to-lam-trip-to-the-us-outcomes-09262024101648.html [5] https://tuoitre.vn/toan-van-phat-bieu-chinh-sach-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-dai-hoc-columbia-202409241044401.htm [6] https://www.voatiengviet.com/a/7796234.html [7] https://baotiengdan.com/2024/09/30/tiec-cho-cuba-lam-tien-don-gac-cong-lam-chi/ [8] https://www.youtube.com/watch?v=HwH-JkLmtNk (Chuyển đổi dân chủ ở Mông Cổ 22-12-2015) [9] https://www.luatkhoa.com/2017/08/anh-mong-co-da-chuyen-doi-dan-chu-khong-mot-tieng-sung-nhu-nao/    
......

Lên thuyền!

Nguyên Ngọc  Cách đây mấy hôm, tôi có đến thăm một chị bạn, gặp cả chị và con trai chị. Chả là vài năm trước đây tôi có dạy cả hai mẹ con học một ít tiếng Pháp. Tôi hỏi thăm cháu năm nay lên lớp mấy rồi, chị bảo: giờ đang nghỉ hè, vào năm học mới cháu sẽ lên lớp tám. Ngừng một chút, rồi chị nói tiếp: “Em cũng đang chuẩn bị ráo riết để cho cháu ‘lên thuyền’ thầy ạ”. Tôi ngạc nhiên: “Lên thuyền?”. Thấy tôi ngơ ngác, chị cười bảo: “Hai chữ này bây giờ người ta nói phổ biến rồi mà thầy. “Lên thuyền” tức là ra nước ngoài học, đi du học ấy mà. Em chuẩn bị cho cháu lên cấp ba thì sang học ở Mỹ. Bây giờ cũng đang có một phong trào “thuyền nhân” chạy khỏi đất nước như hồi mấy mươi năm trước, ngày càng đông đảo. Hồi những năm 70, 80 là thuyền nhân chính trị, di tản chính trị. Bây giờ là thuyền nhân giáo dục, di tản giáo dục. Chạy trốn nền giáo dục này”. Hóa ra tôi quá lạc hậu. Một cuộc di tản mới, sâu sắc chẳng kém gì cuộc trước, mà nào tôi có biết. Hay đúng hơn, tôi không biết nó đã đến mức một phong trào “thuyền nhân” mới. Khẩn thiết chạy trốn khỏi cái nền giáo dục mà cha mẹ họ lo sợ cho con cái họ. Chắc dẫu sao cũng là chỉ những gia đình tương đối khá giả, và tôi nghĩ hẳn cũng chỉ ở thành phố, thậm chí phải là thành phố lớn. Nhưng mấy hôm sau tôi lại gặp một chị bạn khác, vốn quê Thái Bình. Tôi đem kể với chị chuyện “Lên thuyền” tôi mới được nghe. Chị bảo: “Không chỉ ở thành phố đâu anh ơi, em mới về quê lên đây nè. Ngay ở quê Thái Bình, nhiều gia đình chẳng khá giả gì cũng lo chạy vạy hết nước, có khi bán cả nhà, cả ruộng, để cho con ra học nước ngoài ngay từ phổ thông. Những bậc cha mẹ có ít nhiều hiểu biết đều rất lo sợ về nền giáo dục này cho con cái của họ. Người cắn răng ở lại chỉ là người đã cùng đường …”. Vậy đó, Bộ Giáo dục, Nhà nước có biết điều này không? Tôi muốn hỏi. Chưa hề thấy Bộ Giáo dục, là cơ quan chịu trách nhiệm về toàn bộ nền giáo dục và tình hình giáo dục nước nhà, nói gì về chuyện “Lên Thuyền” này cả. Bộ có biết một cuộc di tản giáo dục mới, rỉ rả, âm thầm, nhưng là đại di tản đang diễn ra, từng ngày, quyết liệt, một cuộc phản kháng âm thầm mà dữ dội bằng chân đối với nền giáo dục mà các vị đang áp buộc lên họ, con cái họ? Cũng trên trang Văn Việt, cách đây ít lâu, tôi có đọc được bài viết của anh Đỗ Ngọc Thống trả lời những người muốn hỏi anh vì sao là người làm việc chính trong nền giáo dục này mà anh cũng lại cho các con mình ra học nước ngoài, có phải anh cũng cho con di tản giáo dục không? Anh Thống bảo chẳng lẽ người hỏi điều đó không biết rằng anh cũng phải lo sợ cho con anh về ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và bao nhiêu thứ ô nhiễm văn hóa xã hội nữa ở trong nước bây giờ mà anh hẳn không muốn con anh phải gánh chịu. Tôi đồng ý với anh Thống về các thứ ô nhiễm rành rành anh đã chỉ ra và vì chúng, anh phải quyết cứu con anh ra khỏi. Tuy nhiên tôi có ngạc nhiên thấy anh không hề nói gì về ô nhiễm cũng sờ sờ ra đó của chính nền giáo dục mà anh đang tham gia làm ra, nó nguy hiểm đến mức hầu như bất cứ bậc cha mẹ nào có thể thì cũng đều không muốn cho con họ phải chịu, và quyết làm mọi cách để cho con “lên thuyền” hôm nay. Một cuộc di tản giáo dục rất lớn, sao không ai báo động? có chứ, nhưng chắc cũng chả được gì vì người ta nói ở Trung Quốc lâu nay cũng thế, Trung Quốc sao thì Việt Nam vậy, trước sau chừng chục năm. Thôi thì mạnh ai nấy kiếm tiền, nhiều tiền để lo “lên thuyền”, tìm chỗ tỵ nạn cho con cái của mình. Nguồn: Saigonnho
......

Đảng tặng không gạo cho Cuba khi dân đang cần cứu trợ

Cảnh Chân (VNTB)    Nhà nước Việt Nam có vẻ không thiếu tiền để cứu trợ đồng bào nhưng vẫn thích kêu gọi quyên góp để “kiếm thêm”, làm giàu thêm cho quan chức nhà nước.   Chiều ngày 26/9, vừa đáp xuống Cuba, Tô Lâm đã ra thông báo trao tặng nhân dân Cuba anh em 10.000 tấn gạo. Theo thông báo này thì đây là món quà của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, tức là gạo này từ thuế của người dân Việt Nam mà ra. Cùng với đó, trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tặng thêm cho Trung ương Đảng Cộng sản Cuba 500 máy tính; Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tặng Trung tâm những người lao động Cuba và một số địa phương Việt Nam tặng nhân dân Cuba một số món quà khác. (1) Đây hầu như là những phần quà rút ra từ ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của người dân Việt Nam góp vào, chứ thật ra nhà nước Việt Nam có làm gì ra tiền mà đem cho Cuba. Trong khi đó, Việt Nam vừa bị thiệt hại nặng nề sau bão Yagi (bão số 3 vào miền bắc), và bão số 4 vào miền trung, trước đó miền nam cũng khát khô cổ vì hạn mặn. Cuba khi đó có trợ giúp gì đâu ngoài lời chia buồn và “đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc khắc phục hậu quả của bão”. Ở trong nước, người dân thiếu thốn, đói ăn, phải chia nhau từng gói mì tôm, từng đòn bánh tét thiu. Nhà nước thì chỉ có kêu gọi từ thiện, vận động người dân chuyển tiền cứu trợ cho Mặt trận Tổ quốc. Đi xin từng đồng từng cắc viện trợ của Mỹ, Úc, Nhật về đặng khắc phục hậu quả bão lũ. Ép buộc từng em học sinh phải nhịn ăn sáng để nộp tiền từ thiện cho nhà trường. Vậy thì chúng ta có dư giả gì đâu mà phải học thói làm sang đi tặng gạo cho người dưng? Thậm chí, số tiền quyên góp kia tới tay người dân cần cứu trợ khẩn cấp. Điện, đường, trường, trạm, nhà cửa, tài sản của người dân chưa thể phục hồi, dù chỉ là 10-20%. Thế mà ở nhà lo chưa đâu vào đâu, đảng cộng sản lại đem tiền đi cho một đất nước cách chúng ta nửa vòng trái đất! Tính ra, giá gạo Việt Nam hiện nay khoảng 650 USD/tấn, thì 10 ngàn tấn gạo là khoảng 6,5 triệu USD, tương đương khoảng 162 tỷ đồng. Nếu so ra, mỗi ngôi nhà tái định cư cho người dân bị thiệt hại sau bão chỉ khoảng 200 triệu. Số tiền này có thể xây được hơn 800 căn nhà. Cộng với 500 cái máy tính và những phần quà của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ở trên nữa thì có thể trang bị cho hàng trăm lớp học vùng cao. Trong thời điểm nhân dân khốn khó, đảng đem gạo, đem tài sản đi cho nước khác, thì cho thấy 2 điều. Một là đảng không biết xài tiền, trong nước thì thiếu thốn, mà đem tiền dâng cho ngoại bang để xây dựng hình ảnh. Hai là ngân sách nhà nước Việt Nam không thiếu tiền để cứu trợ đồng bào lũ lụt nhưng vẫn kêu gọi quyên góp để “kiếm thêm”, làm giàu thêm cho quan chức nhà nước. Người Việt Nam có câu “ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng” rất đúng với việc ông Tô Lâm đem tiền của dân nghèo đi cho Cuba. Đem tiền của xương máu của đồng bào đi cho không để đẹp mặt mình; có khác nào con cái đem tiền trong nhà đi cho hàng xóm, cho đám bạn giang hồ chí cốt, mặc cho cha mẹ già ốm đau bệnh tật không lo? Mà thật ra, có đúng là cho dân nghèo Cuba hay không? Hay là đem cho bọn quan chức tham nhũng, độc tài, đồng chí của Việt Nam? Bao nhiêu gạo trong số đó sẽ tới tay người dân Cuba, hay nhà nước cộng sản Cuba sẽ bán lại cho dân để kiếm lời? Việt Nam có thể lập luận rằng đem gạo để làm ngoại giao nhưng đâu phải cứ lần nào tới Cuba là cũng cần tặng gạo? Năm ngoái Vương Đình Huệ đi Cuba cũng đem theo 5.000 tấn gạo. Năm 2021, lúc Việt Nam chìm trong đại dịch Covid, Phạm Minh Chính cũng đem 10 ngàn tấn gạo tặng Cuba. Cứ quan chức Việt Nam nào đi Cuba là tặng 5.000-10.000 tấn gạo. Năm nào cũng vậy rồi có thay đổi được gì? Cho con cá không bằng tặng cần câu. Cuba nằm ngay sát bên Hoa Kỳ, một đại gia hàng đầu thế giới, mà không phát triển bằng Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn giúp Cuba thoát cảnh đói nghèo thì nên nói với họ cách làm ngoại giao với Hoa Kỳ, đừng đối đầu mà hãy đối thoại. Gạo đâu mà năm nào cũng cho, cho một cách tuỳ tiện, không hỏi ý người dân trong nước như vậy? _________________ Tham khảo: https://vietnamnet.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-viet-nam-tang-nhan-dan-cuba-anh-em-10-000-tan-gao-2326471.html  
......

Đường sắt cao tốc hoặc tốc độ cao có giúp cho đất nước cất cánh thần kỳ không?

Kim Văn Chính Nhật Bản gần như đi đầu trong việc shinkansen hóa các tuyến đường chính dọc ngang đất nước. Họ cũng hy vọng shinkansen mang lại cho họ sự thần kỳ cất cánh lần 2 khi kinh tế vào vòng suy thoái. Nhưng chả có sự thần kỳ nào cả. Kinh tế Nhật từ thập niên 1980 đến nay vẫn trì trệ, bế tắc, đời sống nhân dân đi xuống. Các nước hàng đầu châu Âu họ rất khôn trong phát triển đường sắt. Đức, Pháp là điển hình. Họ phát minh ra đủ thứ tàu cao tốc ray thường quy, ray đệm từ…, nhưng chỉ làm như thí nghiệm một tuyến thôi. Hệ chính của họ vẫn đường sắt bình thường nhưng cải tiến tốc độ khá cao đến 200km/h. Hàn Quốc, tôi thấy họ cũng không mặn mà lắm với [đường] sắt cao tốc. Duy nhất có tuyến Seoul – Busan tôi đã đi, thì nó như kiểu lai tàu cao tốc với tàu thường tốc độ cao. Trên tuyến ray đó, tàu vận tải tốc độ thường vẫn chạy ầm ầm. Những nước say mê [đường] sắt cao tốc như Nhật Bản, Trung Quốc thường làm phắt cái một vài chục năm là shinkansen hóa hết các tuyến đường cần thiết của họ. Và các nhà chế tạo ray, tàu trở nên thất nghiệp không còn việc làm nếu họ không bán sản phẩm của họ ra nước ngoài. Nhật Bản gần đây nhiều tuyến shinkansen ế khách chỏng chơ. Khuyến mại hạ giá vé kích cầu các kiểu vẫn ế (ví dụ tuyến Tokyo đi Toyama – Kanazawa và tuyến lên Yokogata). Giá vé các tuyến cạnh tranh shinkansen luôn đắt hơn nhóm máy bay giá rẻ, nhưng rất khó bán. Nó quá đắt đỏ và kém hiệu quả kinh tế. Ví dụ Việt Nam mà mua shinkansen Nhật, phải trả họ cỡ 70 tỷ đô la thì chả ai dám bảo sau vận hành có lãi? (Có 10km đường nội đô tàu chạy tốc độ thường giá một tỷ đô la mà giờ chạy năm nào thì bù lỗ năm đó… dù chưa đến giai đoạn khấu hao sửa chữa nhanh). Nước nào khá như Trung Quốc thì họ sẽ cố tự chế. Nước nghèo như Việt Nam thì chả dại gì tự vướng vào bẫy nợ chỉ vì muốn có một tuyến shinkansen chả mang lại sự cất cánh cho dân tộc đâu. Ai đó hão huyền mơ sáng cafe Hà Nội, trưa ăn Bánh Canh Đà Nẵng, chiều Hủ tiếu Sài Gòn mà tưởng đó là thiên đường. Hãy sang Nhật mà xem! Càng làm shinkansen (đường sắt cao tốc), càng kéo hiệu quả xã hội xuống dốc.  
......

Ông Tổng bí thư đảng CSVN khai tử lịch sử Việt Nam

Đặng Đình Mạnh    Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam   Trong chuyến công du đến Hoa Kỳ để tham dự cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc vào ngày 22 Tháng Chín 2024, ông Tô Lâm được mời đến phát biểu tại trường Đại Học Columbia, về chính sách của ông ấy trong tư cách tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm tân Chủ Tịch nước. Ngay trong những lời đầu tiên của bài diễn văn, ông Tô Lâm nói: “Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”. “Sau gần 80 năm lập nước”! Với lời khẳng định ấy trước quốc tế, tính ngược lại, lịch sử dân tộc với ông Tô Lâm chỉ bắt đầu được tính từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản thực hiện cuộc “Cướp chính quyền” mà thôi. Cũng theo đó, quá trình lập nước và giữ nước của tổ tiên nước Việt Nam từ nhiều nghìn năm trước đó đã bị ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản của ông ấy khai tử, loại bỏ hoàn toàn ra khỏi trang lịch sử dân tộc. Chưa nói đến lịch sử dân tộc dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ, thì những trang sử giữ nước từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, rồi đến thời Lê, thời Lý, thời Trần, thời hậu Lê, thời Tây Sơn với những Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… cùng với những chiến công giữ nước oai hùng của những vị vừa nêu trên … Kể cả 3 lần thắng quân Nguyên Mông hầu như đều không có chỗ trong lịch sử “lập nước” của ông Tô Lâm. Phải chăng “Thiên triều” Trung Cộng đã yêu cầu Cộng sản Việt Nam khai tử lịch sử dân tộc để xóa đi nỗi nhục nhã của họ trong quá khứ khi xâm  lược Việt Nam: Tại sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Hàm Tử quan, Ngọc Hồi, Đống Đa… Từ đâu và khi nào mà ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản bắt đầu mang những mầm mống thoát ly khỏi lịch sử dân tộc để rồi công bố công khai điều ấy trước cộng đồng quốc tế vào chiều ngày 23 Tháng Chín? Chúng ta hẳn còn nhớ, vào thượng tuần Tháng Hai 2020, Nhị Lê, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Tổng Biên tập Tạp Chí Cộng Sản, một lý thuyết gia của Đảng Cộng sản đã từng phát biểu công khai trên truyền thông đại chúng, cho rằng: “Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc”, gây rất nhiều tranh cãi trong dư luận. Khi ấy, lý giải về phát biểu của mình, lý thuyết gia Cộng sản Nhị Lê cho biết: “Trong Tuyên ngôn, Các-Mác và Ăng-Ghen lưu ý: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mang tính quốc tế nhưng giai cấp vô sản mỗi nước phải hoàn thành nghĩa vụ trước hết với dân tộc mình. Yêu cầu đặt ra là “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” và: “Tôi gói các ý tưởng khoa học rất toàn diện và sâu sắc của Các-Mác và Ăng-Ghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Điều lệ Đảng, một cách hệ thống và căn cơ, để rút tít gồm 11 từ cho bài báo đã đăng”. Cho thấy, chủ trương nâng Đảng Cộng sản lên rồi đồng hóa trở thành dân tộc, “Dân tộc Cộng sản”, đã có từ trong lý thuyết Cộng sản và thảo luận trong Đảng từ nhiều năm qua. Bất chấp khái niệm dân tộc chỉ về chủng tộc hơn là một đảng phái chính trị. Theo thống kê, hiện nay, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản có khoảng hơn 5,2 triệu người. Tương đương 5% dân số Việt Nam. Là con số đáng kể nếu số đảng viên được nâng lên và đồng hóa thành một dân tộc riêng biệt, hiện diện bên cạnh hơn 50 dân tộc khác như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm, Tày, Ê Đê… đang sinh sống trên cùng lãnh thổ. Theo đó, dân số của “Dân tộc Cộng sản” hiện nay chỉ đứng sau dân tộc Kinh mà thôi?! Trong trường hợp đã là dân tộc, thì cần phải xác định lịch sử của dân tộc ấy. Qua phát biểu của ông Tô Lâm tại trường Đại học Columbia, thì Đảng Cộng sản đã lấy sự kiện “Cướp chính quyền” vào năm 1945 làm mốc thời điểm lịch sử “lập nước” của “Dân tộc Cộng sản”. Sự tự tôn một cách kiêu ngạo của Đảng Cộng sản hiện nay, đến mức độ phủ nhận cả lịch sử dân tộc, thì ngay chính người du nhập Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam, đồng thời cũng là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản là ông Hồ Chí Minh cũng chưa từng dám nghĩ đến. Thật vậy, trong dịp đến thăm đền Hùng tại Phú Thọ vào trung tuần Tháng Chín 1954, ông Hồ Chí Minh được cho là đã phát biểu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cho thấy, trang lịch sử dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ của các vua Hùng vẫn tồn tại trong tư duy của ông Hồ Chí Minh. Điều khá khôi hài khi một mặt phủ nhận sạch trơn lịch sử dân tộc, thì mặt khác, trong bài phát biểu của mình, ông Tô Lâm lại nhắc đến ý tưởng “Lấy chí nhân thay cường bạo” của Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử thời hậu Lê trong bài Bình Ngô Đại Cáo. Tự tạo trang lịch sử riêng bằng cách nâng mình lên và đồng hóa thành một dân tộc ưu quyền là “Dân tộc Cộng sản” và thoát ly hoàn toàn khỏi lịch sử chính thống của dân tộc từ hàng nghìn năm. Đảng Cộng sản ngày càng tự tôn và kiêu ngạo một cách lố bịch so với những hậu quả nặng nề mà họ đã gây ra cho đất nước. Điểm về tính chất đảng viên Cộng sản và vài con số trích từ những báo cáo của chính cơ quan Đảng cho thấy họ có xứng đáng gì với sự tự tôn, kiêu ngạo đến mức trở thành “Dân tộc Cộng sản”? Một bài trên trang Tuyên giáo từ Tháng Hai 2019 thừa nhận số lượng đảng viên đông không nhất thiết phản ánh chất lượng: “Cũng cần nhìn nhận rõ hơn động cơ vào Đảng của một bộ phận đảng viên có phải vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì dân, vì nước hay để có chức quyền, để mưu lợi riêng”. Bên cạnh đó, chỉ riêng số ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII có tới 26 người bị kỷ luật hoặc khởi tố hình sự vì tham nhũng, 5 ủy viên Bộ Chính trị và 3 thành viên trong nhóm tứ trụ cũng bị vạch mặt tương tự. Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, trên cả nước đã khởi tố mới, điều tra 2.836 vụ án/5.975 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 841 vụ, 1.487 bị can so với cùng kỳ năm 2023), trong đó có 475 vụ án/1.094 bị can về các tội tham nhũng. Đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản, rờ đến đâu phát hiện ra tham nhũng đến đó, đất nước tan hoang, đạo đức xã hội xuống cấp, hàng loạt thiết chế cơ bản để điều hành, quản lý của đất nước bị vô hiệu hóa… Không lẽ tất cả những điều đó trở thành thành tích vẻ vang, đến mức làm cho Đảng Cộng sản hãnh diện, phủ nhận lịch sử cả hàng nghìn năm của dân tộc chăng? Phương Tây có câu ngạn ngữ “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Lúc này, sau khi khai tử lịch sử dân tộc, Đảng Cộng sản chẳng phải đang là bia nhắm cho những quả đạn đại bác được bắn từ tương lai sao? DC, ngày 24 Tháng Chín, 2024  
......

Tô Lâm ở Mỹ: đừng hy vọng để rồi thất vọng!

Hiếu Chân/Người Việt Chuyến công du Hoa Kỳ đầu tiên của ông Tô Lâm trên cương vị tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) kiêm chủ tịch nước, đang thu hút sự chú ý của đông đảo những người quan tâm tới thời cuộc. Đảng CSVN đã sắp xếp chuyến ông Tô Lâm “ra biển lớn” khá chu đáo, khơi dậy niềm lạc quan và hy vọng về một sự thay đổi lớn sắp xảy ra. Nhưng với những ai hiểu đảng CSVN và những thủ đoạn chính trị tinh vi, đây chỉ là một màn trình diễn công phu, che giấu ý đồ thật của họ, do đó hãy còn quá sớm để lạc quan hay hy vọng. Chuyến đi đến New York tham dự kỳ họp thường niên thứ 79 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là một nghi thức ngoại giao thông thường. Là người mới tiếp nhận chiếc ghế lãnh đạo cao nhất của Việt Nam chưa đầy hai tháng, ông Tô Lâm coi đây là cơ hội quan trọng để ra mắt cộng đồng quốc tế, nâng cao uy tín ở trong nước và thể hiện hình ảnh một nhà lãnh đạo có năng lực trong dòng xoáy của chính trị cường quốc. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 có một tổng bí thư đảng CSVN dự kỳ họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Đảng CSVN cũng nhân cơ hội này để trưng ra một bộ mặt thân thiện, làm bạn với tất cả các nước, đồng thời củng cố mối quan hệ với Mỹ đúng một năm sau ngày hai nước nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện. Vì vậy, chỉ vài giờ trước khi ông Tô Lâm lên phi cơ sang Mỹ, nhà cầm quyền Việt Nam vội vã trả tự do “cưỡng bức” trước thời hạn cho các tù nhân lương tâm nổi tiếng là ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Thị Minh Hồng và Tiến Sĩ Hoàng Ngọc Giao. Hà Nội coi đây là một cử chỉ thiện chí, hy vọng Hoa Kỳ sẽ đáp lại. Hà Nội cũng sắp xếp cho ông Tô Lâm thuyết trình và gặp gỡ với sinh viên đại học Columbia University ở New York sáng 23 Tháng Chín dù họ không thật sự thoải mái khi cuộc gặp được Giáo Sư Nguyễn Liên Hằng điều khiển. Bà Hằng là một nhà sử học gốc Việt bị bộ máy tuyên truyền của đảng chụp cho cái mũ “phản động” dù bà là thành viên ban lãnh đạo Đại Học Fulbright Việt Nam ở trong nước. Nên để ý, cuộc gặp của ông Tô Lâm tại đại học Columbia University tái diễn một sự kiện tương tự khi ông Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng Việt Nam, đọc diễn văn tại đại học Johns Hopkins University ở Washington, DC, ngày 10 Tháng Mười Hai, 2001. Cho tới nay trong giới lãnh đạo Việt Nam chỉ có ông Dũng và ông Tô Lâm phá lệ, “dám” gặp gỡ, đối thoại với sinh viên Mỹ, đúng như chúng tôi phán đoán trong một bài trước, ông Tô Lâm sẽ đi vào con đường “kỹ trị” của ông Dũng, xa rời sự cai trị giáo điều của ông Nguyễn Phú Trọng. Cũng như ông Dũng 23 năm về trước, cuộc gặp của ông Tô Lâm được dàn dựng cẩn thận, sinh viên phải nhìn vào màn hình điện thoại mới đọc được câu hỏi được mớm trước; còn ông Tô Lâm thường lúng túng, dán mắt vào cuốn sổ tay và né tránh những vấn đề thiết thân như hòa giải với người Việt hải ngoại, với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Dù ông Tô Lâm không có được một cuộc thăm viếng chính thức cấp nhà nước tới Tòa Bạch Ốc hoặc hội đàm với các nhà lãnh đạo nước Mỹ, phía Việt Nam cũng đã cố gắng dàn xếp để ông gặp ông Joe Biden, tổng thống Mỹ, bên lề hội nghị Liên Hiệp Quốc cho dù để gặp ông Biden, ông Tô Lâm phải rút ngắn chương trình viếng thăm Cuba, đồng minh thân thiết nhất của Việt Nam ở Tây Bán Cầu. Tổng Thống Joe Biden đang trong thời kỳ mà người Mỹ gọi là “lame duck” (vịt què), ông sẽ rời chính trường trong bốn tháng nữa, cho nên theo Giáo Sư Alexander Vuving từ Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh Châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (Mỹ), cuộc gặp ông Biden là “không quá cần thiết.” “Sẽ cần thiết hơn nếu ông Tô Lâm gặp được những người có thể sẽ là một phần của chính quyền Harris giả định trong tương lai,” ông Vuving nói với BBC Tiếng Việt. Ấy thế nhưng qua một vài sự kiện nho nhỏ vừa kể, và qua những bài diễn văn “có cánh” của ông Tô Lâm từ khi lên nắm quyền, đã có nhiều người hy vọng ông Tô Lâm sẽ đem lại sự thay đổi cho chính trường Việt Nam, thậm chí có người đánh giá ông ta “thân Mỹ,” sẽ đưa Việt Nam vào một “kỷ nguyên mới!” Niềm hy vọng đó không chỉ cháy bỏng trong tâm trí hàng triệu người dân đang khao khát tự do ở trong nước mà còn thôi thúc một số bậc trí thức trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang mơ về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng! Có điều, nếu quan sát những phát ngôn và hành động của ông Tô Lâm cùng bộ sậu của ông thì dễ dàng nhận ra niềm hy vọng ấy chỉ là ảo vọng. Chúng tôi đã nhiều lần phân tích về bản chất không thể thay đổi của đảng CSVN và nhu cầu cải cách thể chế chính trị Việt Nam, xin phép không nhắc lại nữa mà chỉ tập trung vào chuyến công du Hoa Kỳ hiện nay của ông Tô Lâm để chứng minh đảng CSVN vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Cộng Sản, duy trì nhà nước cai trị kiểu Lênin, cùng chia sẻ vận mệnh tương lai với Trung Quốc và ngăn chặn mọi biểu hiện tự do hoá, dân chủ hoá xã hội. Những cam kết, hứa hẹn này nọ mà ông Tô Lâm đưa ra tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc và trong các cuộc gặp gỡ chẳng qua chỉ là những thủ thuật chính trị, những bức màn khói che đậy ý đồ thật sự của họ mà thôi. Trước chuyến đi, ông Tô Lâm đã phóng thích ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Minh Hồng nhưng trước đó chưa lâu, chế độ của ông đã bắt giam và kết án nặng nhiều gương mặt đấu tranh khác như các ông Nguyễn Vũ Bình, Phan Vân Bách, Trần Đình Triển, Trương Huy San (Huy Đức)… Xem ra “quỹ tù nhân lương tâm” mà Việt Nam dùng để trao đổi với Tây phương vẫn không bị thâm thủng; chưa kể họ còn giữ những tù nhân có giá trị trao đổi lớn như Huy Đức, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng… Tính đến ngày 24 Tháng Chín, Việt Nam cầm giữ 187 tù nhân lương tâm, 417 người có nguy cơ bị đàn áp, theo dữ kiện của The Project 88. Nếu thực sự có thiện chí, nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho toàn bộ những người này và chấm dứt việc truy bức những tiếng nói phản biện ôn hòa, bất bạo động. Một chính thể bắt giam công dân để làm vật trao đổi với ngoại bang đổi lấy những sự nhượng bộ về kinh tế thương mại là một chế độ lưu manh, không có năng lực phục thiện. Trong chuyến đi Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đọc những bài diễn văn soạn sẵn đầy những hình ảnh và từ ngữ lung linh về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” về “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,” nhưng đằng sau đó là gì? Dù hết sức bận rộn trong thời gian ở New York, ông Tô Lâm và tùy tùng đã cố thu xếp gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ, các tổ chức cánh tả từng kích động phong trào phản chiến chống sự tham dự của người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây. Ông Tô Lâm đã trao huân chương hữu nghị cho một số đại diện phong trào này. Đặt trong bối cảnh quan hệ cùng chia sẻ vận mệnh với một số ít các đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba, cuộc gặp gỡ lãnh đạo đảng Cộng Sản Mỹ hoàn toàn nhất quán với chính sách, trước sau không thay đổi của đảng CSVN. Cộng đồng quốc tế vẫn chưa quên lập trường của Hà Nội ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Nga ở Ukraine và cuộc đón tiếp trọng thị nhà độc tài Vladimir Putin, tổng thống Nga, mới đây. Có nguồn tin trong nước tiết lộ, trong chuyến “Mỹ châu du” lần này, đích đến của ông Tô Lâm là Havana chứ không phải New York. Chuyến đi đến New York chỉ là hoạt động ngoại giao có tính thủ tục, trọng tâm chú ý của ông Tô Lâm cùng đoàn tùy tùng là viếng thăm chính thức cấp nhà nước tới Cuba, thể hiện thông điệp Việt Nam tiếp tục củng cố tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa với một trong vài nước có cùng chính thể cuối cùng còn sót lại. Có người phán đoán, chuyến thăm Cuba của ông Tô Lâm nhằm xoa dịu sự phản kháng của thành phần bảo thủ, trung kiên trong nội bộ đảng CSVN ở Hà Nội song chúng tôi thiên về nhận định đây là chính sách nhất quán của ông Tô Lâm, đổi mới mà không đổi màu, dù cải cách thế nào vẫn không từ bỏ chính thể Cộng Sản. Còn quá sớm để hy vọng ông Tô Lâm là nhà cải cách. Ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt thì mọi người đã biết; tên tuổi ông Linh gắn liền với mật nghị Thành Đô 1990, ông Kiệt ký Nghị Định 31/CP năm 1997 về quản chế hành chính, cho phép bắt giam không cần xét xử, kết tội không cần tòa án, đặt cơ sở pháp lý cho thời kỳ đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Ông Tô Lâm chắc chắn sẽ đi vào con đường của ông Linh, ông Kiệt, của đảng CSVN nhưng đó không phải là con đường cải cách chính thể mà người dân đang hướng đến. [qd]  
......

Tô Lâm đi Mỹ nhưng không bỏ thói côn đồ

Chánh Thành (VNTB) Cưỡng bức ân xá chính là “bắt chim để phóng sanh”, bắt giam chính công dân của mình để đổi lấy viện trợ và thoả thuận quốc tế  Đầu tháng 9 Tô Lâm đã ký lệnh ân xá cho ít nhất hai người có liên quan tới những bản án vi phạm nhân quyền, gồm phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao và bà Nguyễn Phương Hằng, giám đốc công ty Đại Nam. Ông Giao là Viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các Hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Ông đã lên tiếng mạnh mẽ để sửa đổi những điều luật bất lợi cho dân, trong vụ Đồng Tâm, ông cũng ra sức bảo vệ người dân bị hại. Cuối năm 2022, ông Giao bị bắt với cáo buộc ban đầu là “gián điệp”, sau đó sửa thành “trốn thuế”, được thả về sau 21 tháng bị giam giữ. Bà Nguyễn Phương Hằng được đặc xá giảm 3 tháng tù trong bản án 3 năm vì vi phạm điều 331, tội Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, tổ chức, cá nhân. Cùng với việc thả người thì Tô Lâm cũng đã cho phép tờ New York Times mở lại văn phòng ở Sài Gòn. Có thể nói Tô Lâm đã chuẩn bị rất kỹ trước chuyến đi Mỹ lần này. Một là không muốn bị chính quyền Mỹ lên án nặng nề về việc vi phạm nhân quyền, hai là mong muốn đạt được những mục tiêu có lợi cho cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, có lẽ hai người trên cùng tờ New York Times không đủ nặng ký để đưa lên bàn đàm phán với Hoa Kỳ. Thế là rạng sáng ngày 21/9, dư luận rúng động khi cộng sản Việt Nam (CSVN) bất ngờ thả ông Trần Huỳnh Duy Thức và bà Hoàng Thị Minh Hồng. Bà Hồng là nhà hoạt động môi trường nổi tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất Việt Nam, được quốc tế vinh danh là Anh Hùng Khí Hậu. Bà bị bắt năm 2023 với cáo buộc trốn thuế và chịu bản án 3 năm tù. Ông Trần Huỳnh Duy Thức là một kỹ sư, doanh nhân, nhà bất đồng chính kiến nổi bật nhất Việt Nam trong vòng 20 năm trở lại đây. Ông Thức bị bắt năm 2009 với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và chịu bản án 16 năm tù. Như vậy, bà Hồng được giảm 20 tháng tù, ông Thức được giảm 8 tháng tù. Nhưng điều đáng nói là Tô Lâm cho thả người một cách rất “côn đồ”. Thả vào lúc nửa đêm, ngay trước khi đi Mỹ. Trên Facebook của mình, ông Trần Huỳnh Duy Thức kể lại rằng ông đã bị “đặc xá cưỡng bức”. Vì ông không nhận tội, không xin đặc xá, nhưng lúc 17h45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người ở Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam, khiêng ông ra khỏi tù và đưa ông ra sân bay đưa từ Vinh vào Sài Gòn. Hành vi này cho thấy dã tâm của người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam khi bất chấp tất cả để đạt được mục đích cuối cùng. Tô Lâm không quan tâm dư luận đánh giá cách làm của mình, miễn là ông ta tới Mỹ, gặp được Biden và đạt được những thỏa thuận có lợi cho ông ta. Ở ao nhà thì là con cá sấu, nhưng ra biển lớn thì Tô Lâm cũng chỉ là con cá lòng tong. Rõ ràng rằng với chuyến đi Mỹ đầu tiên trong vai trò người đứng đầu hệ thống chính trị lần này, Tô Lâm khát khao có thể khẳng định vị thế chính trị mình với quốc tế. Có lẽ Hoa Kỳ cũng không lạ gì với cách hành xử côn đồ này của Tô Lâm và cộng sản Việt Nam. Tô Lâm từng làm dậy sóng quốc tế với việc cho lính sang tận Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh về Hà Nội. Còn Việt Nam thì từ lâu nay vẫn có truyền thống “bắt chim để phóng sanh”, họ bắt giam chính công dân của mình để đổi lấy viện trợ quốc tế. Thậm chí các tổ chức khủng bố cũng không bằng, vì khủng bố thì bắt cóc người Mỹ để đổi lấy tiền, chứ không bắt dân của họ làm con tin như cộng sản Việt Nam. Một câu hỏi nữa đặt ra là sau khi Tô Lâm về thì ai sẽ bị bắt tiếp. Năm ngoái, với mong muốn được Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, cộng sản đã thả ông Nguyễn Bắc Truyển (một người hoạt động dân chủ) và ông Mai Phan Lợi (người hoạt động môi trường) trước khi Biden qua Việt Nam. Sau khi được tổng thống Hoa Kỳ ký hiệp định thì 4 ngày sau, Việt Nam cho bắt bà Ngô Thị Tố Nhiên, một nhà hoạt động môi trường, giám đốc điều hành tổ chức Sáng Kiến Về Chuyển Dịch Năng Lượng Việt Nam (VIETSE). Tù nhân chính trị là một món hàng không cần vốn nên cộng sản Việt Nam sẽ không thể để cho nhà tù được trống. Họ sẽ tìm mọi cách lấp đầy để có thể khai thác bất cứ lúc nào. Dẫu biết rằng tự do không hề miễn phí, khi nào xã hội chưa có tự do, khi đó vẫn còn người đứng lên đòi. Tự do, dân chủ là xu hướng tất yếu của thời đại!
......

Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt (Phần 1)

Trần Đan Tâm Thành - Trụ - Hoại – Diệt là một quy luật vật lý của vũ trụ cho thấy mọi vật có khối lượng và mọi hiện tượng cân đo đong đếm được trong vũ trụ đều bị chi phối qua 4 thời kỳ : xuất hiện là Thành, phát triển là Trụ, hư nát là Hoại và mất đi là Diệt. Quy luật nầy là một định luật khoa học chứ không phải là một quy luật riêng biệt của Phật giáo, được áp dụng cho mọi loại vật chất và hiện tượng trong vũ trụ hiện tại của nhân loại.   Một ví dụ cụ thể là con người ngay khi được sinh ra là giai đoạn Thành (hơn 9 tháng), lớn lên là giai đoạn Trụ, già đi là giai đoạn Hoại và khi chết đi là giai đoạn Diệt. Ví dụ về một hiện tượng như cơn gió hiện ra là "thành", thổi qua một thời gian là "trụ", yếu dần là "hoại" và sau cùng ngưng thổi tức là "diệt". Không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ nầy và chính cái vũ trụ nầy cũng đang tiến vào chu kỳ hoại diệt trong tương lai hàng tỷ tỷ năm sau nầy. Cực điểm của giai đoạn Hoại là gai đoạn Diệt thường là ngay lập tức hoặc nếu kéo dài thì thời gian cũng rất ngắn gọn, có thể kiểm chứng cụ thể qua những sự cố sụp đổ của các đảng cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu chung quanh thập niên 90 của thế kỷ 20 vừa qua. Lý thuyết Cơ học Lượng tử (Quantum Mechanics Theory) của khoa học và triết học phương Đông (Kinh Dịch) đã chỉ ra sự biến dịch của vạn vật và những hiện tượng trong vũ trụ. Đảng Cộng Sản Việt Nam không là một ngoại lệ, cho nên đảng nầy cũng phải bị biến dịch theo đúng với quy luật Thành - Trụ - Hoại – Diệt [1]. Hơn nữa, theo Giáo sư Kiều Tiến Dũng (Melbourne – Úc), Lý Thuyết Cơ học Lượng tử ngày nay đã chứng minh rằng ngay trong bản chất của bất cứ sự vật hay hiện tượng nào đều đã hàm chứa sẵn khả năng tự biến chuyển và luôn luôn biến chuyển, dù không có bất cứ ngoại lực nào tác động vào nó [1]. Đảng Cộng Sản Việt Nam là một hiện tượng của đất nước Việt Nam, hay nói khác đi, Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẻ hay một tập thể chặt chẻ, có gần 5 triệu người Việt Nam hiện nay. Chiếu theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử thì vạn vật từ Không mà sinh ra, dần dần trưởng thành khi lớn lên. Khi lớn lên tới cực điểm rồi thì trở ngược lại và bắt đầu giảm lần, yếu dần và suy tàn cho đến khi trở về Không. Vậy thì tổ chức Đảng Cộng Sản Việt Nam nầy đang ở đâu chiếu theo Thuyết Cơ học Lượng tử và quy luật Thành-Trụ-Hoại-Diệt gồm 4 giai đoạn thành, tru, hoài & diệt ? Cần nhấn mạnh là 4 giai đoạn thành, trụ, hoại & diệt của quy luật nầy thường chồng lấn lên nhau từng phần, chứ không phải hoàn toàn được phân chia cụ thể như những toa xe (coaches) của một đoàn tàu lửa. A. Giai đoạn hình Thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1928-1931) Khác với tất cả các đảng chính trị & cách mạng xuất hiện trước năm 1945 như Dân Xã, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Tân Việt…, Đảng Cộng Sản Việt Nam được hình thành qua nhiều tên tuổi khác nhau và do quyết định của ngoại bang là Liên Xô (đứng đầu Quốc Tế Cộng Sản III) & Đảng Cộng Sản Trung Quốc tạo dựng. Trong suốt 2 năm 1929 và 1930, do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản), các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải họp nhau trên đất Tàu để thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất cho vùng Đông Dương mang tên chính thức là Đảng Cộng Sản Đông Dương, như sau : - Đông Dương Cộng Sản Đảng được thành lập ngày 17/6/1929 tại Hà Nội với Ban Chấp hành trung ương lâm thời gồm : Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính và Nguyễn Tuân, do Trần Văn Cung làm Bí thư. Thực ra, Đông Dương cộng sản Đảng có tiền thân là Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên (6/1925-8/1929), do Nguyễn Ái Quốc thành lập tại Quảng Châu, Trung Quốc. Các hội viên chủ chốt có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh... - An Nam Cộng Sản Đảng được thành lập ngày 15/11/1929 tại Sài Gòn. Ban Chấp hành trung ương lâm thời gồm : Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Nguyễn Sĩ Sách, do Châu Văn Liêm làm Bí thư. - Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn được thành lập ngày 1/1/1930 tại Hà Tĩnh. Các thành viên chủ chốt gồm : Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Khoa Văn, Trần Hữu Chương, Lê Tiềm, Ngô Đức Đệ, Nguyễn Tốn, Trần Đại Quả và Ngô Đình Mẫn. Tuy nhiên tổ chức nầy chưa kịp bầu Bí thư và Ban Chấp hành trung ương thì bị thực dân Pháp bắt bớ và đàn áp. Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn có tiền thân là Tân Việt Cách Mệnh Đảng (14/7/1928-1/1/1930), với nhân sự chủ chốt gồm có Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... và do Đào Duy Anh làm Tổng thư ký. Về sau nhiều thành viên chuyển sang xu hướng cộng sản và thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam là do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế) yêu cầu Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc (chưa dùng tên Hồ Chí Minh) triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930 đến ngày 8/2/1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng Sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, hai đại biểu An Nam Cộng Sản Đảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm và 3 đại biểu ở nước ngoài là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu & Lê Hồng Sơn đại diện cho Quốc Tế Cộng Sản III. Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mãi đến ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn mới chính thức gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam nầy. Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng Cộng Sản Việt Nam ghi ngày thành lập Đảng là 6/1/1930 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 lại đổi thành ngày 3/2/1930. Như vậy ngày 3/2/1930, Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng chính thức hợp nhất thành một Đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất. Ngày 24/2/1930 thì Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn chính thức gia nhập. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31/10/1930, tên của Đảng Cộng Sản Việt Nam được đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc Tế Cộng Sản III và Trần Phú được bầu làm Tổng bí thư đầu tiên. Theo Hà Huy Tập thì lúc mới hợp nhất, phía Đông Dương Cộng Sản Đảng có 85 đảng viên, An Nam Cộng Sản Đảng có 61 đảng viên và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn có 119 đảng viên, và phân bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc tại Đông Dương có 300 đảng viên. Ngoài ra ở Thái Lan còn có 40 đảng viên và Hương Cảng (Hong Kong) có 14 đảng viên. Khi hợp nhất thì Đảng Cộng Sản Đông Dương có tổng cộng 565 đảng viên, chia thành 40 chi bộ ở khắp Đông Dương, Trung Quốc, Xiêm La (Thái Lan) và Hong Kong [2], [3] & [4]. Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương, chụp tại Đại hội Đảng cộng sản Pháp họp tại Marseille năm 1921   Phân tích tỉ mỉ giai đoạn hình thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam nói trên sẽ thấy có 5 sự kiện đặc thù nổi bật. Thứ nhất là chỉ trong 3 năm ngắn ngủi (1928-1930) đảng nầy dùng đến 2 cái tên khác nhau (sau năm 1945 còn đổi tên thêm vài lần nữa), dù bản chất cộng sản không thay đồi. Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng bị chính đảng nầy tự ý thay qua đổi lại như hành vi tráo bài ba lá : Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng Cộng Sản Việt Nam ghi ngày thành lập Đảng là 6/1/1930 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 lại đổi thành ngày 3/2/1930. Thứ hai là 300 đảng viên của phân bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc gia nhập ngay khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, góp phần đưa con số đảng viên từ 265 lên 565. Con số 300 đảng viên gốc Hoa nầy chiếm đa số từ những ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tai họa cho chính họ và cho đất nước Việt Nam suốt từ đó cho đến nay. Thứ ba là ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc (chưa lấy tên Hồ Chí Minh), chẳng có vai trò gì trong giai đoạn manh nha thành hình Đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1928 đến 1930, dù ông ta là sứ giả và đại diện cho Quốc tế Cộng Sản III, mà Trần Phú lại chính là nhân vật có uy tín và ảnh hưởng trên nhóm thành lập đảng nầy. Chỉ một năm sau Trần Phú bị Pháp bắt tại Sài Gòn vào tháng 4/1931 và chết vào tháng 9 tại nhà thương Chợ Quán – Sài Gòn. Sau đó, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt làm Tổng bí thưĐảng Cộng Sản Đông Dương, còn Hồ Chí Minh chỉ đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Quốc Tế Cộng Sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á. Cả 3 Tổng bí thư đầu tiên của đảng nầy đều bị Pháp bắt tại Việt Nam và giết chết trong nhà tù từ 1931 đến 1941 và cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ngày 15/06/1924 tại Trung Quốc, trong khi đó ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc, được an toàn trong suốt thời gian hoạt động tại Trung Quốc và Xiêm La từ năm 1930, mãi đến năm 1942 ông mới lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Trước đó thì ông Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), đã dùng nhiều tên giả như Lý Thụy – là tên lúc đó của ông Hồ làm điệp viên chỉ điểm cho Liên Xô tại Trung Hoa dưới vỏ bọc thông dịch viên cho phái bộ Borodine - Lin, Thầu Chín, Nguyễn Ái Quốc, v.v… Một điều khá đặc biệt trong 79 năm cuộc đời, ông Hồ đã dùng tới 176 tên gọi và bí danh khác nhau, kể cả tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1942 tới ngày nay [5], [6] & [7] (Ghi chú : Theo báo điện tử của Đảng Cộng Sản Việt Nam [6] thì ông Hồ Chí Minh dùng đến 205 tên giả, chưa kể đến 2 bút danh Trần Dân Tiên, T. Lan để tự viết sách ca ngợi chính mình và bút danh CB để viết báo Nhân Dân gán ghép tội "cường hào ác bá" để xử bắn bà Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát Hanh Long – một ân nhân đóng góp của cải nhiều nhất cho Đảng Cộng Sản Việt Nam - trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất 1956 của Đảng Cộng Sản Việt Nam). Hồ Chí Minh đã từng dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với các giấy tờ tùy thân mang tên Lý Thụy. Trong bức thư gửi Quốc Tế Cộng Sản, ngày 18/12/1924, Nguyễn Ái Quốc ghi ở cuối thư : " Trong lúc này tôi là một người Trung Quốc, chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc". Trước đó, vào năm 1919, khi còn mang tên Nguyễn Tất Thành ở Pháp cùng sinh hoạt chung với nhóm trí thức gồm các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành là người đến gia nhập nhóm sau cùng và chớp lấy cái tên Ái Quốc của nhóm, tức mạo danh nhóm trí thức nói trên [6] & [7]. Thứ tư là trong 4 năm liền sau khi thành lập Đảng, ông Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Lin bị các tổng bí thư tiên khởi khiển trách. Trong những năm 1931–1935, Nguyễn Ái Quốc bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc Tế. Trong một bức thư gửi cho tổ chức Đệ Tam Quốc Tế vào tháng 3/1935 với nội dung kể về phong trào cách mạng tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về "tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của các đồng chí trong Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc". Trong thư này cũng có đoạn : "Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh Niên là rất cần thiết (...). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua". Sở dĩ có việc phê phán này là do bất đồng giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí của ông về các lực lượng tham gia, cần tranh thủ trong hoạt động cách mạng và sự chệt hướng đấu tranh giai cấp của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) [8]. Việc tuyên truyền rằng Nguyễn Ái Quốc là cha đẻ của Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay là sự tuyên truyền gian dối và bịp bợm, vì chỉ sau ngày các tổng bí thư tiên khởi Trần Phú, Hà Huy Tập & Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt giam và giết chết thì Nguyễn Ái Quốc mới cướp quyền lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam vào thời đó. Do đó, lịch sử còn nghi ngờ dữ kiện là có thể Nguyễn Ái Quốc đã chỉ điềm cho Pháp bắt được cả 3 tổng bí thư tiên khởi nói trên để không còn ai có uy tín hơn Nguyễn Ái Quốc và đương nhiên ông bước lên vị trí chóp bu dễ dàng. Nghi ngờ nầy rất có cơ sở khi lịch sử đã nắm vững chứng cớ Nguyễn Ái Quốc đã bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp lúc 12 giờ trưa ngày 15/06/1924 (ngày 11 tháng Năm năm Giáp Tý), để cướp quyền chi phối Việt Nam Quang Phục Hội, Tâm Tâm Xã… tại Trung Hoa và nhận được một số tiền lớn do Pháp trả cho là 150 ngàn bạc Đông Dương thời bấy giờ [9], [10] & [11]. Nghi án Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp   Thứ 5 là việc ai sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào thời kỳ thành lập đó ? Câu trả lời chính xác : "Dựa theo lịch sử Việt Nam và các tài liệu chính thức trên truyền thông quốc tế thì Đệ III Quốc Tế Cộng Sản - do Liên Xô cầm đầu, chi phối – và Tàu Cộng là 2 nhân tố sáng lập. Có thể ghi nhận chính xác là Đảng Cộng Sản Tàu & Đảng Cộng Sản Liên Xô là 2 bà mẹ đẻ ra và nuôi dưỡng Đảng Cộng Sản Việt Nam khôn lớn". Cho đến ngày nay thì đảng cộng sản Tàu vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng và chi phối Đảng Cộng Sản Việt Nam ngấm ngầm & công khai. Do đó, những trí thức đương thời & có tầm nhìn sâu sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Khôi, Thiều Chửu… đều xa lánh Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngược lại là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Đại Nghĩa, Lâm Đức Thụ, v.v.. đều nhầm lẫn nghe theo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam thời đó đến nỗi thân bại danh liệt sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp được chính quyền miền Bắc Việt Nam vào năm 1945. Như vậy kết lại những sự kiện trong giai đọan Thành cho thấy Tàu Cộng & cộng sản Liên Xô đã chung tay đẻ ra Đảng Cộng Sản Việt Nam để nhuộm đỏ vùng Đông Dương và phát triển thêm Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Dứt khoát là Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải do nhu cầu chính trị của Việt Nam thời đó tạo nên, cho nên đã cai trị Việt Nam trong suốt thời gian từ 1954 đến nay như một đạo quân chiếm đóng. Trở lại giai đoạn Thành thì 5 yếu tố đặc thù của giai đoạn Thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương nói trên đã xen kẻ một yếu tố của giai đoạn TRỤ (phát triển) và 4 yếu tố của giai đoạn HOẠI. Nhất là sự kiện thứ 5 nói trên và 300 đảng viên cộng sản Tàu tham gia làm con số đảng viên sơ khởi phát triển từ 265 lên 565, nhưng 300 đảng viên nầy lại sẽ là yếu tố HOẠI nặng nề về sau nầy. Trần Đan Tâm (12/09/2024) Tham khảo : [1] Kiều Tiến Dũng, 15/12/2016, Khoa Học Phương Tây Và Triết Học Phương Đông, Người Việt Books. [2] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [3] Communist Party of Vietnam, Wikipedia, The Free Encyclopedia. [4] Đệ Tam Quốc Tế, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [5] Bút hiệu của Hồ Chí Minh, Wikipedia Bách KHoa Toàn Thư Mở. [6] Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/suu-tam-ten-goi-bi-danh-va-but-danh-cua-chu-tich-ho-chi-minh-qua-cac-thoi-ky-2554 [7] Sự thật về Hồ Chí Minh, August 2, 2013  , Hồ Chí Minh có bao nhiêu tên gọi, bút danh, bí danh ? [8] Hồ Chí Minh, Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư mở. [9] Nhượng Tống, 1928, nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu "Ai bán đứng cụ Phan Bội Châu ?" của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt Phan Bội Châu là nhóm Lý Thụy, Lâm Đức Thụ. [10] Minh Võ, Chương 45, Hồ Chí Minh và vụ bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp, Hồ Chí Minh - Nhận định và tổng hợp. [11] Phạm Minh Vũ, 18/05/2020, Hồ Chí Minh đã bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu cho Pháp như thế nào ?, hồ chí minh đã bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu cho Pháp như thế nào ? - Hồ Sơ - Quyền Được Biết (quyenduocbiet.com) Nguồn:Thông Luận  
......

Trần Huỳnh Duy Thức ra tù

Trần Huỳnh Duy Thức Kính thưa quý đồng bào thân yêu, Cuối cùng tôi đã trở về trong vòng tay yêu thương của gia đình, bạn bè, thân hữu và đồng bào thân yêu, những người đã che chở và chia sẻ với tôi những năm tháng gian truân và hào hùng của quãng thời gian dài gần 16 năm qua. Dù cách trở tù đày, tôi vẫn luôn cảm nhận sự đồng cảm và tiếp sức của mọi người thông qua sự quảng bá rộng rãi các bài viết của tôi từ nhà tù, đặc biệt sự ủng hộ đồng lòng những cuộc tuyệt thực mang thông điệp quan trọng của tôi. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu ấy của bè bạn trong và ngoài nước, nhất là các cơ quan đại diện ngoại giao Hoa Kỳ, EU, Đức, Pháp, Úc và Canada, các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền, các hãng truyền thông và báo chí hải ngoại cũng như quốc tế. Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến các thành viên trong gia đình tôi, những người đã dành cho tôi tình yêu thương vô bờ bến, và phải chịu đựng nỗi đau cùng sự dày vò tinh thần và thể xác, thậm chí còn lớn hơn những gì tôi đã trải qua. Chắc hẳn quý bạn đang muốn nghe những câu chuyện về nghịch cảnh mà tôi đã đối diện trong thời gian qua. Có rất nhiều câu chuyện như vậy cần được kể ra, nhưng xin hẹn mọi người dịp sau khi thuận tiện. Duy có một điều khá khôi hài mà tôi muốn kể ngay với quý bạn lúc này. Đó là việc tôi bị ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC, một chuyện có thể nói là vô tiền khoáng hậu ở đất nước này. Ngày 19/9/2024, đại diện của Trại giam số 6, thừa lệnh Bộ Công an, thông báo với tôi rằng, Chủ tịch nước muốn đặc xá cho tôi trước thời hạn và yêu cầu tôi làm đơn xin đặc xá. Tất nhiên, ngay lập tức tôi từ chối nhận đặc xá, và không ký vào đơn từ nào cả. Lý do là vì tôi phải được trả tự do theo đúng quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện hành về hành vi mà tôi bị cáo buộc vi phạm, chứ tôi không cần ra tù nhờ sự đặc xá đó. Vậy mà vào lúc 17g45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người của Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam đọc thông báo, rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá số 940 ngày 20/9/2024 về việc “đặc xá” cho tôi. Vì vậy, tôi trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Tôi phản ứng ngay rằng, tôi không có tội cũng như lý do gì để nhận đặc xá và sẽ không đi đâu cả. Thế là họ cưỡng bức, khiêng tôi ra khỏi cổng nhà tù trước sự phản đối của các anh em tù chính trị ở đó, rồi đưa tôi lên xe ra sân bay Vinh. Cuối cùng tôi bị buộc phải lên máy bay trong chuyến muộn vào Sài Gòn. Một cách mặc nhiên, tôi đã góp phần quan trọng vào sự hỗ trợ chuyến công du Hoa Kỳ của ông Chủ tịch nước, một chuyến đi mang hy vọng về sự chuyển đổi mạnh mẽ cho đất nước trong tương lai. Các nhân viên an ninh bày tỏ sự vui mừng khi tôi bước lên máy bay và xin chụp một tấm hình kỷ niệm với tôi. Bây giờ tôi lại muốn chia sẻ với mọi người đôi chút về tương lai. Hãy tin rằng dân tộc ta đang bước vào một cuộc chuyển mình vĩ đại không thể đảo ngược. Đó là tiến trình chuyển đổi ôn hòa được dẫn dắt bởi Trào lưu mềm với năng lượng mềm, giúp chuyển hóa mọi năng lượng giận dữ tích tụ bao đời. Điều tốt đẹp đó đang đến gần hơn bao giờ hết. Mong quý đồng bào giữ vững niềm tin! Hẹn sớm gặp lại mọi người. Trần Huỳnh Duy Thức  
......

Bi kịch của cái đầu

Xuân Sơn Võ   Tối qua tôi nằm mơ một giấc mơ kì quái. Tự nhiên tôi không thấy chân tay mình ở đâu, chỉ còn lại mỗi cái đầu. Mà cái đầu ấy lại bị giao cho việc quản lí công việc cứu hộ, cứu nạn bão lũ. Thật sự thì tôi rất là lúng túng. Đó giờ tôi quen làm việc bằng tay chân, thấy cái gì thì ứng phó với cái đó. Bây giờ không có tay chân, chỉ còn mỗi cái đầu, thì làm sao tôi có thể chèo thuyền đi cứu trợ, làm sao mang mì tôm đến cho đồng bào... Cũng may, bụt hiện lên (mơ mà) và bảo: "Mi cần phải dùng cái đầu để nghiên cứu, hoạch định kế hoạch, rồi mới giao cho tay chân làm việc". Thế là tôi suy nghĩ, và vạch ra kế hoạch, lập ra các ban bệ, mỗi ban bệ phụ trách một việc, từ dự báo, đến lên kế hoạch. Từ kế hoạch phòng tránh các tai nạn, các tác hại của bão, lũ lụt, đến khoanh vùng các khu vực để có thể dự đoán, lên kế hoạch ứng cứu cho từng khu vực. Rồi thành lập các đơn vị cứu hộ chuyên nghiệp, tập luyện kĩ càng từng phương án cứu hộ, cứu trợ... Vừa lúc đó thì có một cơn bão lớn, có nguy cơ đổ bộ vô nước ta. Tôi lên kế hoạch bảo vệ nhà cửa, tài sản, cây cối... dự phòng các tình huống xấu ngay trong bão và kế hoạch xử lí từng tình huống. Rồi tôi lên kế hoạch cứu hộ, phân công cho các bộ phận túc trực và ứng cứu kịp thời. Biết rằng sau khi bão quét, sẽ có một cái gọi là hoàn lưu bão, gây mưa lớn, khả năng ngập lụt, lũ quét, sạt lở cao, dựa trên việc khoanh vùng và kế hoạch trước đó, tôi lên kế hoạch cụ thể sơ tán dân, yêu cầu bên quân đội hỗ trợ trực thăng ứng cứu cho các vùng bị cô lập do lũ, sạt lở... gây ra. Tôi cũng yêu cầu bộ phận cứu trợ phải nắm bắt tình hình từng khu vực, thông báo kịp thời nhu cầu cứu hộ của từng khu vực, nơi nào thiếu nước sạch, nơi nào thiếu thuốc men, nơi nào thiếu ăn, nơi nào thiếu quần áo... để có kế hoạch phân bổ ứng cứu. Kế hoạch là nếu có nhiều người dân tham gia cứu trợ, thì bộ phận này phải định hướng cho họ, cần cứu trợ cái gì, ở đâu... Rồi tôi lại tính đến sau khi bão qua, lũ rút, thì phải dọn dẹp tái thiết ra sao, kinh phí từ đâu... Cuối cùng thì tôi đã có một bản kế hoạch tổng thể và chi tiết dày cộp. Khi bão đến, cứ nhìn vô đó mà thực hiện. Nếu có phát sinh gì thì xem vô mục phát sinh, tìm đến mục các hướng giải quyết, để giải quyết phát sinh một cách phù hợp với tổng thể. Thế rồi bão đến thật. Cái đầu tôi vô cùng kinh ngạc. Mấy cái tay, chân chúng không xem bản kế hoạch của tôi, chúng thực hiện theo kiểu chúng nghĩ, gặp đâu làm đó. Dân, ai tự cảnh báo, tự sơ tán thì sống, ai không tự cảnh báo, tự sơ tán được, thì tự chịu. Các đội cứu hộ thì cực kì vất vả, trèo đèo lội suối, mà hiệu quả chẳng được bao nhiêu. Đội drone thì mất hút. Trực thăng ra biểu diễn chút đỉnh rồi biến mất. Buồn nhất là người dân nhiệt tình tham gia cứu trợ. Nhưng cái bộ phận nắm bắt tình hình từng khu vực, thông báo kịp thời nhu cầu cứu hộ của từng khu vực chẳng hiểu biến mất đâu, nên hàng cứu trợ chất đống, nhiều thứ làm ra không kịp dùng bị hư hỏng, lại phải tìm nhân lực để bỏ đi. Trong khi đó thì nhiều nơi thiếu thốn trăm bề. Nói chung, mọi thứ cứ rối tung rối mù lên. Tôi kêu gọi, van vái mãi, bụt mới hiện lên, và bảo: "Ta chỉ bảo cho cái đầu, còn đầu phải điều khiển tay chân. Kêu ta làm chi?". Tôi nhìn lại, cái đầu tôi đang bị đặt dưới đất, may mà chưa bị lũ quét. Trong khi tay chân thì múa may tưng bừng. Vừa lúc ấy thì một tiếng nổ lớn vang rền, mặt đất rung chuyển. Một cơn lũ bùn đất đang ùn ùn đổ xuống. Tôi chỉ là cái đầu, không có tay chân, làm sao mà chạy. Khi bùn đất bắt đầu lấp lên đầu, lên mặt tôi, tôi ngộp thở quá và bừng tỉnh. Thì ra đó là mơ. May mắn quá. Đó mà là thật thì tôi chết ngắc rồi. Mở fb ra xem. Hà Nội đến hôm nay vẫn chưa dọn xong cây đổ./.  
......

Thư gửi miền Bắc!

VietTuSaiGon's blog Gửi đến miền Bắc thương yêu với tất cả tấm lòng của tôi! Tôi còn nhớ những năm sau 1975, cha tôi đi vắng, mẹ tôi nói rằng cha sẽ đi rất lâu, chưa biết sống chết ra sao và cũng chưa biết bao giờ cha được về. Hai chữ “cải tạo” như một bóng ma ám ảnh lấy chúng tôi. Thế rồi cha về, cái địa danh Cổng Trời xa xôi nào đó làm tôi thấy sợ miền Bắc, điều đó như một thứ lực cản vô hình. Và những ngày tôi đến trường, trong lúc vắng cha, những bài học đầu của tôi có gì đó mang âm hưởng miền Bắc xa xôi ấy, với “Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi/ Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt/ Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát/ Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca...”. Lúc ấy, trong sâu thẳm tâm hồn tôi, miền Bắc như một bức tranh, vừa thân quen vừa xa lạ, vừa chứa chan yêu thương lại vừa ma quái và chết chóc. Bởi nơi ấy đẹp, nhưng cũng chính nơi ấy, đang giam giữ cha tôi. Nhưng rồi, lý lịch của tôi đã chặn đứng con đường học hành của tôi, tôi lại một lần nữa thấy miền Bắc đẹp và thơ mộng ấy có gì đó làm tôi sợ, làm tôi buồn và làm tôi thất vọng... mơ hồ! Và miền Bắc, mỗi khi chú tôi nhắc về, nói về, nghe có gì đó sợ hãi, mệt mỏi, để rồi cuối cùng chú đã lên thuyền, quyết định cuối cùng của chú đã theo cùng chú vào lòng biển, vĩnh viễn không trở về. Cùng với hàng triệu con người khác. Miền Bắc, hai chữ ấy, tôi còn nhớ như in hình ảnh bà Loan, một người con dâu phía ngoại của tôi, đã đến thăm gia đình tôi trong lúc vắng cha, đã cho mẹ tôi mười ký gạo, những ký gạo đã bốc múi ẩm mốc, được gói kĩ lưỡng, mang từ ngoài Bắc vào, để dành cho người miền Nam. Bà Loan nói rằng trước khi vào Nam, bà nghe nói miền Nam khổ lắm, chịu ách kìm kẹp, đàn áp của Mỹ Ngụy nên dân không có gạo mà ăn, không có nhà mà ở và bị hà hiếp đủ điều. Dường như ai cũng dành một ít gạo mang vào cho miền Nam. Thế rồi ai cũng bất ngờ, ai cũng chưng hửng vì miền Nam giàu có, trù phú, tự do và hoa lệ, đâu có thấy miền Nam, Sài Gòn nào bị đàn áp, đói khổ đâu... Có lẽ bà Loan là chiếc cầu nối giữa tôi và miền Bắc trở nên gần gũi và thân thương hơn. Sở dĩ miền Bắc đáng sợ trong tôi là vì những người nói giọng Bắc đã mang cha tôi đi cải tạo, những người nói giọng Bắc đã đẩy nhiều gia đình chúng tôi ra đường và những người nói giọng Bắc dường như đã lấy mất niềm hi vọng, tương lai của chúng tôi. Thế rồi, theo thời gian, tôi làm ăn, đi lại ở miền Bắc, có một số gia đình trở nên thân thiết với tôi, trong đó gồm vài gia đình tại Cao Bằng, những người từng giúp cho cha tôi có chỗ ăn, chỗ làm việc tạm bợ để kiếm tiền độ nhật, đón xe về quê sau khi ra trại. Càng về sau, tôi càng cảm giác rằng miền Bắc cũng giống như miền Nam, cũng có những con người chân chất, mộc mạc, quanh năm bám miếng ruộng nhỏ, rảnh rỗi thì đi làm thuê, làm đầu tắt mặt tối và đôi khi buồn quá, chán nản quá, cũng chửi thề, chửi vào một thứ gì đó không rõ, tiếng chửi thề như một tiếng thở dài. Thế rồi theo thời gian, tôi hiểu ra rằng trong hàng ngàn dân oan ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, người miền Bắc nhiều lắm, và khi thành dân oan, Bắc hay Nam đều chung một nhà. Tôi đã từng đến thăm, từng chứng kiến những chiếc lều bằng vải dù, vải bạc trên vệ cỏ, những nồi niêu tạm bợ, mọi thứ tạm bợ đã gắn kết giọng nói bi thương của hai miền Nam - Bắc ngồi lại với nhau. Trong một bữa cơm màn trời chiếu đất, tình thương, nỗi bi thống của kiếp người hiện trên gương mặt từng người, hiện trên khóe miệng nhai cơm vội vã và hiện trong ánh mắt vô vọng Bắc - Nam! Cũng từ khoảnh khắc ấy, tôi thấy miền Bắc và miền Nam là một nhà, miền nào cũng có người tốt, kẻ xấu, miền nào cũng có kẻ cơ hội, người trung kiên, miền nào cũng có kẻ ăn trên ngồi trốc làm ông nội thiên hạ và có người khiêm nhu, biết nhường cơm sẻ áo. Chúng ta đã nhầm, tôi đã nhầm đánh tráo một thứ gì đó với vùng miền, và chúng ta đã sống trong vết thương nhầm lẫn ấy, ngày càng sâu đậm. Chỉ khi nước mắt rơi, chỉ khi mạng người ngã xuống, chúng ta mới kịp nhận ra sự nhầm lẫn của mình, tuy đã quá muộn màng! Như những ngày này, hình ảnh những đồng loại, đồng bào của tôi phải oằn mình chống chọi với đói lạnh, với đau đớn, với kinh hoàng, dường như không có nỗi đau nào ghê gớm hơn. Đang ngủ, đang ăn cơm, đang ngồi mơ tưởng về một ngày mai tốt đẹp hơn, đang nghĩ về đồng lúa trĩu hạt, hứa hẹn một mùa giáp hạt ấm bụng hơn, đang nghĩ về những bài học của con cái, của chính mình và tin rằng mình sẽ thay đổi, sẽ bớt cực khổ... Mọi giấc mơ chưa kịp khép màn thì đâu đó tai ương ập đến, mọi thứ trả về màn trắng, không còn gì, đau đớn, tang tóc phủ lên khắp mọi nơi! Tôi đã  nhìn thấy một em bé chết vùi trong bùn non nhão nhoét, tôi đã nhìn thấy một người cha khóc gào tìm con, tìm vợ, tôi đã nhìn thấy một biển nước mênh mông và mỗi ngôi nhà nhỏ xíu, mong manh giữa biển nước ấy như một cánh lục bình, tôi đã nhìn thấy những tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng trên mạng xã hội, tôi đã nhìn thấy một nghĩa trang bị bứng tung vì lũ, tôi đã nhìn thấy một ngôi làng bị san bằng như bình địa, tôi đã nhìn thấy nước mắt và máu của đồng bào tôi nhỏ xuống mặt đất này...! Bắc - Nam dường như chỉ là biên kiến, bởi tôi biết, trước đây mấy trăm năm, ông bà tôi đã giã từ miền Bắc, vào miền Nam khai cơ lập nghiệp, và dù có tưởng tượng kiểu gì, cách gì chăng nữa, ông bà chúng ta cũng không thể tưởng tượng ra được rằng sau này, con cháu sẽ tự vạch hai miền bằng cái vĩ tuyến 17 nào đó và tự ném đá, ném đạn bom, ném tang thương vào nhau để bảo vệ một thứ chủ thuyết xa lạ, lai căn nào đó. Đơn giản, với ông bà ta, cùng màu da, cùng vị nước mắt, cùng giọng nói và cùng trên một dải đất, tức là người một nhà. Cũng như bây giờ, nỗi đau của miền Bắc chính là nỗi đau của miền Nam, nỗi buồn của miền Nam chính là nỗi buồn của miền Bắc, chúng ta phải yêu thương nhau và bóc bỏ toàn bộ những thứ vỏ chủ nghĩa, hiềm khích hay định kiến bên ngoài chiếc bánh chưng mà chúng ta đã gửi tặng nhau. Trong những ngày này, chúng ta thấu hiểu cái lạnh của nhau và chảy nước mắt vì điều ấy, bởi chúng ta yêu thương nhau vì màu da, tiếng nói, chúng ta chưa bao giờ yêu thương nhau vì một thứ chủ nghĩa xa lạ nào. Những ngày qua, đối với miền Bắc thật khủng khiếp, chúng ta chưa bao giờ mường tượng được sẽ có một ngày bi khốn như vậy, tang thương ngút trời và mất mát, tai ương vẫn chưa chịu dừng. Dường như chúng ta đang bước vào một thời kì mới, thời kì mà chúng ta phải cởi bỏ đi các định kiến mà lâu nay chúng ta đã khoác trên mình, thậm chí khoác trên mặt đất, núi đồi, để rồi hôm nay, các thứ định kiến ấy bục vỡ, tạo thành dòng chảy chết chóc và cuốn xô mọi thứ, mọi giấc mơ. Đã đến lúc chúng ta cởi bỏ, và trả về cho mặt đất này tình yêu thương với đầy đủ sự rộng lượng, bao dung, trắc ẩn của nó. Đã đến lúc chúng ta ngồi lại với nhau, để nghe nỗi đau của nhau, nỗi đau chồng chất nỗi đau, nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày, nhiều đời, nhiều kiếp... Và lắng nghe tiếng khóc, nước mắt của nhau... như những dòng sông đang lắng nghe tiếng nói của mây trời! Xin cầu nguyện với tất cả lòng thương yêu, gửi đến miền Bắc niềm hi vọng bình an và chóng vượt qua gian khó, tang thương...!  
......

Biệt Phủ & Biệt Thự

Tưởng Năng Tiến Tôi vốn duy tâm (và hơi duy cảm) nên gần như chả có tham vọng, hay khát vọng gì nhiều về vật chất. Trước khi về Trời (hay về đâu đó) tôi chỉ có ước vọng duy nhất là được ngồi trong khoang hạng nhất – First Class, hay Business Class cũng ok – trên một chuyến bay đường dài, từ châu Mỹ sang châu Á. Sau khi xem qua giá vé, tôi đổi ý liền, tới mấy ngàn Mỹ kim lận. Ở quê tôi không ít người phải bán thân (hay bán thận) mà chỉ được vài trăm đôla thôi nên tôi đâu có điên mà… vứt tiền qua cửa sổ như vậy. Đã vậy, tôi cũng hơi ngại ngần rằng cái thứ thường dân tị nạn như mình mà giả dạng làm du khách e cũng khó coi. Tôi còn sợ là mình sẽ vô cùng lúng túng khi được những tiếp viên hàng không tiếp đãi trang trọng quá. Cách đây chưa lâu tôi cũng đã có đôi chút kinh nghiệm (rất phiền) khi bầy đặt làm sang, liều mạng thuê một cái phòng ngủ hơi mắc tiền ở Rangoon – Miến Điện. Vừa bước xuống taxi, nhân viên khách sạn túa ra chào đón khiến tôi hết hồn hết vía. Họ đưa tôi vào một cái phòng rộng thênh thang có bàn ăn, bàn viết, bàn phấn, tủ lạnh, sofa tiếp khách to đùng, và cả hoa tươi trên table de nuit. Mình ên tui mà tới hai cái giường ngủ lận, cái lớn/cái nhỏ, ra nệm trắng tinh. Trên mặt gối còn có đặt mấy búp sen hồng tươi thắm và thơm ngát nữa. Tôi chỉ dám nằm ké né chút xíu xiu ở mí giường thôi, và nằm thao thức cho tới gần sáng luôn vì không quen ngủ ở một nơi sang trọng. Đợi mặt trời vừa lú là tôi cút ngay vì ngại cái cảnh nhân viên khách sạn (lại) chắp tay xá chào khi từ biệt. Tôi trở lại với mấy cái nhà trọ rẻ tiền quen thuộc, chi phí chỉ vài Mỹ kim một ngày thôi – breakfast included. Tuy phải nằm giường hai tầng, và ngủ chung phòng với mấy cô/cậu Tây ba lô (xốc xếch) nhưng tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Tưởng chừng như mình là một con cá hồi, vừa tìm lại được đúng dòng sông cũ vậy! Hoá ra Oscar Lewis cũng không sai lắm. Nhà nhân chủng học này đưa ra cái khái niệm culture of poverty (văn hoá nghèo) và tin rằng một kẻ sinh trưởng và nuôi nấng từ một gia đình, và đất nước nghèo khó, như tôi rất khó thích ứng với những sinh hoạt của nếp sống phú túc nên cứ… nghèo hoài, cho tới chết luôn! Tui cũng sắp chết tới nơi rồi nên không có gì để phiền hà ráo trọi nhưng khi còn sống thì nhất định không để cái văn hoá nghèo biến mình trở thành một kẻ nghèo văn hóa. Chỉ cần ngồi nhà – không phải tiêu dùng một đồng nào ráo trọi – xem một bộ phim tài liệu (Amazing Hotels: Life Beyond the Lobby) dài sáu tiếng, cũng đủ giúp tôi học hỏi rất nhiều điều kỳ thú về những khách sạn lạ lùng và sang trọng vòng quanh thế giới: Marina Bay Sands (Singapore), Giraffe Manor (Kenya), Royal Mansour (Morocco), Fogo Island Inn (Newfoundland), Icehotel (Sweden)… Riêng Mashpi Lodge thì tôi coi đi coi lại tới vài lần. Mashpi được coi là “Five Star Ecohotel.” Có tên trong danh sách những khách sạn độc đáo của thế giới do National Geographic tuyển chọn, dù Mashpi chỉ chiếm một diện tích rất khiêm tốn, và nằm ẩn mình trong khu rừng mây (cloudy forest) xa khuất thuộc rặng núi Andean ở Nam Mỹ. Chủ nhân là Roque Sevilla (cựu thị trưởng Quito, thủ đô của Ecuador) người trở thành triệu phú nhờ vào dịch vụ bảo hiểm và truyền thông, đã mua 1.200 mẫu Tây đất rừng với giá $350.000, và bỏ thêm $10 triệu nữa để xây dựng quán trọ Mashpi Lodge. Ông tâm sự: “Mọi người đều nghĩ rằng tôi điên. Everybody thinks I’m crazy.” Với số vốn lớn lao này mà khách sạn chỉ có 22 phòng thì quả là “khùng” thiệt nhưng mục đích của Roque Sevilla không phải là đầu tư sinh lợi. Ông muốn cứu vãn, và bảo vệ, một phần rừng nguyên sinh đang bị mất dần vì sự khai thác quá tải của những công ty cung cấp gỗ. Phần lớn nhân viên của Mashpi Lodge vốn là thợ làm rừng hay thợ săn. Nay họ đều trở thành những chuyên viên bảo vệ thiên nhiên. Kết quả là nhiều chủng loại (chim chóc cũng như động vật hoang dã) mất dạng từ hơn nửa thế kỷ đã có mặt trở lại trong khu rừng mây của Mashpi Lodge – theo ghi nhận bởi camera traps của nhà sinh vật học thường trú Carlos Morochz. Tôi cứ nhìn cái khách sạn thiết kế toàn bằng kiếng (để du khách đứng ở góc nào cũng có thể tiếp xúc với thiên nhiên) với thư viện, phòng thí nghiệm, đài quan sát… của ông thị trưởng Quito mà không khỏi ngẩn ngơ và chạnh lòng nghĩ đến giới quan chức ở đất nước mình. Thay vì bảo vệ thì những kẻ này chính là thủ phạm đã phá nát rừng núi ở Việt Nam để khai thác gỗ kiếm tiền, và xây những biệt thự hay biệt phủ: –Biệt phủ Yên Bái và tài sản bất minh –Bất ngờ biệt phủ gỗ quý của lãnh đạo kiểm lâm –Biệt phủ xây bằng 2.000 m3 gỗ quý của đại gia xứ Nghệ –Hoa mắt trước biệt phủ rộng thênh thang bằng gỗ quý của ông Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị –Vì sao quan chức lại có dinh thự, “biệt phủ” xa hoa đến vậy? –Hình ảnh khu “biệt thự quan chức” ồn ào ở Lào Cai –Biệt thự quan chức: Những dinh thự, biệt phủ “ồn ào” dư luận thời –Biệt thự Sơn La là của em trai Chủ nhiệm UB Kiểm tra tỉnh –Con gái nguyên lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đứng tên “biệt phủ” –137 biệt thự trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà: “Tối mật” hay mặt tối của một toan tính –Biệt phủ vẫn sừng sững sau những ồn ào Bà Nguyễn Hải Vân, một chuyên viên về môi trường cho hay: “Rừng phòng hộ ở Việt Nam đang suy giảm mạnh cả về diện tích và chất lượng. Chỉ tính từ 2004-2014, diện tích rừng phòng hộ đã giảm 1.7 triệu hecta, tương đương tốc độ suy giảm trung bình 23%/năm.” Nhà báo Trương Châu Hữu Danh nhận xét: “Trên khắp dải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, các món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá. Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những căn nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ”? Theo tôi thì “các vị cán bộ” này đều vẫn ngủ rất ngon vì họ được bảo vệ rất kỹ trong những căn “nhà gỗ triệu đô” bởi chế độ hiện hành. Qua lệnh xử phạt “500 triệu đồng và cho tồn tại ‘biệt phủ’ của gia đình ông Phạm Sỹ Quý” ở Yên Bái, mọi người đều thấy được cái tâm, cũng như cái tầm, của những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam. Đất nước này tuy không nằm trên đường xích đạo như Ecuador nhưng số phận thì e đen đủi hơn nhiều./.  
......

Cả nước đồng ca đòi độc lập

Ngô Nhân Dụng Ông Vladimir Putin đã tấn công Ukraine, lấy cớ nước này đang muốn gia nhập Minh ước NATO. Giờ lại nghe nói ông đang nhòm ngó ba quốc gia bên bờ biển Baltic, nằm ở phía Tây nước Nga! Một bài trên báo The Daily Beast của Anna Nemtsova ngày 30 tháng Tám, 2024, cho biết một số “bloggers,” có cả các sĩ quan quân đội Nga và các ngôi sao truyền hình ở Nga, đã đề nghị đánh chiếm hòn đảo Gotland (thuộc Thụy Điển), dùng đó làm căn cứ đánh ba nước để thử coi khối NATO dám ngăn cản ông hay không! Ông Putin hành động không thể đoán trước được, vì không ai biết lòng tham của ông mạnh đến mức nào! Ba quốc gia Estonia, Latvia và Lithuania đã tuyên bố độc lập khi đế quốc cộng sản Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Từ năm 2004 họ đã theo gương Thụy Điển và Phần Lan gia nhập khối NATO và Liên hiệp Âu châu, EU, từ năm 2011 bắt đầu dùng đồng euro làm tiền tệ. Nếu Putin, lấy cớ bảo vệ các kiều dân Nga, đánh ba nước này, liệu dân chúng Mỹ, Anh, Pháp,… có sẵn sàng đổ máu bảo vệ ba quốc gia nhỏ bé, xa xôi đó hay không? Thời Báo MátxCơVa (Moscow Times) tiết lộ một số người Nga có ảnh hưởng trên dư luận đang bàn nhau về một cuộc Thế Chiến Thứ Ba! Báo The Daily Beast cho biết có người đề nghị quân Nga đánh thành phố Narva của nước Estonia vào tháng 11 năm nay! Nhà thơ Nguyễn Bá Trạc đưa chúng tôi qua thăm Estonia trong chuyến đi Phần Lan và Thụy Điển vừa qua. Tôi cũng muốn biết một nước nhỏ xíu như thế làm cách nào giữ được độc lập sau bao thế kỷ bị các đế quốc, Nga, Thụy Điển, Đức thay phiên nhau giày xéo, giành giựt! Điều kinh ngạc nhất là dân chúng nước này đã “chiến đấu giành độc lập” bằng những “vũ khí” lạ thường Họ tụ tập hàng trăm ngàn người, cất tiếng đồng ca trong những Đại hội Ca nhạc; đến lúc chính đảng Cộng Sản bản xứ phải thức ngộ, tuyên bố tách khỏi Liên Xô. Thử tưởng tượng vào thế kỷ thứ 8, nước ta đang bị nhà Đường cai trị, hàng trăm ngàn dân Việt kéo nhau về thành Đại La đồng ca những bài quan họ Bắc Ninh, “Tình bằng có cái trống cơm …;” hát mãi cho đến khi viên quan Đô hộ phải đem quân về phương Bắc, dân Việt tuyên bố độc lập! Đó là chuyện đã diễn ra ở nước Estonia. Trong thực tế, theo sử sách nước ta, dân Việt do Phùng Hưng lãnh đạo đã bao vây phủ thành khiến cho Cao Chính Bình lo lắng, bịnh rồi chết! Dân “Estonians” dùng tiếng hát thể hiện tinh thần bất khuất. Theo bài “Cuộc Cách Mạng bằng Tiếng hát” (Estonia’s Singing Revolution) của Stephen Zunes viết trên International Center on Nonviolent Conflict (tháng Tư, 2009), vào thế kỷ thứ 13, họ đã đồng ca trước đạo quân Đức chiếm đóng; cũng như đã phản kháng đạo quân của Peter Đại Đế trong thế kỷ 18. Từ năm 1869, Lễ Hội Ca Nhạc mang tên “Laulupidu” kéo dài nhiều ngày, hàng trăm ngàn dân từ khắp nước kéo về thủ đô Tallinn, có lúc 25,000 người cùng cất tiếng hát. Trong thời gian bị cưỡng ép nằm trong Liên bang Xô Viết, Lễ Hội Laulupidu phải hát các bài ca tụng chế độ cộng sản. Nhưng vẫn có lúc dân chúng “bất ngờ” cất lên các điệu hát cổ truyền, cả những bài ca yêu nước đang bị cấm đoán. Năm 1947, ca đoàn trưởng Gustav Ernesaks được ghi tên vào lịch sử vì đã can đảm cho mọi người cùng hát bài “quốc ca lậu” đang bị cấm. Bản Quốc thiều đã được chính thức sử dụng trong mấy năm độc lập ngắn ngủi sau Đại Chiến Thứ Nhất; bị chế độ cộng sản cấm hát. Cơ hội độc lập đã tới cho Estonia khi Mikhail Gorbachev lên cầm đầu Liên Xô, năm 1985, áp dụng một chính sách “cởi mở.” Năm 1986, chính quyền xô viết đưa ra dự án khai thác mỏ phốt phát, bị dư luận phản đối vì tàn hại môi trường sống. Năm sau, các cuộc biểu tình tăng lên, số người tham dự ngày càng đông. Và, như một phản ứng tập thể tự nhiên, dân Estonia vừa diễn hành vừa bật lên tiếng đồng ca cả các bài ca ái quốc đang bị cộng sản cấm. Tháng Năm, 1988, các cuộc tập họp đồng ca tiếp tục, mọi người nắm tay nhau công khai bày tỏ khát vọng độc lập. Các đảng phái chính trị ra đời, có nhóm ôn hòa, nhóm cứng rắn, nhưng đồng ý chủ trương bất bạo động. Theo Stephen Zunes, từ mùa Hè đến mùa Thu, 860,000 người cùng ký tên vào một bản Kiến Nghị lên án chế độ Xô Viết và tự tuyên bố mình là công dân một nước Cộng Hòa Estonia. Tháng 9, 1988, hơn 300,000 dân Estonia đã tập họp trong Lễ Hội Laulupidu ở thủ đô Tallinn. Số người này một phần tư tới một phần ba dân số, lúc đó khoảng một triệu người! Nhiều phụ nữ biểu tình mặc quốc phục cổ truyền mà các bà nội, bà ngoại họ đã may lấy bằng tay từ bao năm trước. Một triệu người Estonia đã đứng lên đối đầu với 150 triệu người Nga. Cuối cùng, Đảng Cộng sản Estonia bắt tay với các đảng chính trị quốc gia, cùng lên tiếng đòi tách ra khỏi Liên bang Xô Viết. Ngày 16 tháng 11, chính phủ Estonia tuyên bố độc lập. Năm 1989, dân hai nước Latvia, và Lithuania cũng kéo nhau qua Estonia tham dự đại hội ca nhạc Laulupidu để cùng lên tiếng đòi độc lập với Liên Xô. Vẫn theo Stephen Zunes, ngày 23 tháng Tám năm 1989, hơn 700,000 người Estonia cùng với nửa triệu người Latvia và một triệu người Lithuania xuống đường, nắm tay nhau, từ Vilnius, thủ đô Lithuania qua Rīga, thủ đô Latvia tới Tallinn, kéo dài gần 650 km. Lúc đó nhiều người còn lo sẽ diễn ra cảnh Cộng sản Trung Quốc tàn sát hàng ngàn sinh viên ở Thiên An Môn. Nhưng những người tổ chức biểu tình bất chấp, vẫn ngẩng đầu cất tiếng đồng ca. Mikhail Gorbachev phải nhượng bộ, vì kinh tế Liên Xô đang suy sụp. Hơn 5,000 quân Nga được lệnh rút về, cùng với những xe thiết giáp và đại pháo. Trong lịch sử, dân Estonia đã từng bị các đế quốc Đức, Đan Mạch, Thụy Điển và Ba Lan đô hộ trước khi bị cưỡng nhập vào Đế quốc Nga vào năm 1721, như Stephen Zunes kể. Năm 1918, Anh quốc đã giúp Estonia tự giải phóng và chống lại một chế độ thân Đức năm 1919. Một hiệp ước được ký kết năm 1920 công nhận nền độc lập của Estonia, với một chính quyền do dân chúng bầu lên. Năm 1939, được Hitler thỏa hiệp, quân Nga lại tái chiếm cả ba nước trên bờ biển Baltic. Một phần tư dân Estonia thiệt mạng vì chiến tranh. Theo Rick Steves kể trong một bài cũng mang tựa đề "Cuộc Cách Mạng bằng Tiếng hát,” viết trên blog Rick Steves Europe của ông, năm 1941, quân Đức chiếm Estonia, ba năm sau bị quân Nga đánh bại. Stalin ép ba nước Estonia, Lithuania và Latvia gia nhập Liên bang Xô Viết. Stalin còn áp dụng các chính sách đồng hóa nhằm tiêu diệt dân tộc tính của Estonia; đưa dân Nga và dân Ukraine qua sinh sống, có lúc người gốc Nga chiếm 40 phần trăm dân số, đông hơn số người chính gốc Estonia. Văn hóa dân Estonia đã từng bị các đế quốc khác áp chế qua nhiều thế kỷ xâm lăng và chiếm đóng, nhưng vẫn được gìn giữ cho đến bây giờ. Tiếng nói của họ khác biệt hoàn toàn với những ngôn ngữ thuộc dòng Slavic hay gốc tiếng Đức. Đa số dân theo đạo Tin Lành, khác với Chính Thống Giáo và Công Giáo ở các nước chung quanh. Gia tài văn hóa được bảo tồn vững chắc nhất là ca nhạc, với truyền thống tập họp đồng ca trong những ngày lễ hội. Tháng Tám năm 1991, Stephen Zunes kể tiếp, khi các sĩ quan Mật vụ KGB tổ chức đảo chánh chống Gorbachev, xe thiết giáp Nga tiến vào Estonia để ngăn chặn phong trào đòi độc lập. Đảng Cộng sản Estonia đã thức tỉnh, công bố chính thức tách khỏi Liên Xô. Dân chúng kéo nhau về thủ đô, tạo thành một hàng rào bất bạo động, không cho quân Nga tiến chiếm các đài truyền thanh và truyền hình. Cuộc đảo chánh ở Nga thất bại, Nga phải công nhận các nước vùng Baltic độc lập. Dân Estonia đã bầu chính phủ mới, theo thể chế dân chủ đại nghị từ đó tới nay. Họ nhờ các nước láng giềng như Phần Lan, Thụy Điển giúp tổ chức một nền kinh tế thị trường, và một chế độ dân chủ xã hội như các xứ Bắc Âu khác. Một quốc gia giành được độc lập nhờ các cuộc tập họp đồng ca! Có lẽ cả thế giới chỉ có một nước Estonia làm được việc đó!
......

Những kẻ ngáo Đảng

VietTuSaiGon's blog Thời đại nào cũng có những kẻ ngáo, nhưng trong thời bình yên, con người điềm tĩnh và bớt ngáo, thậm chí ít, hết ngáo so với thời tao loạn. Đừng hiểu rằng tao loạn là chiến tranh, là đâm chém, bắn giết... Bởi đó chỉ là một phần của tao loạn, thứ tao loạn trong tâm hồn mới đáng sợ, và khi nó biểu hiện ra bên ngoài, tức là nó đã bớt đáng sợ, khi nó còn nung nén ở dạng ngáo, đó là lúc khó lường nhất. Thời bây giờ, loại ngáo đá đầy đường, nhưng ngáo đảng cũng đầy đường. Ngáo đá ưa ngọt, ngáo đảng ưa đỏ. Ngáo đá phê ma túy, ngáo đảng phê lòi Mác Lê, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Bạn thử tưởng tượng một buổi sớm tinh mơ đẹp trời nào đó, bạn mang giày thể thao, vận quần áo thể thao và chạy ra đường với tâm trạng đầy khoan khoái, khí trời dịu mát mùa thu, bạn nghĩ rằng thi thoảng, trong cái ngục lớn cũng có chút ánh sáng của tự do, bạn tin rằng tự do ở trong tâm hồn bạn, chẳng ai có thể mang nó đến cho bạn... Thế rồi, đùng một cái, bạn nghe tiếng lửa chớp lẹt xẹt trên trụ điện, bạn thấy một đứa ngáo đá trần truồng đứng hiên ngang trên đỉnh cột điện và tay nó cầm một thanh cây vừa bẻ được, huơ huơ lên trời hô xung phong, tổng tấn công... Hô, gào và mấy cái lá còn tươi trên nhành cây nó cầm rụng xuống dây điện, tạo ra tiếng lẹt xẹt kia. Thật là kinh khủng, khó tả. Chuyện ấy, hình ảnh ấy ở Việt Nam không hiếm, nơi nào cũng có. Hoặc giả nó vác dao, trèo rào, vượt tường sang nhà hàng xóm, sau đó tìm từng người để truy sát, đã có một vụ án mạng như vậy ở miền Bắc Việt Nam, và vài vụ tương tự như vậy ở miền Nam Việt Nam. Và người ta không hiểu được vì sao kẻ ngáo đá lại truy sát những gia đình kia hoặc hô xung phong trên trụ điện. Nhưng, cũng chính những kẻ ngáo đá sau khi tỉnh táo, mới chia sẻ rằng hầu hết, khi bình thường, cái gì ức chế nhất, cái gì làm cho con người trở nên ngột ngạt và khó sống nhất, thì khi ngáo đá, khi phê ma túy vào, hắn sẽ làm được điều đó. Ví dụ như việc leo trụ điện, chắc chắn đứa ngáo đá kia phải là một đứa rất nhút nhát và bị bạn bè chế nhạo, coi thường vì tính nhát gan của nó, thậm chí, bị gia đình cười chê, đánh giá không ra gì về tính quả cảm, về bản lĩnh... Chính vì bị coi thường, nó đâm ra chán chường, cộng thêm tính hư hỏng vốn có, dẫn đến ma túy. Và ma túy trở thành thứ có thể chia sẻ, đồng cảm, thậm chí cho nó thực hiện được những điều mà với nó lúc tỉnh là không tưởng. Hô xung phoong trên cột điện, mái nhà là một thứ ảo giác chứng minh lòng quả cảm của mình. Trường hợp thứ hai, ảo giác giết người. Chắc chắn đứa ngáo đá này phải có mối thù sâu nặng nào đó với người bị hắn sát hại mà có khi chính hắn cũng không biết. Bởi cái thù hận đến từ vô thức, ngày hôm nay hắn thấy người ta ăn mặc đẹp, được tới lớp, nhưng hắn phải lủi thủi đi làm một thứ gì đó, hắn bị cha mẹ đánh đập, chửi mắng, còn người ta lại ân cần với con cái, hắn chật vật kiếm sống, người ta ung dung sống đời trí thức, nghệ sĩ... Chính mỗi ngày một chút những cái tổn thương sâu xa trong tâm hồn, hắn mơ hồ tin rằng chính những kẻ kia đã lấy đi mất phần sung sướng của hắn. Cho đến khi phê đá, động lực lớn nhất khiến hắn có thể tiêu diệt “thế lực thù địch” kia xuất hiện, hắn vác dao đi theo tiếng gọi của thù hận từ vô thức. Nhưng đó mới chỉ là phê ma túy đá, nếu phê đảng lại còn ghê gớm hơn. Đảng cũng là một thứ ma túy. Bởi hiện tại, Đảng còn cao hơn cả tôn giáo, Mác chẳng từng nói tôn giáo là ma túy đó sao. Đảng mang lại cho các đảng viên sự sung sướng tột độ, ăn trên ngồi trốc, đe nẹt thiên hạ, cướp của thiên hạ một cách ung dung, chính thống, mọi thứ vũ khí rút ra đều có thể triệt tiêu, hóa giải được nhưng khi rút tấm thẻ đảng ra thì hết nước đỡ. Đảng là một loại siêu ma túy. Chính vì vậy mà khi phê Đảng, người ta hoàn toàn thay đổi. Do thời thế, do điều kiện kinh tế, những kẻ ngáo Đảng ngày càng nhiều, tần suất xuất hiện của họ có vẻ như không thể quản lý được. Mà một khi đã ngáo thì yếu tố trung tính sẽ không còn. Hành tung và hoạt động của kẻ ngáo Đảng thường rất khó đoán, họ vẫn tỏ ra ung dung, tự tại, làm ăn lương thiện và mỗi ngày nếu gặp những bất an, những bất công, bị đối xử tệ, họ đều nạp một chút Đảng vào cơ thể để giữ thăng bằng. Ví dụ như kẻ ngáo Đảng chuyên chửi bới người khác, thậm chí đay nghiến một cách không thương tiếc, gặp kẻ này, bạn phải hiểu rằng cuộc đời họ không suông sẻ, họ bị đối xử bất công, bị dẫm đạp trong cơ quan vì trình độ không bằng ai, chấp nhận bám dai như đĩa, họ có thể bị sai vặt bởi những kẻ có chữ nhiều hơn trong cơ quan của họ, họ có thể bị những kẻ có chữ mắng nhiếc, vùi dập nhân phẩm và đối xử với họ thậm tệ. Tất cả những yếu tố trên khiến họ ngấm ngầm nuôi lòng thù hận, càng mặc cảm, họ càng nuốt hận, càng mặc cảm, họ càng tự yên ủi mình bằng cách ngáo Đảng, cứ có Đảng vào thì đầu óc họ trở nên thoải mái, khoan khoái... Cho đến khi, đủ ngáo với Đảng, gặp hiện tượng, xem như cơn ngáo ấy phát triển, thăng hoa, một dạng thức tâm lý mới hình thành với đầy đủ sự lãnh cảm, máu lạnh và tàn ác của kẻ ngáo. Trường hợp facebooker Nguyễn Thị Kim Vân đề xuất “Cấm xuất cảnh cả đời. Dừng việc học tại Việt Nam. Ốm đau khỏi vào các bệnh viện thuộc lãnh thổ Việt Nam. Không xác nhận lý lịch để đi làm công nhân. Không cấp giấy phép kinh doanh... Nói tóm lại, toàn dân tẩy chay nhẹ nhàng thằng oắt, không mắng chửi, để cả đời cháu được nhàn hạ suy nghĩ. Loại người đã vô ơn quay lưng với điều thiêng liêng nhất là Tổ Quốc thì cần cho sống không bằng chết chứ nó có cơ hội lên được thì đảm bảo nhiều người khổ” với cậu học sinh Chu Ngọc Quang Vinh là một ví dụ. Cũng giống như bao kẻ ngáo Đảng khác, một khi những ai đụng chạm đến ma túy của họ, họ sẽ không từ bất kì thủ đoạn man rợ nào để hành hạ, thậm chí tiêu diệt. Bởi trong sâu thẳm họ là mặc cảm, là tổn thương bởi bọn có chữ. Bây giờ, bọn có chữ lại đụng chạm đến ma túy của họ, thì đương nhiên, trong cơ phê ngáo, phê lòi của họ, họ sẽ có những hành vi nằm ngoài sức tưởng tượng của con người bình thường. Và cho đến lúc này, mức độ biểu hiện của chứng ngáo Đảng chỉ mới ở cấp độ có thể khống chế được, tức cấp độ có thể mắng nhiếc, chửi bới, đấu tố và thậm chí giết tróc bất kì ai đụng chạm đến Thức Ngáo (tức Đảng) của họ. Nhưng một khi những cơn ngáo này không còn đủ phê, họ sẽ chuyển đối tượng nặng ký hơn, họ sẽ chuyển qua các quan chức đảng viên tham nhũng. Và nếu vẫn tiếp tục bị cơn ngáo dẫn dắt, họ không dừng lại được, thì rất có thể, họ sẽ chuyển qua các đối tượng mà họ cảm thấy rằng “bọn này làm hỏng lý tưởng Đảng”, tức các quan chức đương chức. Và, mức độ nguy hiểm và rủi ro do những kẻ ngáo Đảng gây ra thì không ai lường trước được. Để rồi xem!
......

Khát vọng Việt Nam: Tự do, dân chủ và thịnh vượng

Kính thưa quốc dân đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ! Hôm nay, tôi muốn nói về một ước mơ - một ước mơ cháy bỏng mà tôi tin rằng chúng ta đều đang ấp ủ. Đó là ước mơ về một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng. Một Việt Nam không nhìn nhau qua lăng kính ý thức hệ đấu tranh giai cấp, không loại trừ nhau, không bỏ ai bên lề, không để ai ở lại phía sau, không độc tài, độc tôn, độc đoán và không kích động chia rẽ, hận thù. Tôi mơ về một Việt Nam ấm áp tình người. Tôi mơ một ngày người Việt thực sự coi nhau là anh chị em, ngày mà trên cửa miệng của mọi người luôn là những câu ca dao tuổi thơ của tôi như "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng," "bầu ơi thương bí lấy cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn," "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" hoặc "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ". Tôi mơ về một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Quan chức chính quyền phải thực sự phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân, lấy sự an vui, hạnh phúc của nhân dân làm kim chỉ nam hành động của mình. Tôi mơ về một ngày người dân Việt Nam thực sự được tự do tranh cử và bầu cử cho những người đại diện mà họ lựa chọn, để họ có thể hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyền công dân của mình. Chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nhiều quốc gia trên thế giới khi họ lựa chọn con đường dân chủ, nơi mà quyền lực thật sự thuộc về nhân dân, nơi mà mỗi người đều có quyền đóng góp và quyết định tương lai của đất nước mình. Đó là con đường mà chúng ta phải đi, nếu chúng ta muốn Việt Nam đi xa, tiến xa hơn, phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn. Các bạn trẻ thân mến, Các bạn là tương lai của đất nước. Các bạn là những người sẽ định hình và quyết định số phận của Việt Nam trong những thập niên tới. Hãy tin rằng chúng ta có thể và phải làm được điều đó. Chúng ta có thể xây dựng một xã hội nơi mọi người đều có cơ hội ngang nhau để học tập, làm việc, và phát triển. Chúng ta có thể xây dựng một đất nước nơi quyền con người được tôn trọng, nơi mà pháp luật là công cụ bảo vệ, chứ không phải đàn áp. Tất nhiên là tôi không ảo tưởng. Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng con đường hướng tới dân chủ rất phức tạp và đầy thách thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng với sự khuyến khích và hỗ trợ của các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Liên Minh Âu Châu, vv..., sự thay đổi có ý nghĩa là có thể thực hiện được. Tương lai của Việt Nam cần được người dân quyết định thông qua một quá trình minh bạch, toàn diện và phản ánh mong muốn thực sự của họ. Đây là xu hướng tất yếu của lịch sử, và Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ là đối tác không thể thiếu, trừ khi họ tự loại mình ra khỏi xu thế tiến hóa của nhân loại. Hãy đứng lên. Hãy nói lên tiếng nói của con tim, của lý trí, của lương tâm, của khát vọng làm người Việt Nam tự do của chúng ta. Hãy cùng nhau hành động vì một Việt Nam mới, nơi mà tự do không chỉ là khái niệm trên giấy, mà là hiện thực trong cuộc sống hàng ngày - một Việt Nam mới, nơi mà mọi người đều có quyền được sống trong một xã hội công bằng, bình đẳng, và thịnh vượng. Khát vọng của chúng ta là có thật. Và nếu chúng ta quyết tâm, nếu chúng ta đoàn kết thì không gì có thể ngăn cản được chúng ta. Hãy cùng nhau xây dựng một Việt Nam mà chúng ta luôn mơ ước, một Việt Nam tự do, dân chủ, và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Nguồn: Đặng Thị Huệ      
......

Quê hương đất nước Việt Nam bây giờ của ai?

Manh Dang Trông thấy tựa bài viết là câu hỏi: "Quê hương đất nước Việt Nam bây giờ của ai?", chắc nhiều bạn sẽ ngạc nhiên khi tôi đặt câu hỏi biết trước câu trả lời! Dĩ nhiên, quê hương Việt Nam của người Việt Nam! Thật ra, điều đó chỉ là lý thuyết, vì lẽ, đối với chế độ Cộng sản, thì quê hương là của họ và họ chỉ mở cửa cho những người biết ngoan ngoãn, thần phục chế độ. Còn lại, quê hương Việt Nam không thuộc về những người khác chính kiến, cho dù cũng là người Việt Nam da vàng, mũi tẹt, bữa ăn hàng ngày vẫn chưa từng rời xa giọt nước mắm. Quả vậy, chế độ Cộng sản đã giành trọn quê hương Việt Nam và tự ban cho mình cái quyền “cấm cửa” tổ quốc với những người Việt Nam mà họ không “ưa”! Bùi Thanh Hiếu (Thanh Hieu Bui) đã vừa là một nạn nhân mới như vậy. ông ấy là blogger nổi tiếng nhất trong số các blogger người Việt. Thật ra, ông được biết đến nhiều hơn với bút danh Người Buôn Gió. Tuy chưa một ngày làm ký giả, nhưng những bản tin của ông về tình hình chính trị trong nước, cũng như nhân sự cao cấp của Đảng Cộng sản vẫn thu hút cả hàng vạn lượt xem, hơn bất kỳ những tờ báo nào của chế độ, vì độ chính xác của những bản tin ấy. Đến mức độ, công chúng vẫn thường đùa rằng ông ấy mới là người đứng đầu Tiểu ban Nhân sự của Đảng chứ không phải là ông Nguyễn Phú Trọng. Trên trang cá nhân của mình, ông Bùi Thanh Hiếu vừa thông tin cho biết về việc mình đã bị cơ quan an ninh Việt Nam từ chối như thế nào khi từ Đức về Hà Nội để thăm mẹ già đang ốm, phải nằm bệnh viện. Bài viết có câu thoại của cán bộ an ninh từ sân bay Nội Bài, như sau: “An ninh Dũng nghiêm mặt thông báo “Anh Hiếu, anh bị cấm nhập cảnh. Anh cho biết lý do anh nhập cảnh là gì để chúng tôi xem xét”. Cuối buổi làm việc, kết quả của việc “để chúng tôi xem xét” là ông Hiếu bị các nhân viên an ninh áp tải nghiêm ngặt ra thẳng máy bay trở lại Đức. Trường hợp của ông Bùi Thanh Hiếu không phải là cá biệt. Trước đó, ông Phan Châu Thành, một doanh nhân thành đạt có tiếng tại Ba Lan cũng đã phải đối diện với trường hợp tương tự như vậy. Tháng 05/2017, ông Phan Châu Thành về Việt Nam thăm cha mẹ già. Đến cửa khẩu Tân Sơn Nhất thì an ninh cửa khẩu không cho nhập cảnh để trả đũa cho việc từng viết bài chỉ trích chính quyền trong nước. Đêm đó, ông Phan Châu Thành bị giam lỏng trong một căn phòng cho đến sáng hôm sau thì bị áp tải ra tận thang máy bay để trục xuất ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Chưa hết, với giáo sư Phạm Minh Hoàng, sự việc còn nghiêm trọng hơn. Nguyên, cha mẹ của giáo sư là người Việt Nam, ông sinh trưởng từ trong nước. Thế nên, ông mặc nhiên có quốc tịch Việt Nam theo Luật Quốc tịch. Năm 1973, ông du học tại Pháp. Đến năm 2000, ông trở về sinh sống và dạy học tại Việt Nam. Năm 2007, ông làm thủ tục hồi hương hẳn và được cấp Giấy Chứng nhận có quốc tịch Việt Nam. Đồng thời, ông cũng được cấp Hộ khẩu thường trú và Chứng minh Nhân dân. Tháng 05/2017, cho rằng ông có hành vi chống lại chính quyền, cho nên, Chủ tịch nước khi ấy là Trần Đại Quang ký quyết định tước quốc tịch Việt Nam đối với ông mà không căn cứ theo bất kỳ quy định nào của Luật Quốc tịch cả, mặc cho Luật Quốc tịch quy định rõ tại điều 2 rằng “Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam”. Khi ấy, chính quyền tránh né, không thụ lý đơn khiếu nại của ông và tổ chức cắt sóng điện thoại, cho công an đột nhập vào nhà riêng bắt giữ ông như một tội phạm hình sự để giam giữ. Đêm hôm sau, với lực lượng hùng hậu lên đến vài chục nhân viên an ninh áp tải đưa ông ra phi trường Tân Sơn Nhứt để trục xuất ông ra khỏi Việt Nam. Chua xót, bất đắc dĩ, Giáo sư Phạm Minh Hoàng phải sống lưu vong tại Pháp từ ngày ấy cho đến nay. Danh sách công dân Việt Nam bị chế độ tự tiện lạm quyền, cấm đoán xuất nhập cảnh ra vào lãnh thổ Việt Nam chỉ vì bất đồng chính kiến kéo dài đến hàng nghìn cái tên: Tiến Sĩ Nguyễn Quang A, Linh mục Nguyễn Văn Khải, Linh mục Nguyễn Đình Thục, Linh mục Đinh Hữu Thoại, Linh mục Trương Hoàng Vũ, Hòa thượng Thích Không Tánh, Mục sư Phạm Ngọc Thạch, Luật sư Lê Công Định, Luật sư Lê Thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn Văn Miếng, Luật sư Đào Kim Lân, Luật sư Đặng Đình Mạnh, Blogger Nguyễn Tường Thụy, Blogger Phạm Chí Thành, Ký giả độc lập Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Anh Tuấn, nhà hoạt động công đoàn độc lập Nguyễn Tiến Trung, nhà hoạt động môi trường Cao Vĩnh Thịnh, cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên, Linh mục Lưu Ngọc Quỳnh… Không chỉ riêng đối với từng trường hợp có danh tính cụ thể, mà việc lạm quyền của chế độ xâm phạm vào lợi ích của người Việt còn tràn lan trong luật pháp. Cụ thể nhất đối với việc đặt ra rào cản nhập cảnh đối với người VIệt đang cư trú tại nước ngoài muốn về thêm quê hương, Theo đó, không phải cứ người Việt là có thể về nước thăm quê hương. Họ phải đến cơ quan lãnh sự của chế độ để đăng ký. Bằng cách đó, chế độ buộc tất cả mọi người Việt, nhất là người bất đồng chính kiến phải “thần phục” quyền lực của chế độ độc tài mà họ khinh ghét. Hoặc trong chính sách Luật Đất đai. Theo đó, chỉ cho phép người Việt cư trú tại nước ngoài “ngoan ngoãn”, “thần phục” chế độ được phép mua bất động sản trong nước qua cụm từ trong luật “được phép nhập cảnh vào Việt Nam”. Mặc dù vậy, thì họ cũng chỉ được mua bất động sản trong các dự án thuộc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp thân hữu của chế độ mà thôi. Thế đó, cướp lấy chính quyền vào năm 1945, giành hết cả lãnh thổ vào năm 1975, để rồi chế độ Cộng sản đã tự đặt cho mình cái quyền cấm cửa ra vào quê hương Việt Nam đối với người Việt Nam không tán thành chế độ độc tài của mình, và rồi, dùng những lợi ích của đất nước để làm miếng mồi nhử thưởng phạt cho những người Việt nào biết ngoan ngoãn, chịu phục tùng. Rõ ràng, ở Việt Nam không có cái gọi là chính quyền, mà chỉ có đảng cướp ở đấy. Vì chỉ có đảng cướp mới cướp tài sản của người khác làm của riêng cho mình và chia cho đồng bọn. DC, ngày 04 Tháng chín 2024 Đặng Đình Mạnh  
......

Bàn Về ĐCSVN Chịu Sự Gíám Sát Của Nhân Dân?

Đúng và sai - Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân (Minh họa: Bộ đội cứu dân trong mưa lũ)_Ảnh: Tư liệu. Lê Bá Vận. Mừng Quốc khánh 2/9 năm nay 2024 Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đóng cửa đấu đá giành quyền lực. Nhân dân xầm xì đồn đoán mà không ngờ có quyền giám sát theo hiến định. Quyền này Cọng sản (Bàn về 2 từ Cộng và Cọng - Google) hiểu cũng sai lầm lúc đưa vào Điều 4 Hiến pháp. Theo Wikipedia giám sát là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” Vd: Giám sát việc thi hành hiệp định. (Oversee, supervise, monitor). Vd. Hội đồng nhân dân giám sát mọi hoạt động của uỷ ban nhân dân cấp mình.  ______                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                       Ngày 02/11/2020 PGS. TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương đã viết bài chi tiết đăng trên Tạp Chí Cộng Sản (TCCS) với tựa đề: “Thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung hiến định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Ông nêu rõ: TCCS - Hiến pháp năm 2013 đã hiến định: ĐCSVN gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân đã được thể chế hóa, cụ thể hóa trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Điều này góp phần nâng cao sức chiến đấu của Đảng, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện mới.   Từ đó cho đến nay 2024, dựa trên bài viết mẫu này có hàng trăm bài viết lại chủ đề trên, đến từ các cơ quan, ban ngành từ Trung ương xuống đến tỉnh, thành, quận huyện.   Chúng ta hãy xem PGS TS Nguyễn Viết Thông đã viết những gì trong bài viết gồm 4 mục:   - Quá trình hình thành nhận thức. Cương lĩnh các Đại hội VI của Đảng (1986), Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011) đều xác định ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích... chịu sự giám sát của nhân dân... Kết luận: ĐCSVN đội tiên phong... chịu sự giám sát của nhân dân... đã được Đảng tự khẳng định.   - Quá trình hình thành hiến định. Việt Nam có 5 bản Hiến pháp: 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Điều 4 Hiến pháp năm 1980 khẳng định sự lãnh đạo củả ĐCSVN tại Việt Nam. Kết luận: Đảng đã tự ban chính danh. Điêu 4 HP năm 2013 chỉnh sửa được viết dưới hình thức 3 khoản như sau:   1. ĐCSVN - Đội tiên phong … 2. Gắn bó mật thiết, chịu giám sát... 3. Đảng hoạt động… pháp luật.   Lời Bàn     – Điều 4 Khoản 1 lý luận áp đặt, diễn tả lộn xộn, nêu nhiều nghi vấn. Cọng sản định nói gì?   CS đại diện cả dân tộc song cả dân tộc là cũng bao gồm các giới doanh nhân, tiểu thương, tu hành, vô gia cư, thất nghiệp, du đảng, xì ke, mất sức lao động, dị kiến?… Nên hiểu thế nào? chỉ một mình ĐCSVN lấy Chủ nghĩa M-L và Tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng? Dân tộc thì không vì cả đời mù tịt. Ở đây nên thay dấu phẩy bằng dấu ngang. Đừng tưởng cứ cọng là hay. Chủ nghĩa M-L mà HCM tròng vào đầu cổ nhân dân VN thì ngày càng gây đàn áp tàn nhẫn, bá đạo, đã bị thế giởi qua trải nghiêm, kinh tởm vứt bỏ. HCM thì chẳng có tư tưởng gì, tất cả là do CS mớm lời sau khi y chết trên 20 năm. Tư tưởng này nhuốm đậm màu cọng nên hủy diệt thuần phong mỹ tục dân tộc, làm chậm bước tiến đất nước.   - Điều 4 Khoản 2. +ĐCSVN gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân... Điều nay thì CS nói đúng. Cọng sản thiết lập chế độ hộ khẩu, tạm trú tạm vắng, tổ trưởng dân, công an khu vực, tự vệ dân phòng… gắn bó mật thiết, theo rõi sát người dân không lơ là. +Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Điều này thì sai lầm hoàn toàn cả lý thuyết lẫn thực tế, bởi vì Đảng không do nhân dân bầu ra hoặc bồ nhiệm. - Điều 4 Khoản 3 . Đúng nhưng không cần thiết phải nêu ra. Bất cứ những ai gây hại, tội ác hình sự thì được pháp luật trừng trị tuy nhiên với tư cách công dân, không liên can đến đảng.   - Thể chế hóa/Cụ thể hóa Giám sát. Đoạn này rất dài chiếm nửa bài, kể việc giám sát đủ thứ ở cấp cơ sở. Điều lệ Đảng được thông qua tại các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều xác định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân. Bộ Chính trị khóa VIII, khóa XI, khóa XII hối thúc Mặt Trận Tổ quốc, Công đoàn và các ban Thanh tra hướng dẫn nhân dân tham gia, đề xuất, khiếu nại, tố cáo... về các đề án linh tinh, sửa đường sá, xây trường ốc, nạn chạy chức quan liêu... Đảng cũng ấn định quy chế làm việc mỗi cấp ban ngành của Đảng, chính phủ... thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ...    - Kiến Nghị. Các kết quả thu được là hạn chế. Các văn bản nằm trên bàn giấy. Đảng cần đẩy mạnh cụ thể hóa phương thức lãnh đạo, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục dân...   LỜI KẾT. Câu: ”ĐCSVN… chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm…” là nói sai sự thực khiến Điều 4 của Hiến pháp vô giá trị. Nhân dân nào dám giám sát Đảng? Giá Đảng là do dân bầu hoặc bổ nhiệm?! Đảng đề ra những chủ trương, chính sách mà Chính phủ, do Quốc hội bổ nhiệm thi hành dưới sự giám sát của Đảng. Nếu có sai lầm thì Đảng nghiêm khắc khiển trách chính phủ. Vì Đảng lãnh đạo tối thượng, tự giám sát sửa sai nên Đảng tuyệt đối đứng ngoài Hiến pháp là hợp lý!   Bài viết vô ích, lạc đề. Chuyện Đảng chịu giám sát, chịu trách nhiệm trước dân… chỉ là những sản phẩm tưởng tượng. Bài viết dài 4750 chữ, gấp ba bình thường, ‘cà kê dê ngỗng’, viện dẫn lui tới văn kiện mọi Đại hội Đảng, Bộ Chính trị làm cơ sở lý luận.   Tiếng Anh có chữ Word Salad (Xà lách chữ), nói theo tiếng Việt cũng có thể hiểu là ‘múa chữ‘. Là  viết rất dài, và dùng toàn những chữ vừa khó hiểu vừa thừa thải, nhưng ý nghĩa thì rất ít. Múa chữ có liên quan đến hội chứng logorrhea, có nghĩa là ‘tiêu chảy chữ nghĩa’ hay verbal diarrhea. Người mắc chứng logorrhea hay lặp lại những câu chữ một cách không cần thiết, và họ làm cho khán giả khó theo dõi (báo cáo, bài văn, của cọng sản điển hình của vị tân cố Tổng bí thư) Điều này khiến ta nhớ tới câu:“Biết rồi, khổ lắm nói mãi”.  Chữ trái nghĩa là Conciseness, ngắn gọn, súc tích, khiến gây cảm phục. Người tự trọng luôn xem kỹ lại bài viết, gạch bỏ các đoạn viết rườm rà, lặp lại.   Hồ Chí Minh khoe mẽ “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Đó là câu nói Hồ mị dân và đầy thâm hiểm. Thực tế thử hỏi ở một nước cọng sản, người dân nào lại dám động đến chân lông của chính phủ, nói gì đến giám sát? Nên nhớ 2 vấn đề:   Một là cho dù chính phủ bị đuổi song Đảng đầu não và chế độ hiếp đáp, hại dân vẫn còn đó.   Hai là lật được chính phủ thì có nguy cơ, ăn quen bén mùi, dân thừa thế xông lên, đuổi được HCM lẫn cọng sản ác ôn. Bởi thế CS luôn cấm tiệt dân tụ tập đông lấy cớ cản trở giao thông, kinh tế…    
......

Nguyễn Đình Bin: Vận nước đã đến chưa?

Nguyễn Đình Bin là hiện thân của cuộc tiến hóa đầy máu và nước mắt, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng! Các khuyến nghị cải cách của cựu Bí thư Đảng ủy Bộ Ngoại giao có được tiếp thu hay không, còn tùy thuộc vào vận nước... Đinh Hoàng Thắng Cụ Bin không phải là “nhà cách mạng màu”, theo nghĩa “Truyền hình Quốc Phòng” (dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương) vừa tố cáo Đại học Fulbright mấy tuần trước [1]. Nguyễn Đình Bin giác ngộ từ thuở còn “quàng khăn đỏ”, theo lời tự bạch. Với bề dày về ngoại giao, cụ Nguyễn Đình Bin viết rằng, chính những kiến nghị liên quan đến thay đổi thể chế đã được nung nấu, nghiền ngẫm, kiểm nghiệm, chắt lọc và rút ra từ lúc ông mới 10 tuổi, khi bắt đầu đi theo con đường của Đảng Cộng sản trong hàng ngũ Đội Thiếu niên kháng chiến chống thực dân và từ thực tiễn hơn nửa thế kỷ được giáo dục, rèn luyện và chiến đấu trong đội ngũ của Đảng [2]. Công bằng mà nói, những điều Cụ Nguyễn Đình Bin đã “gõ” ra giấy trắng mực đen, cho đến nay, không phải là “tiếng sấm giữa trời quang”. Nhưng rồi “Tấm huân chương ảo hóa” ấy (Virtual Medal) từ nay sẽ vĩnh viễn được gắn trên ngực Cụ, với cuộc đời gần 60 năm tuổi Đảng. Và đấy chính là bi kịch vĩ đại của Nguyễn Đình Bin! Nhưng bi kịch ấy đâu chỉ là của riêng Cụ! Bi kịch vĩ đại của Nguyễn Đình Bin cũng là bi kịch của cả cộng đồng lớn hơn. Thật ra, từ 2015, từng có 127 nhân sỹ, trí thức gửi “Thư ngỏ” ủng hộ quá trình chuyển đổi dân chủ của đất nước. Thư được đề chuyển các nhà lãnh đạo, các đại biểu dự Đại hội lần thứ XII và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam [3]. Nhưng lần này, đúng dịp Kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1945 – 2/9/2024, Cụ Bin đã liệt kê ra ít nhất 4 văn bản gửi lên Đảng, với cùng một chủ đề “Góp ý với ĐCSVN về Đổi mới chính trị” bao gồm: i) Thư Ngỏ gửi toàn thể đảng viên, đồng bào trong và nước 2/9/2024; ii) Thư Chúc mừng tân Tổng bí thư – Chủ tịch nước (TBT – CTN) Tô Lâm ngày 4/8/2024; iii) Tâm Thư 19/5/2024 gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng; iiii) Tâm Thư 19/5/2020 gửi TBT - CTN Nguyễn Phú Trọng góp ý cho Đại hội Đảng XIV [4]. Ấy vậy mà tất cả đều như “nước đổ đầu vịt”. Hình như không hề có bất cứ một sự phản hồi chính thức nào, ít nhất từ các Ủy viên có trách nhiệm trong Bộ Chính trị. Nội dung các Kiến nghị Cụ Nguyễn Đình Bin gửi Đảng được đưa ra vào nhiều thời điểm khác nhau, đến các đối tượng khác nhau. Nhưng tất cả đều cuồn cuộn trên một dòng chảy, với ý tưởng vạm vỡ là “hệ thống chính trị, chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang ra sức xây dựng và kiên trì bảo vệ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng”. Cụ kêu gọi “Đảng phải thực hiện đổi mới chính trị thực sự toàn diện và triệt để” và đưa ra những sáng kiến nhằm bảo vệ Đảng trước các nguy cơ, thách thức sống còn và khẳng định rằng, chỉ có Đảng mới tự cứu được chính mình. Đáng tiếc, hơn 4 năm trước, 10 nội dung chi tiết Cụ đề xuất với Đại hội XIII của Đảng về đổi mới chính trị toàn diện và triệt để vẫn không hề được cứu xét. Còn lần này, ngoài sức tưởng tượng của hàng trăm bạn đọc đã đánh dấu “like” vào các Tâm thư và Khuyến nghị liệt kê trên, Facebook đã gỡ bài viết xuống, với lý do được nêu là các bài viết ấy “cố tìm cách thu thập thông tin nhạy cảm của người khác”. Cụ Bin tất nhiên đã phản đối quyết liệt và đòi Facebook phải khôi phục lại các bài viết của mình [5]. Rõ ràng, sự tiến hóa của trái tim Nguyễn Đình Bin đã vượt xa tư duy và bãn lĩnh của Lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN). Lời hiệu triệu của Cụ, được dẫn lại từ nhiều nguồn khác trên Internet, vẫn vang vọng: “Tất cả con Lạc cháu Hồng, có lòng yêu nước, thương nòi, phải cùng nhau vứt bỏ mọi hận thù, thành kiến, định kiến, cố chấp, cực đoan, mặc cảm, nghi kỵ, ngộ nhận, hiểu lầm! Phải dẹp lại mọi bất đồng, chấm dứt những điều bất hạnh nói trên, đang hàng ngày, hàng giờ ngoáy vào vết thương chung, sau gần nửa thế kỷ, vẫn còn đang tiếp tục rỉ máu, hủy hoại sức mạnh của Dân tộc ta!” [6]. Nguyễn Đình Bin là hiện thân của cuộc tiến hóa đầy máu và nước mắt, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thân phụ của Cụ hy sinh mất xác trên dòng sông ở quê hương. Vậy mà Cụ vẫn nuôi dưỡng được một tấm lòng nhân ái, biết vượt qua đau thương, mất mát để tiến lên phía trước, cả về mặt cảm xúc lẫn nhận thức. Những nỗ lực và lời kêu gọi từ tấm lòng bao dung, đầy nhiệt huyết ấy, từ sự chân thành hiếm hoi ấy, vẫn chưa được ĐCSVN đón nhận. Động lực nào khiến Nguyễn Đình Bin, với trái tim trong trắng bao lần bị tổn thương, với tư duy logic bao lần bị phớt lờ như thế, mà vẫn không nao núng kêu gọi Đảng thay đổi về nhận thức, tư tưởng đối với các giá trị dân chủ, nhân quyền và tự do? Theo một số anh em từ Viện Khoa học chúng tôi có dịp trao đổi những ngày qua, câu trả lời là, dù không chuyên về AI, nhưng với tư duy logic, Cụ Bin nhận biết, một khi “đạo hàm đổi dấu” thì “trend” mới sẽ xuất hiện! Vì vậy, Cụ quả quyết, giờ là lúc “mọi điều kiện chủ quan và khách quan, đối nội và đối ngoại, đã quá chín muồi, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng trọng đại và cấp bách về tư tưởng! Thời cơ lịch sử – vận Nước cũng như vận Đảng – đang đến! Phải quyết tâm nắm lấy! Không được bỏ lỡ!” (7). Nói đến vận nước, chắc hẳn Cụ đã nghĩ về lịch sử: Lý Thái Tổ (Công Uẩn) từng nằm gai nếm mật hơn 30 năm, sau đó nhờ vào sự ủng hộ của quân đội và giới Phật giáo mà lập nên triều đại Hậu Lý. Mạc Thái Tổ (Đăng Dung) cũng trải qua hành trình dài phát triển về tư duy chính trị, quân sự và chiến lược để cuối cùng lập nên triều đại của riêng mình. Còn Tô Đại tướng, từ cương vị một Bộ trưởng Công an, tương đương với “Thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ” thời Nhà Lý, chỉ sau mấy năm đã nhanh chóng đạt đến ngôi “cửu trùng”. Bước ngoặt này chắc chắn gây bất ngờ đối với rất nhiều đồng chí trong Đảng. So với tiền nhân, thời gian “nằm gai nếm mật” của Tô Đại tướng chưa hẳn “đủ dày”, nhưng ai dám nói Tô Lâm không có công lớn trong sự nghiệp dang dở của cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng? Nhưng liệu Tô Đại tướng đã tích lũy đủ trí huệ cho giai đoạn “trị quốc – bình thiên hạ” trước mắt? Theo ý của Facebooker Thái Hạo, làm một cuộc cách mạng thì dễ, thay đổi não trạng một dân tộc mới là khó… [8] Khi dân trí và văn hóa chính trị của giới chóp bu chưa chuyển thì vận nước cũng khó đến trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, nếu có thêm được các yếu tố may mắn (thiên thời – địa lợi), Đại tướng Tô Lâm có thể tận dụng thời cơ vàng, hay như người Pháp thường nói, đón bóng đúng tầm sẽ ghi bàn (saisir le ballon au bon moment)! Nhớ lại những năm tháng được làm việc dưới trướng Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin… Là lớp “kèo dưới”, cả về tuổi tác lẫn vị trí công việc, nhưng chúng tôi bao giờ cũng được Cụ lắng nghe. Tờ báo “World Affairs Weekly” bị bắt buộc phải ghi dưới măng-sét là “Cơ quan của Bộ Ngoại giao”, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn “xé rào” đăng nhiều kỳ (feuilleton) bài của các tác giả “có vấn đề” với Nhà nước liên quan đến các khuyến nghị chính sách về đối ngoại. Không ít lần báo đã bị Ban Văn hóa tư tưởng thổi còi. Một lần, khi lăng-xê khái niệm “counterbalancing” (qua Mỹ để đối trọng lại Trung Quốc…), những người liên đới suýt bị kỷ luật. Không có bản lĩnh Nguyễn Đình Bin và khí phách Trần Quang Cơ [9] thời ấy, chắc chắn chúng tôi đã lãnh đủ. Tuy nhiên, so với những kiến nghị “bom tấn” hiện nay của Cụ, những bài viết ngày ấy còn xa mới bén gót được các đề xuất giờ này của Cụ. Tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm của Cụ Bin thật đáng kính trọng, thêm vào đó là sự tiếc nuối vô bờ của chúng tôi mỗi lần nghĩ về trí tuệ đi trước thời đại của Nguyễn Đình Bin mà vận nước dường như vẫn còn đến chậm! Tham khảo: [1] https://www.youtube.com/watch?v=SJ09mczz64E [2] https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c5ykenx89plo [3] https://xuandienhannom.blogspot.com/2015/12/127-nhan-si-tri-thuc-gui-bo-chinh-tri.html [4 – 5 – 6 - 7] https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841 [8] https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02HqkvWCT6wRZofCEd1VC8BwsTD7Myq21Sadq6NM14rkJso7d29tgnmW13RBJydRkWl&id=100059910855657 [9] https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/06/150629_tranquangco_profile
......

Tôi đi học

Thanh Tịnh Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã. Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học. Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn. Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi: - Mẹ đưa bút thước cho con cầm. Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm: - Thôi để mẹ nắm cũng được. Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi. Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa. Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần. Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ. Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ. Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ: - Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại). Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn. Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói: - Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học. Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi. Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi. - Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa. Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết. Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao. Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi. Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc: Bài tập viết: Tôi đi học! [Trích từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.]  
......

Những lời tâm huyết của một nhà ngoại giao kỳ cựu

Nguyễn Công Bằng Ngày 2/9 là ngày Quốc khánh (National Day) của nước CHXHCN Việt Nam, nhiều người vui vẻ đi chơi lễ hội nhân dịp nghỉ dài ngày, nhưng nhiều người đau đáu với đất nước thì đang xôn xao với một loạt bài đăng trên Facebook cá nhân của ông Nguyễn Đình Bin - Cựu Thứ trưởng thường trực, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Theo như lời tự giới thiệu, Nguyễn Đình Bin năm nay 80 tuổi, có 62 năm là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, có thể khẳng định ông Bin là cộng sản “xịn”, và hiện nay vẫn đang là đảng viên, chứ không phải thuộc nhóm “phản động, bỏ đảng” như một số dư luận viên hay chế giễu người khác. Ông Nguyễn Đình Bin có mối quan hệ thân thiết với Fidel Castro - Lãnh tụ của phong trào cộng sản Cu Ba (là con nuôi của Fidel). Trong loạt bài mới công bố sáng ngày 2/9 trên FB của ông Nguyễn Đình Bin, có tâm thư gửi ông Tô Lâm - Tổng bí thư, Chủ tịch nước đương nhiệm, ngoài ra cũng đưa lại tâm thư gửi người tiền nhiệm của ông Tô Lâm là ông Nguyễn Phú Trọng - là Tổng bí thư nhưng mới qua đời cách đây không lâu. Trong tâm thư gửi ông Tô Lâm ngày 4/8/2024, ông Bin có đề cập: “Rõ ràng là hệ thống chính trị hiện hành, chế độ xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác – Lê nin mà Đảng ta vẫn kiên trì bảo vệ và thực hiện đã khủng hoảng trầm trọng!” Ông Bin cũng nhắc lại hoàn cảnh hiện nay đang giống với giai đoạn trước năm 1986, khi mà ông Trường Chinh - Tổng bí thư khi đó đã “dũng cảm quyết định từ bỏ mô hình quản lý kinh tế theo quan điểm Mác – Lê nin, xã hội chủ nghĩa đã thực sự lỗi thời, là cội nguồn sinh ra tình hình khủng hoảng đó, để chấp nhận và vận dụng vào nước ta kinh tế thị trường, là một thành tựu nhân loại đã đạt được, mà cho đến thời điểm ấy, cá nhân đồng chí cũng như Đảng vẫn coi là thù địch…”” Vì vậy, ông Bin “thống thiết kiến nghị đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước noi gương Tổng Bí thư, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh, hãy dũng cảm từ bỏ cội nguồn sinh ra tình trạng khủng hoảng này, là hệ tư tưởng mà Đảng vẫn kiên trì níu giữ, là nền tảng của hệ thống chính trị hiện hành…; chấp nhận và vận dụng vào nước ta nhà nước thực sự pháp quyền, với ba quyền phân lập, thực sự dân chủ, đa đảng, xã hội dân sự, đang phổ cập trong thế giới tự do, dân chủ, văn minh, phù hợp quy luật phát triển khách quan lịch sử nhân loại.” Trong tâm thư gửi ông Nguyễn Phú Trọng ngày 19/5/2024, ông Nguyễn Đình Bin có nhắc lại một nội dung mà ông đã từng gửi ông Trọng trong tâm thư năm 2020: “sau khi Đảng quyết định đổi mới về kinh tế tại Đại hội VI, tôi đã tin tưởng rằng: Đảng phải thực hiện đổi mới cả về chính trị, như nghị quyết đã xác định “đổi mới toàn diện và đồng bộ”. Cụ thể là phải xây dựng nhà nước thực sự pháp quyền, với ba quyền phân lập, giám sát, kiểm soát lẫn nhau, đa đảng, xã hội dân sự, thực sự dân chủ. Cũng như kinh tế thị trường mà Đảng đã quyết định chấp nhận và vận dụng vào nước ta, thể chế chính trị này cũng là một thành tựu của nhân loại đạt được cho đến nay, đã được thực tế lịch sử trên thế giới kiểm nghiệm và chứng minh là mô hình quản trị quốc gia, kiểm soát quyền lực tốt nhất, tạo mọi điều kiện cho nhân dân được thực sự tự do, làm chủ đất nước thực sự, chứ không phải chỉ là“đặc thù của chủ nghĩa tư bản, thù địch với chế độ ta”, như vẫn ngộ nhận”. Ông Bin cũng cho biết, ông đã đề nghị gặp riêng ông Nguyễn Phú Trọng để trình bày những vấn đề tâm huyết của mình từ cuối năm 2018, nhưng ông Trọng đã không gặp, mà chỉ cho trợ lý của mình khi đó là ông Hồ Mẫu Ngoạt tiếp chuyện ông Bin. Chúng ta nên nhớ, ông Trọng là người khởi xướng việc yêu cầu 19 điều đảng viên không được làm, trong đó có nội dung “Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin”. Dưới sự “lãnh đạo” của ông Trọng, tư tưởng tam quyền phân lập bị coi là độc hại, dẫn đến các đảng viên “tự chuyển hoá” vì thế bị nghiêm cấm. Các tay bồi bút đã ra sức viết những bài bác bỏ tư tưởng tam quyền phân lập mà ông Bin có nhắc tới trong các đề nghị của mình. Có lẽ vì sự khác biệt trong tư tưởng mà ông Trọng đã phớt lờ các ý kiến góp ý tâm huyết của ông Bin, người cùng tuổi nhưng không ở đỉnh cao quyền lực như mình. Trong tâm thư gửi ông Trọng năm ngày 19/5/2024, ông Bin đã chỉ ra thực trạng: “Càng ra sức đốt lò, ra sức chống tham nhũng, tiêu cực, thì tham nhũng, tiêu cực, cũng như các quốc nạn khác, càng lây lan, càng phát triển trầm trọng! Càng nỗ lực xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, thì Đảng càng hư hỏng nghiêm trọng!” Ông Bin đã nêu ra nguyên nhân: “Phải nhìn thẳng vào sự thật và gọi đúng tên con bệnh! Rõ ràng là hệ thống chính trị, chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng đang ra sức xây dựng và kiên trì bảo vệ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng! Còn về đối ngoại thì, biến động mới nhất, nổi bật nhất, nghiêm trọng nhất là cuộc chiến tranh xâm lược cực kỳ man rợ của Liên bang Nga, một thành viên sáng lập, ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, chống lại Ukraine, một quốc gia láng giềng độc lập, có chủ quyền, cũng là thành viên Liên hiệp quốc. Đây là một tiền lệ vô cùng nguy hiểm, chà đạp thô bạo các chuẩn mực cơ bản luật pháp quốc tế hiện hành và đạo lý phổ cập, đe dọa nghiêm trọng hòa  bình, an ninh, kinh tế và luật pháp quốc tế, đi ngược lại dòng chủ lưu lịch sử loài người hiện đại”. Rõ ràng, nhiều người ở Việt Nam đều biết căn nguyên của vấn đề, vì sao Việt Nam đắm chìm trong tham nhũng, và mặc dù ông Trọng đã trải qua gần 3 nhiệm kỳ để cố gắng “nhốt quyền lực trong một cái lồng” nhưng vấn đề quan trọng nhất là người giữ chìa khoá của cái lồng quyền lực đó lại chưa phải là nhân dân, cho nên tệ nạn tham nhũng sẽ không bao giờ giải quyết được. Tuy gần như ai ở Việt Nam cũng đều biết điều ấy, thế nhưng, ông Bin là một người dũng cảm khi công khai những vấn đề đó. Những kinh nghiệm quý báu của một đời làm ngoại giao cùng với những kiến thức tích luỹ qua quá trình học tập và làm việc của mình đã được ông Nguyễn Đình Bin chắt lọc trong các bài viết này của mình. Có lẽ, chỉ nay mai thôi, hàng loạt “đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” sẽ ùa vào tấn công và đấu tố ông Bin, hòng “vú cả lấp miệng em”, nhưng những chân lý thì mãi mãi không thể phai mờ, cho dù nhà cầm quyền có dùng bạo lực nhằm đổi trắng thay đen, thì cũng sẽ không khuất phục được những giá trị mà cả nhân loại cùng theo đuổi, đó là tự do, dân chủ và nhân quyền./.   https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841 https://congan.dongthap.gov.vn/chi-tiet-bai-viet/-/asset_publisher/wbj7qfWZntAi/content/id/8396451 https://www.tapchicongsan.org.vn/tin-binh-luan/-/asset_publisher/DLIYi5AJyFzY/content/nhap-khau-thuyet-tam-quyen-phan-lap-hay-la-bai-co-xuy-bat-on-chinh-tri-xung-ot-quyen-luc
......

Kiều bào nào vậy?!

nam gia's blog   Tin được đưa ra vào ngày 21 tháng Tám năm 2024 từ trang "Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài" phỏng vấn Thứ trưởng bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng [1] với câu hỏi: Sau 20 năm triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với NVNONN, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, còn đặt ra những yêu cầu và thách thức gì cho công tác này trong tình hình mới, thưa Thứ trưởng?" Bà Thứ trưởng Bộ Ngoại giao trả lời, trong đó có đoạn: "... công tác vận động NVNONN mặc dù đã có bước đột phá, nhưng chưa đạt kết quả như mong muốn. Một bộ phận nhỏ kiều bào chưa thực sự mở lòng, xóa bỏ định kiến".   Câu trả lời của bà Hằng đã được mang ra bàn luận tiếp tục, bởi "cái định kiến" như bà ta nói, vốn chưa hề mất đi, dù chiến cuộc đã tàn ngót nghét gần nửa thế kỷ, tính từ 30 tháng Tư năm 1975.   Tình cảm - dù thương yêu hay khinh ghét - nó là một quá trình. Không thể có loại tình cảm "quay ngoắc" trong một sớm một chiều. Không thể có hôm nay thương yêu, vài ba năm sau khinh ghét và ngược lại. Dù tình yêu gia đình hay quê hương cũng vẫn tuân theo quy luật tự nhiên như vậy.   Một bộ phận nhỏ kiều bào à? Kiều bào là gì? Đó là những người ở ngoài quê hương vẫn tha thiết với quê mẹ, sau quãng thời gian ly hương vì hoàn cảnh, họ nỗ lực vươn lên, bằng những thành đạt có thật cùng cuộc sống hạnh phúc, giờ đây họ muốn làm cầu nối với nơi "chôn nhao cắt rún", để mang tri thức - vốn liếng về giúp cho quê mẹ, thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu.  Bà Lê Thị Thu Hằng đang nói về những "kiều bào" nào vậy (?).   Nói đến "kiều bào" không thể không nhắc về Sài Gòn - Đô thành hoa lệ  - đã phôi pha từ ngày Việt Nam Cộng Hòa sập đổ. Thành phố Hồ Chí Minh sau khi chiếm ngự, nó đã được phép lui xuống hạng nhì, khi tính trên danh chánh ngôn thuận của một nhà nước, với thủ đô Hà Nội. Đó là điều dĩ nhiên và tất yếu. Không có gì bàn cãi.   Nói về Sài Gòn lại càng không thể không nhắc lại những kỷ niệm đau thương khó vùi chôn theo năm tháng - Thuyền Nhân. Thuở đó, người dân Sài Gòn để lại một "tục ngữ sống" - Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá. Câu này hàm ý: Một là con vượt biên thành công, con cố gắng làm lụng để gởi tiền về cho má và gia đình trong cơn bĩ cực. Hai là con bị bắt và ở tù, má ráng nuôi con. Ba là con chết mất xác trên biển và làm mồi cho cá. Câu "tục ngữ sống" như lời thề: Một đi không trở lại! Lớp trẻ bây giờ mấy ai hiểu và cám cảnh cho những phận người vong quốc!    Trôi theo dòng đời... những Thuyền Nhân năm xưa, họ đâu có "dính dáng" gì với thành phố Hồ Chí Minh? Họ càng xa lạ với Hà Nội! Họ cũng không còn là người Việt Nam từ lâu. Thế cho nên, mới có khái niệm người Mỹ (Úc - Canada - Pháp v.v...) gốc Việt.   Lịch sử Việt Nam vốn phức tạp. Càng phức tạp hơn với sự hình thành khái niệm "Bên Thắng Cuộc". Ngày 29/4/2020, trả lời phỏng vấn nhân kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng Tư năm 1975 từ báo Quân Đội Nhân Dân, Cố cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vinh cho biết [2]: “Cứ vào dịp 30-4 hằng năm, giống như mọi người dân Việt Nam, tôi đều nghĩ đến chiến thắng và trào dâng niềm tự hào dân tộc. Tôi tin chắc rằng hàng trăm năm sau nữa, người dân Việt Nam vẫn luôn có cảm nhận chung như vậy”. Làm sao có thể hiểu cho nổi, "kiều bào" nào phải tháo chạy mọi cách và bỏ mạng mọi kiểu, kể từ loại "chiến thắng và trào dâng niềm tự hào dân tộc" như ông Vịnh nói? Có nhà nước nào trên thế giới đối xử với "kiều bào" như vậy không (?). Có quốc gia nào, cả nửa thế kỷ vẫn giương giương tự đắc; vẫn hân hoan thích thú giành phần thắng lợi với "kiều bào" của họ (?)   Một nhà nước chính danh mang tên Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được Liên Hợp Quốc công nhận; có quan hệ ngoại giao với hàng trăm quốc gia khác; có chánh sách "làm bạn với thế giới" cho tới nay vẫn còn phải kêu rên: "Một bộ phận nhỏ kiều bào chưa thực sự mở lòng, xóa bỏ định kiến" nghe thật tội nghiệp, không khác một nạn nhơn bị bạo hành tinh thần (!).   Gần nửa thế kỷ, "kiều bào xưa" đã cũ. Thế giới dường như cũng xếp bi kịch đó vào trong những bài giảng, những cuốn sách tại... nước ngoài. Người Việt Nam (mà phải gọi thêm) Xã Hội Chủ Nghĩa vẫn đang lũ lượt kéo nhau vượt biên bằng mọi cách và thiên hạ mỉa mai với khái niệm "Thùng Nhân" ngày nay. Mới nhứt, trang fanpage của đài BBC vào ngày 22 tháng Tám năm 2024 cho hay [3]:   "HONG KONG TRẢ LẠI VIỆT NAM 22 NGƯỜI NHẬP CƯ BẤT HỢP PHÁP. Sở Di trú Hong Kong đã hồi hương 22 người Việt Nam nhập cảnh bất hợp pháp hôm 21/8. Những người bị trục xuất gồm 13 nữ và chín nam, Sở Di trú Hong Kong cho biết trong thông cáo báo chí phát ra cùng ngày. Tất cả những người này đều nộp đơn xin áp dụng điều khoản “không đẩy trả lại” (non-refoulement), nhưng bị từ chối vì không đủ căn cứ. Trong nhóm 22 người còn có những người đã mãn hạn tù, từng phạm tội hình sự và bị kết án, theo chính quyền Hong Kong. Những năm gần đây, Hong Kong nhiều lần trục xuất người Việt Nam nhập cảnh bất hợp pháp. Tháng 1/2021, Hong Kong gửi 40 người nhập cảnh bất hợp pháp về Việt Nam. Trước đó, vào năm 2018, chính quyền Hong Kong từng trục xuất lần lượt 68 người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp vào tháng 1 và 83 người vào tháng 12".   Tin trên chỉ là một tin mang tính điển hình, trong vô vàn những bản tin từ các trang báo nước ngoài, về thảm nạn người Việt Nam vẫn tiếp tục vượt biên vô Mỹ - Anh - Pháp v.v... Điều đáng lấy làm lạ và chính bà Thứ trưởng Lê Thị Thu Hằng nên suy ngẫm rồi báo cáo cho Thủ tướng về hai điểm:   1. Các "kiều bào" này hầu hết đều được sanh trưởng và nhận sự giáo dục từ cái nôi Xã Hội Chủ Nghĩa. 2. Các "kiều bào" chắc chắn không có tri thức và càng không có vốn liếng để về giúp xứ xở thiên đàng.   Do đó, bà Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đừng lo lắng về "kiều bào xưa" mà nên sốt vó về "kiều bào nay". Bởi khi họ bị trục xuất về, sẽ gây thêm gánh nặng kinh tế và nguy nan về an ninh trật tự an toàn xã hội.   [1] https://scov.gov.vn/cong-tac-ve-nvnonn/tin-tuc/phat-huy-nguon-luc-tiem-n...   [2] https://www.qdnd.vn/45-mua-xuan-toan-thang/chien-thang-de-co-hoa-binh-61...   [3] https://www.facebook.com/BBCnewsVietnamese/posts/pfbid028DgnYLEwrqNVtZ1g...    
......

Âm mưu của tuyên giáo VC

Nguyen Huy Vu Giới tuyên giáo trong nước đang thực hiện một chiến dịch nhằm loại bỏ ảnh hưởng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một trong những việc làm đó là áp lực những nghệ sỹ từng có dịp biểu diễn cho cộng đồng hải ngoại và dưới lá cờ vàng — một biểu tượng thiêng liêng của họ — phải XIN LỖI công khai và hứa sẽ không thực hiện nữa. Việc hiểu đúng đắn vai trò, vị trí, và đóng góp của chính thể Việt Nam Cộng Hoà vào dòng lịch sử và văn hoá của dân tộc không chỉ là việc của các sử gia mà nó phải là tiếng nói của bất cứ những người Việt nào còn yêu nước. Bởi nếu không có những đóng góp của giới tinh hoa Miền Nam Việt Nam trong suốt 20 năm tồn tại trong một chính thể tự do của Việt Nam Cộng Hoà, văn hoá của Việt Nam hẳn sẽ nghèo đi rất nhiều. Một cách không thể phủ nhận, những đóng góp của Việt Nam Cộng Hoà chỉ trong 20 năm lớn hơn rất nhiều lần những gì mà chế độ Việt Nam Cộng Sản đã tạo dựng trong suốt gần nửa thế kỷ qua. Người Việt ở chính thể nào cũng là người Việt. Nhưng chính nhờ ở sự tự do có được ở chính thể Việt Nam Cộng Hoà mà sự sáng tạo đã thăng hoa, và cũng nhờ ở sự tự do mà kinh tế đã phồn thịnh. “Muốn thấy được sự thành công của một gia đình có lẽ trước hết hãy nhìn vào những đứa con. Đối với một chế độ hay một đất nước, muốn biết được sự văn minh của họ tất phải nhìn vào giới tinh hoa cũng như người dân của chế độ, đất nước đó. Phải nhìn nhận một điều rằng dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, chỉ vỏn vẹn có 20 năm, chế độ VNCH đã tạo ra một thế hệ trí thức văn nghệ sỹ lớn cùng những tác phẩm để đời nhiều ảnh hưởng mà nếu nhìn lại thì sự phát triển trong khoảng thời gian ngắn này của chế độ VNCH đóng góp và ảnh hưởng của nó lớn hơn hẳn bất cứ thời đại nào của dân tộc. Những tác phẩm từ sách báo, ca nhạc kịch từ cách nay gần nửa thế kỷ vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa của Việt Nam hiện nay và sẽ còn tiếp tục trong những tháng ngày tới.   Thế hệ trí thức có ảnh hưởng lớn nhất và được coi trọng nhất hiện nay cũng là thế hệ trí thức được đào tạo, gửi đi đào tạo, hoặc xuất thân từ chế độ VNCH. Nhiều người dù né tránh hay không nhắc đến VNCH nhưng cũng phải thừa nhận một điều rằng nhờ chế độ trọng dụng nhân tài mà họ được chọn lựa và gửi đi đào tạo ở nước ngoài với hi vọng về giúp sức cho quê hương. Nhiều người khi đánh giá lại chế độ VNCH và cho rằng nó có nhiều khiếm khuyết. Sự khiếm khuyết về mặt tự do của chế độ VNCH là điều không bàn cãi. Tuy vậy, muốn so sánh sự tự do và văn minh của một chế độ chúng ta không thể so sánh một chế độ non trẻ của Việt Nam với những chế độ dân chủ lâu đời theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ hay các nước phương Tây, đặc biệt khi mà Việt Nam đang ở trong thời chiến. Chúng ta cũng không thể so sánh chế độ VNCH theo những tiêu chuẩn của ngày nay, vì như vậy khác nào so sánh nền dân chủ của Hoa Kỳ ngày nay nơi có một tổng thống da đen với nền dân chủ của Hoa Kỳ trước đây khi những luật lệ kỳ thị người da đen vẫn còn chưa bãi bỏ. Muốn biết sự tiến bộ của chế độ VNCH thì ít nhất là so sánh nó với các nước trong khu vực hoặc những nước có xuất phát điểm tương đồng. Một trong các quan điểm của nhiều người là chế độ VNCH độc tài và tàn bạo. Nhưng khi so với các chế độ độc tài của Indonesia, Đài Loan, Hàn Quốc cùng thời thì rõ ràng sự cai trị của giới cầm quyền VNCH mềm dẻo, tự do, và ít tàn độc hơn nhiều. Dưới chế độ VNCH có những bắt bớ rải rác, nhưng mức độ ít hơn nhiều các nước khác trong khu vực, không hề có những cuộc thảm sát, giết người biểu tình hàng loạt như đã từng xảy ra ở Indonesia, Đài Loan, hay Hàn Quốc. Những chế độ này ngày nay đều đã thoát mình trở thành những nền dân chủ sống động, bền vững, thịnh vượng, và bỏ xa Việt Nam. Một phán xét khác của nhiều người đối với sự sụp đổ của chế độ VNCH đó là sự kém cỏi của những người lãnh đạo. Đây là một lập luận hời hợt. Rõ ràng là các lãnh đạo VNCH có những sai lầm, nhưng sự sụp đổ của một chế độ bắt nguồn từ những nguyên nhân xa và sâu hơn là vài sai lầm của một vài lãnh đạo VNCH. Ngày nay, những phân tích lịch sử đã được phân tích và đánh giá lại tương đối đầy đủ, đó là sự thất bại của Việt Nam Cộng Hòa bắt nguồn từ sự bỏ rơi và lừa dối của người Mỹ. Tại sao lại có điều này”? (*)Tựa do Việt Tin đặt  
......

Ca sĩ, người nổi tiếng đua nhau xin lỗi vì cờ vàng

Chi Mai (VNTB) Có lẽ cái trend ca sĩ đua nhau xin lỗi để cũng là cách thể hiện lòng yêu nước kiên định so kè với trend vẽ cờ lên nóc nhà Quốc Nghiệp – Ngọc Mai  Hồi tháng 5/2024, hai vợ chồng Quốc Nghiệp Ngọc Mai đã bị chỉ trích nặng nề vì lỡ để lọt hình cờ vàng khi cho đăng một tấm hình trong phòng ngủ ở Mỹ.   Sau khi bị chỉ trích, Quốc Nghiệp đã nhanh tay xin rút kinh nghiệm sâu sắc và hứa không để sự việc tương tự xảy ra. Người này cho biết vì “không để ý chung quanh, không kiểm soát chi tiết những gì lọt vào camera” trong khi gia đình chơi đùa với nhau.  Sau vụ lùm xùm, Ngọc Mai đã “dừng công tác tại Nhạc viện TP HCM”. Từng có tên trong danh sách đề nghị xét tặng danh hiệu NSƯT, chắc hẳn Ngọc Mai đã bị loại ra khỏi danh sách NSƯT rồi.      Quốc Nghiệp và Ngọc Mai đăng hình có cờ vàng lên Facebook.   Cách đây một tuần lễ, Sở VH-TT TP.HCM đưa tin họ không biết hai vợ chồng Quốc Nghiệp và Ngọc Mai ở đâu. Sau Quốc Nghiệp và Ngọc Mai, mạng xã hội đã tiếp tục đào bới ra những ca sĩ, người nổi tiếng từng đi Mỹ và biểu diễn dưới cờ vàng. Trong đó có Myra Trần, một ca sĩ tham gia biểu diễn cho Thuý Nga Paris, Phan Đình Tùng, Phạm Khánh Hưng và cả Tóc Tiên cũng thức thời, lên tiếng xin lỗi trước khi bị bới móc.    Đua nhau xin lỗi mới là thức thời Lời xin lỗi của các ca sĩ này đi theo một hướng chung của tất cả những bản tự kiểm điển hình. Ai cũng đều tự hào là người Việt Nam, có dòng máu Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam. Nhận lỗi vì đã có những lúc biểu diễn ở nơi không phù hợp, thiếu quan sát xung quanh nên đã để “lọt cờ vàng” vào trong khung hình. Và cuối cùng là hứa rút kinh nghiệm để không xảy ra sự việc tương tự trong tương lai. Chỉ từ một việc vô tình, nhưng qua lời xin lỗi của các ca sĩ, thì vụ việc đã nhuốm màu chính trị.  Ca sĩ Tóc Tiên từng có nhiều năm du học tại Mỹ bộc bạch bản thân luôn ý thức thượng tôn pháp luật trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật. Ca sĩ tự nhận đã cống hiến hết sức mình cho nghệ thuật nước nhà nói riêng và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc lẫn các hoạt động xã hội nói chung.  Phan Đình Tùng gửi lời xin lỗi chân thành nhất đến tất cả quý khán giả, vì sự sơ sót và chủ quan này của bản thân mà đã vô tình gây ra sự bức xúc cho quý khán giả của mình.  Phạm Khánh Hưng cho biết chưa bao giờ có hành động hay phát ngôn đi ngược lại với chủ trương của đất nước ta.  Nam ca sĩ nhận thấy bản thân còn sơ sót và chủ quan trong nhiều khâu…  Ca sĩ Myra Trần khẳng định rất hùng hồn là mình không có tư tưởng chống phá gây hại đến an ninh quốc gia. Cô cũng xác nhận chưa bao giờ có hành động hay phát ngôn nhằm mục đích không tốt, ảnh hưởng đến người khác.   Có lỗi gì mà xin?  Những người phát hiện ra cờ vàng trong các hình ảnh của những ca sĩ này, nói thẳng, đều  không phải là khán giả thật sự. Mà những người thật sự khơi mào cho trào lưu đấu tố nghệ sĩ trót biểu diễn dưới cờ vàng không ai khác là hàng vạn dư luận viên.  Vì thế, các ca sĩ  thật ra là đang xin lỗi hàng vạn dư luận viên và các đảng viên, đoàn viên thanh niên đang được phân công làm nhiệm vụ chính trị trên không gian mạng. Điều 315 Bộ Luật hình sự 2015 có quy định về tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, nhưng không có quy định về những tội danh liên quan đến quốc kỳ của một quốc gia hay thể chế khác. Bộ Luật hình sự cũng không có các quy định cấm người dân không được chụp hình, quay phim hay hiện diện ở những nơi có treo hay trưng bày cờ vàng. Những người chủ động treo cờ vàng thì bị xử lý tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo khoản 2 Điều 88 Bộ luật Hình sự.  Như vậy việc các ca sĩ “lỡ” hát hay sinh hoạt nơi có treo cờ vàng đều không vi phạm pháp luật. Vậy tại sao họ lại phải xin lỗi khi làm những việc mà pháp luật không cấm? Nếu đã soi, thì tất cả những ca sĩ, diễn viên nào đã từng đi biểu diễn phục vụ các cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại sẽ đều có cờ vàng.  Có lẽ, vài ngày tới sẽ còn có các ca sĩ, diễn viên lên tiếng xin lỗi dài dài cho tới dịp quốc khánh.   Sợ bị truy sát hay sợ bị bắt nhốt? Đàm Vĩnh Hưng ở hải ngoại bị kết tội là người của cộng sản đi làm nhiệm vụ chính trị. Những cuộc biểu diễn của Đàm Vĩnh Hưng không it lần bị cộng đồng tị nạn cộng sản kéo tới biểu tình phản đối cùng với cờ vàng. Chỉ vì một lỗi vô tình vì đeo một trang sức không phù hợp mà ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng bị cấm biểu diễn trong thời gian 9 tháng. Còn nếu có cờ vàng như vậy thì không chỉ là 9 tháng cấm biểu diễn mà là đối diện với trách nhiệm hình sự và bị cấm hát, diễn dài hạn.   Nhưng có lẽ cái làm cho họ sợ hơn hết là việc đấu tố những hành vi liên quan đến cờ vàng, gieo rắc sợ hãi và cách trừng phạt lỗi lầm khi bị nâng lên tầm chống phá nhà nước, hay khép tội phản quốc. Có lẽ sợ hãi nên các ca sĩ đã đua nhau xin lỗi trước để nhận được sự khoan hồng. Trước là sự khoan hồng của cộng đồng mạng dưới sự dẫn dắt của dư luận viên, sau là của đảng và nhà nước.    Nên tạo trend mới  Hiện trend vẽ cờ Tổ quốc lên mái nhà đang được cho lan tỏa trên cộng đồng mạng tại Việt Nam để thể hiện lòng yêu nước. Có lẽ vậy mà cái trend ca sĩ đua nhau xin lỗi cũng là cách tương tự để thể hiện lòng yêu nước của các ca sĩ này. Nhưng thiết nghĩ, xin lỗi không vậy chưa đủ yêu nước đâu! Các ca sĩ Việt Nam yêu nước nên thêm điều khoản “không biểu diễn dưới cờ vàng” vô các hợp đồng biểu diễn ở nước ngoài. Ngoài ra các ca sĩ còn nên mang vẽ cờ lên mặt, mặc trang phục có in cờ đỏ sao vàng, hay là đeo cờ lên trán mọi lúc mọi nơi.  Hát xong thì nên có tiết mục tặng cờ cho khán giả nữa. Thêm vào đó, các ca sĩ nên ngay  lập tức sơn cờ lên nóc nhà, tạo trend sơn cờ trên nóc xe hơi hay trên xe máy.  Làm được vậy, các ca sĩ sẽ được dư luận viên ca ngợi là yêu nước rầm rầm chưa nói là còn tạo được trend yêu nước mới mùng ngày 2/9. Còn không, để cho an toàn, thì các ca sĩ nên chấm dứt luôn việc đi diễn cho các cộng đồng tị nạn ở nước ngoài cho nó lành. Tránh khỏi việc nơm nớp lo bị chụp mũ phản động, hay gián điệp gì đó lúc nào không hay./.    
......

Việt Nam cần quyết đoán hơn ở Biển Đông

Cách tiếp cận “hợp tác và đấu tranh” hiện tại của Việt Nam đối với hành vi hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông đã không lay chuyển được vị thế của Trung Quốc mà còn có khả năng cho phép Trung Quốc củng cố các yêu sách của mình. Để chống lại việc Trung Quốc tiếp tục vi phạm các nghĩa vụ hiệp ước quốc tế, Việt Nam cần có các biện pháp mang tính chủ động, không làm tổn hại đến sinh mạng và đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược với Philippines. Ngày 23 tháng 5 năm 2024, Việt Nam phản đối sự hiện diện của tàu bệnh viện Hải quân Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa và coi đây là sự xâm phạm đối với chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974, sau khi đánh đuổi quân đội miền nam Việt Nam đồn trú tại đây qua một trận hải chiến nhanh chóng. Tuy các thoả thuận được ký kết với Trung Quốc trong khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện năm 2008 hay việc giải quyết tranh chấp biển năm 2011 đều có sự cam kết của hai bên đối với việc duy trì sự ổn định tại Biển Đông và giải quyết hoà bình các tranh chấp biển và lãnh thổ, nhưng hành vi hung hăng dai dẳng của Trung Quốc vẫn tiếp tục là nguồn cơn gây rạn nứt. Đối phó với vấn đề này, Việt Nam theo đuổi chính sách “vừa hợp tác vừa đấu tranh” để ngăn chặn các tranh chấp biển leo thang và bảo vệ mối quan hệ song phương rộng hơn với Trung Quốc. Việt Nam cũng tin rằng việc thực thi Bộ Quy tắc ứng xử (COC) sẽ giúp giải quyết các yêu sách cạnh tranh và hạn chế hành vi ôn dịch của Trung Quốc. Mặc dù cách tiếp cận hiện nay của Việt Nam đối với sự khiêu khích ngày càng gia tăng của Trung Quốc là có thể hiểu được nếu xét đến các liên kết kinh tế và sự tương đồng chính trị với Trung Quốc, nhưng chính sách “vừa hợp tác vừa đấu tranh” và tư tưởng phụ thuộc sai lầm vào COC sẽ không làm thay đổi được hành vi hung hăng của Trung Quốc và cuối cùng sẽ cho phép Bắc Kinh củng cố các yêu sách của mình ở Biển Đông. Mặc dù, Việt Nam vẫn chưa phải chịu sự cưỡng ép của Trung Quốc tới mức độ mà Philippines hiện đang phải chịu tại Bãi Cỏ Mây. COC ít có khả năng sẽ mang tính ràng buộc pháp lý và tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Kể cả nếu COC có như vậy, thì Trung Quốc cũng sẽ không tuân thủ, minh chứng là hành vi vi phạm lặp đi lặp lại đối với Quy định va chạm (COLREGS) và việc từ chối tuân thủ phán quyết năm 2016 của Toà án Trọng tài Thường trực về tính hợp pháp của các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông. Mặc dù phán quyết này có tính ràng buộc đối với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh vẫn từ chối tuân thủ, tuyên bố rằng đây là phán quyết “vô hiệu” và “không có hiệu lực ràng buộc”. Với việc ban hành Luật Hải cảnh, Luật An toàn Giao thông Hàng hải và Quy định Lực lượng Hải cảnh, Trung Quốc thể hiện rõ ràng rằng nước này sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động vùng xám cưỡng ép nhằm củng cố các yêu sách bất hợp pháp của mình tại Biển Đông. Để có thể chống lại sự hung hăng của Trung Quốc và giành lại chủ quyền đối với lãnh thổ của mình tại Biển Đông, Việt Nam cần có các biện pháp chủ động nhằm thuyết phục Bắc Kinh thay đổi hành vi và tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế theo COLREGS và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển quốc tế. Tương tự như Hoa Kỳ trong những năm 1970, Việt Nam hiện đang đứng trước một bước ngoặt. Phản đối thông qua ngoại giao và giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba sẽ không ngăn cản được hành vi hung hăng của Trung Quốc thúc đẩy các yêu sách phi pháp. Để bảo vệ chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam cần làm nhiều hơn là chỉ lên tiếng phản đối hành vi bắt nạt của Trung Quốc và sự coi thường của họ đối với trật tự pháp luật quốc tế dựa trên luật lệ. Việt Nam cần buộc Trung Quốc phải trả những cái giá hữu hình vì hành vi khiêu khích của mình. Năm 2015, Việt Nam ký kết thoả thuận đối tác chiến lược với Philippines nhằm củng cố hợp tác biển song phương và thúc đẩy việc thực thi các quy tắc, công ước được chấp nhận một cách phổ quát nhằm đảm báo an toàn và trật tự trên biển. Để thúc đẩy thoả thuận này, Việt Nam và Philippines có thể đàm phán hợp tác song phương nhằm quản lý chung tài nguyên tại vùng biển xung quanh các thực thể Philippines có yêu sách tại Trường Sa mà không làm phương hại tới các yêu sách chủ quyền của mỗi bên. Đổi lại, Philippines sẽ công nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam tại tất cả những thực thể còn lại và vùng nước cấu thành từ chúng tại Trường Sa và Hoàng Sa. Năm 2016, toà trọng tài quốc tế phán quyết rằng hành vi khiêu khích của Trung Quốc tại Biển Đông – chẳng hạn như đâm tàu, sử dụng vòi rồng và cản trở di chuyển, can thiệp vào các quyền liên quan đến tài nguyên và khẳng định bất hợp pháp quyền thực thi pháp luật đối với các tàu mang cờ nước ngoài bên ngoài lãnh hải của mình – vi phạm nghĩa vụ hiệp ước của nước này. Thẩm quyền được quy định trong luật Trung Quốc về quyền tài phán thực thi pháp luật đối với các tàu mang cờ nước ngoài bên ngoài lãnh hải của Trung Quốc cũng vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển – quyền tài phán độc quyền của quốc gia mà tàu mang cờ. Việt Nam, cùng với Nhật Bản và Philippines, có thể cùng đệ trình lên Tổ chức Hàng hải Quốc tế để chỉ ra những vi phạm lặp đi lặp lại của Trung Quốc và yêu cầu Hội đồng Tổ chức Hàng hải Quốc tế ban hành nghị quyết lên án hành động của Trung Quốc. Trung Quốc phải chịu trách nhiệm nhà nước đối với việc liên tục vi phạm các nghĩa vụ hiệp ước của mình. Do đó Việt Nam có thể có những biện pháp hợp pháp đối phó với Trung Quốc để khiến Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của mình. Việt Nam nên tiến hành các chiến dịch chống vùng xám bằng cách sử dụng các công nghệ không gây tổn hại đến sinh mạng, như vòi rồng, súng gây choáng, hệ thống ngăn chặn chủ động, thiết bị âm thanh tầm xa, bẫy thuyền và hệ thống răn đe bằng chất lỏng. Những biện pháp đối phó này nằm dưới ngưỡng sử dụng vũ lực và có thể được sử dụng như những biện pháp đối phó hợp pháp để thuyết phục Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ trong hiệp ước của mình. Tất nhiên, việc sử dụng các biện pháp đối phó không gây chết người sẽ làm tăng nguy cơ Trung Quốc có thể có hành vi hung hăng hơn đối với Việt Nam, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực gây chết người, nếu Trung Quốc nhận thấy hành động của Việt Nam là quá đáng. Nhưng cách tiếp cận hiện tại của Việt Nam là không hiệu quả trong việc ngăn chặn sự cưỡng ép của Trung Quốc, đặc biệt là khi Bắc Kinh tin rằng lợi ích rộng lớn hơn của họ ở Biển Đông đang bị đe dọa. Cách tiếp cận bấy lâu nay đã không ngăn cản được Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động dầu khí của Việt Nam, can thiệp vào hoạt động đánh cá của Việt Nam, áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và tấn công Việt Nam trong Trận Đá Gạc Ma năm 1988. Một phản ứng quyết đoán hơn trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc là cần thiết nếu Việt Nam muốn bảo vệ các yêu sách chủ quyền của mình ở Biển Đông. R.P. --- Raul ‘Pete’ Pedrozo là Giáo sư Howard S Levie về Luật Xung đột Vũ trang và Giáo sư Luật Quốc tế tại Trung tâm Luật Quốc tế Stockton, Đại học Hải chiến Mỹ.  Dương Ngô là ứng viên cộng tác với Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.  Nguồn bản dịch: Dự án Đại Sự Ký Biển Đông  
......

Một bộ phận nhỏ kiều bào chưa thực sự mở lòng, xóa bỏ định kiến

Nguyễn Tuấn    Đó là câu nói của chị Thu Hằng, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, kiêm Chủ nhiệm Uỷ Ban về Người Việt Nam ở Nước Ngoài [1]. Tôi định không có bình luận gì, nhưng thấy lấn cấn, nên phải viết vài dòng gọi là ghi chú. Câu nói đó của chị lúc nào cũng đúng. Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, kể cả ở trong nước Việt Nam, cũng có những người có định kiến và họ không 'mở lòng'. Thành ra, câu nói đó lúc nào cũng đúng. Và, vì lúc nào cũng đúng nên nó thừa. Làm quan chức lớn ắt phải có những phát ngôn mang tính thông thái (wisdom), hay nếu không thông thái, thì cũng có thể trích dẫn được (quotable). Còn cái câu lúc nào cũng đúng đó thì phải nói là rất khó trích dẫn để nhớ. Chị nói: "[...] một bộ phận bà con vẫn chưa tiếp cận được nguồn thông tin chính thống về tình hình đất nước, chưa có nhận thức đúng, đủ, kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước." Tôi thấy phát ngôn này hơi bậy nè. Bà con ở ngoài này, nếu họ quan tâm đến quê hương, thì họ có nhiều thông tin hơn những gì báo chí do Nhà nước kiểm soát cung cấp. Chị có để ý là cứ mỗi lần có thay đổi nhân sự ở trong nước thì bà con ngoài này đã biết trước khi báo chí đưa tin cả tháng trời. Họ thậm chí còn biết những chuyện 'thâm cung bí sử' do chính những bà con trong nước chuyển ra. Chẳng hạn như làm sao bà con trong nước đọc được các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Tô Hải, Trần Đĩnh, Lê Phú Khải, v.v. nhưng bà con ngoài này thì đọc lâu rồi. Chị có vẻ xem thường bà con ở hải ngoại. Một nghịch lí tồn tại bấy lâu nay: Những thông tin mà báo chí Nhà nước cung cấp thì bà con không muốn nghe/đọc (vì nó nhàm), nhưng những gì bà con muốn biết thì báo chí nhà nước không đưa. Đó là một sự 'lệch pha' giữa bà con ở hải ngoại và những người như chị. Định kiến? Định kiến gì thì chị không nói ra, nhưng bà con kiều bào ở hải ngoại có thể hiểu. Đó là những gì xảy ra trong quá khứ (mất mát, thù hận, đày đoạ, xung đột) khiến cho bà con phải rời quê cha đất tổ. "Lệ xoá cho anh được không những kỉ niệm đắng / Lời nói yêu thương ngày xưa có trở về tìm". Thử hỏi: bà con nào ở hải ngoại mà không yêu thương quê hương mình? Bất cứ người Việt nào ở hải ngoại cũng yêu Việt Nam, dù họ ra đi trong hoàn cảnh bi đát hay huy hoàng. Đó là ‘mở lòng’ rồi. Mở lòng mới gởi nhiều tỉ đôla về quê hương, và đã gởi như vậy liên tục suốt 40 năm qua. Nếu có người không ‘mở lòng’ (theo cách hiểu của chị Thu Hằng nghen) thì đó chính là họ không đồng tình với chánh phủ vì lí do nào đó. Chánh phủ khác với quốc gia, dân tộc. Tấm lòng của bà con kiều bào là như những câu ca của Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ: “Dù bóng tre xanh xao u sầu / Dù nước sông quê tôi đỏ ngầu / Dù ánh trăng hôm nay hoen màu / Dù xác ai đang phơi trên cầu” thì “Hoa vẫn nở trong tôi tình thương / Hoa vẫn nở trên đường quê hương.” À, mà không rõ chị có biết Phạm Thế Mỹ và ca khúc trên? Chắc không. Mượn cách nói của chị, bà con ngoài này cũng có thể nói như vầy: "Một 'bộ phận' bà con ở trong nước vẫn chưa mở lòng và xoá bỏ định kiến". Không tin? Hãy xem những phát ngôn đầy hận thù, hằn học, cay đắng của các DLV thì biết. Hay mới nhứt là báo chí nhà nước gọi việc bà con bên Gia Nã Đại giúp đồng hương bên Thái Lan và Nam Dương tái định cư ở Gia Nã Đại là 'buôn người'. Hết sức bậy bạ. Sẵn đây, bàn một chút về chuyện chọn chữ. Là người làm trong ngành ngoại giao, công chúng kì vọng chị ấy có vốn liếng chữ nghĩa kha khá. Thế nhưng trong thực tế thì có lẽ không phải như kì vọng. Chị nói "Một bộ phận nhỏ kiều bào". Vấn đề ở đây là danh từ 'Bộ phận'. Danh từ đó có thích hợp khi đề cập đến một cộng đồng bà con? Bà con chúng ta, dù họ chưa 'mở lòng', là đồng bào ruột thịt, chớ có phải là máy móc gì đâu mà gọi họ là 'bộ phận'? Tại sao không nói là "Một số bà con kiều bào" cho dễ hiểu mà phải dùng đến ngôn ngữ 'China hoá' như vậy. Một lời khuyên cho chị Hằng nè: lời nói rất quan trọng. Lời nói là sức mạnh. Lời nói có sức mạnh xoa dịu những 'kỉ niệm đắng', nhưng lời nói cũng có thể làm cho bà con và chị xa rời hơn. Nên 'lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau'. Lại nhớ đến Bài Không Tên Số Năm: 'Lời em nói sẽ còn mãi đấy, Chuyện mai sau xin gởi trên tay'. ____ [1] Tôi không rõ cái Uỷ Ban về Người Việt Nam ở Nước Ngoài này có chức năng là gì, nhưng thành thật mà nói, tôi thấy không cần. Thay vào đó, nếu Chánh phủ thật sự quan tâm tới 6 triệu bà con ở hải ngoại, thì họ nên lập một cái bộ, hãy tạm gọi là "Bộ Hoà Giải Dân Tộc". Hoà giải dân tộc mới là ưu tiên hàng đầu hiện nay, và sự hiện của một bộ như thế may ra sẽ có đóng góp tích cực.  
......

Chuyến đi của Tô Lâm và những cái bánh vẽ của Bắc Kinh

Nguyễn Công Bằng Chuyến đi của Tô Lâm mang thông điệp gì? Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm vừa kết thúc chuyến thăm Trung Quốc 3 ngày. Đến tối ngày 20/8 phía Việt Nam đã công bố Tuyên bố chung cho chuyến thăm cấp nhà nước này. Chuyến thăm này diễn ra chỉ nửa tháng sau khi ông Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam vào ngày 3/8 và cũng là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông sau khi nhậm chức. Tổng Bí thư Tô Lâm năm nay 67 tuổi, đã phục vụ trong ngành công an được một thời gian dài, giữ chức Bộ trưởng Công an từ năm 2016. Tháng 5/2024, Bộ trưởng Công an lúc đó là Tô Lâm được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam, thay thế ông Võ Văn Thưởng đã từ chức 2 tháng trước đó. Ngày 3/8, ông Tô Lâm được bầu làm tân Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam với số phiếu 100% (mà chỉ những nước như Việt Nam mới có), hoàn thành nốt nhiệm kỳ 2021-2026 của ông Nguyễn Phú Trọng, người đã qua đời vào ngày 19/7. Với tư cách là tân Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm chọn Trung Quốc là điểm đến trong chuyến thăm đầu tiên, điều này mang một số thông điệp. Kể từ khi bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991, đã thành thông lệ, bất cứ Tổng bí thư nào của Việt Nam sau khi nắm quyền sẽ phải sang Trung Quốc. Chỉ tính từ khi ông Nguyễn Phú Trọng - Người tiền nhiệm của ông Tô Lâm đã có nhiều lần sang Trung Quốc trong cương vị Tổng bí thư. Năm 2011, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng sau khi được bầu làm Tổng Bí thư là tới Trung Quốc; năm 2017, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng sau khi được bầu lại làm Tổng Bí thư tại Đại hội 12, với điểm đến lại là Trung Quốc. Sau khi Đại hội Đảng lần thứ 20 của Trung Quốc kết thúc năm 2022, ông Nguyễn Phú Trọng đã trở thành lãnh đạo cấp cao nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc. Chuyến thăm đó cũng là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng sau khi ông được bầu làm Tổng bí thư nhiệm kỳ thứ 3 tại Đại hội đảng lần thứ 13. Như vậy, theo thông lệ của Đảng cộng sản Việt Nam, chuyến thăm Bắc Kinh vừa rồi của ông Tô Lâm cũng rập theo khuôn mẫu đó. Tuy nhiên, nếu như ông Nguyễn Phú Trọng – người thực hiện chuyến thăm Trung Quốc sau khi nhậm chức đến vài tháng, thì ông Tô Lâm đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc chỉ nửa tháng sau khi nhậm chức lãnh đạo cao nhất của Việt Nam, một điều tương đối hiếm trong lịch sử. Thông điệp của ông Tô Lâm trong chuyến đi này giống như tuyên bố của ông ta khi vừa giữ chức Chủ tịch nước, ông đã gặp ngay Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba tại Hà Nội hồi tháng 6/2024 và nói rõ rằng: “Việt Nam luôn coi việc phát triển quan hệ với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại”. Về mặt đối nội, ông Tô Lâm vừa mới nhậm chức lãnh đạo cao nhất của đất nước, vẫn cần có kinh nghiệm ngoại giao. Chuyến thăm Trung Quốc thực hiện ngay sau khi nhậm chức sẽ giúp ông Tô Lâm khẳng định hơn nữa uy tín của mình ở trong nước, củng cố tính hợp pháp trong quản lý của ông và đảm bảo quá trình chuyển đổi của nền chính trị Việt Nam diễn ra suôn sẻ. Thành quả của chuyến đi - những cái bánh vẽ Trong Tuyên bố chung lần này, chúng ta có thể thấy, mặc dù câu chữ hơi khác đi một chút, nhưng những nội dung cơ bản thì gần như không có gì khác so với những Tuyên bố chung lần trước, cụ thể như Tuyên bố chung năm 2023. Có chăng, chỉ có một khác biệt nho nhỏ trong vấn đề Đài Loan, theo đó: “Phía Việt Nam khẳng định kiên định thực hiện chính sách “một Trung Quốc”, công nhận trên thế giới chỉ có một Trung Quốc, Đài Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc, Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc. Ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức, không phát triển bất cứ quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan.” Về kết quả của chuyến đi, ông Lê Hoài Trung  - Trưởng ban Đối ngoại Trung ương đã cho biết hai bên nhất trí: “mở rộng hợp tác kết nối giữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” với khuôn khổ “Hai hành lang, Một vành đai”; nhất trí đẩy nhanh xây dựng “kết nối cứng” về hạ tầng cơ sở, cửa khẩu, đường sắt qua biên giới giữa hai nước;” Phía Trung Quốc thì khẳng định “Trung Quốc sẵn sàng tăng cường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam, mở rộng các văn phòng xúc tiến thương mại tại Trung Quốc; Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nông sản chất lượng cao của Việt Nam tiếp cận thị trường Trung Quốc.” Như vậy, chúng ta có thể hiểu là Việt Nam chấp nhận cho việc Trung Quốc tham gia việc nghiên cứu phương án, tiến tới việc thực hiện xây dựng 3 tuyến đường sắt tại Việt Nam, trong đó có tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Viên chăn - Vũng Áng… Đổi lại, Trung Quốc hứa sẽ nhập khẩu nhiều hơn nông sản từ Việt Nam, và các doanh nghiệp Trung Quốc cũng sẽ đầu tư vào  Việt Nam nhiều hơn. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những cam kết miệng, nhìn vào các văn kiện ký kết của hai bên, chúng ta có thể thấy, trong số 16 văn kiện ký kết, chỉ có 3 Nghị định thư về trái dừa tươi, về cá sấu nuôi và về trái sầu riêng là có ý nghĩa, còn lại chỉ là bản ghi nhớ (MOU), không có bất kỳ giá trị cam kết nào. Đến đây, chúng ta lại nhớ năm 2016, khi Duterte - Tổng thống Philippines lên nhậm chức đã có ngay chuyến thăm Trung Quốc. Khi gặp Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, họ Tập đã hứa hẹn đầu tư 24 tỉ USD vào Philippines với nhiều thoả thuận được ký kết, nhưng sự thật thì sao? Chỉ là cái bánh vẽ mà thôi. Chính vì thế, năm ngoái, sau khi thất vọng với những lời hứa hão của Tập, cộng với dã tâm chiếm đoạt Biển Đông của Trung Quốc, Manila đã từ bỏ tham gia Vành đai và Con đường. Những bánh vẽ của Tập với Tô Lâm, chúng ta cứ chờ xem đã nhé.   https://baotintuc.vn/thoi-su/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-20240820193757236.htm https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=8378 https://nvsk.vnanet.vn/ho-so/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tham-chinh-thuc-trung-quoc-12-15-1-2017-3-137091.vna https://nhandan.vn/lam-sau-sac-quan-he-hop-tac-phap-luat-va-tu-phap-viet-nam-trung-quoc-post723155.html https://nhandan.vn/phat-trien-quan-he-voi-trung-quoc-luon-la-chu-truong-nhat-quan-lua-chon-chien-luoc-uu-tien-hang-dau-post819602.html https://baotintuc.vn/thoi-su/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-20240820193757236.htm https://nhandan.vn/phat-huy-ket-qua-chuyen-tham-thuc-hien-cac-thoa-thuan-dat-duoc-la-mot-nhiem-vu-quan-trong-trong-thoi-gian-toi-post825838.html https://nhandan.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-ve-den-ha-noi-ket-thuc-tot-dep-chuyen-tham-trung-quoc-post825814.html https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-cung-tong-bi-thu-chu-tich-trung-quoc-tap-can-binh-chung-kien-le-ky-ket-cac-van-kien-hop-tac-790170 https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-07-25/china-s-24-billion-promise-to-duterte-still-hasn-t-materialized
......

Việt Nam – người bất đồng chính kiến này vừa xong án tù, người khác lại bị kết án

songchi's blog Câu chuyện của Anh Phạm Văn Trội: 2 bản án, tổng cộng 11 năm tù Ngày 30/7 vừa qua anh Phạm Văn Trội ra tù, kết thúc 7 năm tù giam không thiếu 1 ngày (anh bị bắt vào ngày 30.7.2017). Anh bảo: “Tôi không xin mà họ cũng không cho, dù chỉ một giờ”. Thật ra đây là bản án tù thứ hai của anh, trước đó anh từng bị bắt vào ngày 11.9.2008, bị kết án 4 năm tù giam, 4 năm quản chế. Án thứ nhất là tội “tuyên truyền chống lại nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Án thứ hai là tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Những cáo buộc phi lý, phi nhân cùng với những bản án hết sức nặng nề, hà khắc.mà những người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động xã hội dân sự ôn hòa ở Việt Nam lẩn lượt đều phải gánh chịu. Anh Phạm Văn Trội kể, trước khi bị bắt lần thứ nhất anh làm cùng văn phòng với luật sư Nguyễn Văn Đài (người cũng từng là tù nhân lương tâm). Hết 4 năm tù giam anh về chịu thời gian quản thúc tại địa phương ở Chương Dương, Thường Tín, Hà Nội. Trong quá trình bị quản chế này anh và một số bạn bè, người quen thành lập Hội Anh Em Dân Chủ và anh là Chủ tịch của Hội (trong thời gian từ 26-4-2015 cho đến tháng 12-2016 thì rút). Mục đích thành lập Hội chỉ là để chia sẻ với nhau hiểu biết, kinh nghiệm về cuộc sống, tình cảm anh em, chẳng có một phương tiện gì có thể lật đổ chính quyền nhưng nhà cầm quyền vẫn bắt nhiều người của Hội Anh Em Dân Chủ với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”! Theo anh Trội “Việc họ bắt thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ hay Hội Nhà báo Độc lập là vì họ không muốn để cho các hội đoàn độc lập tồn tại ở Việt Nam, họ cho rằng sự tồn tại đó là nguy cơ tiếm quyền quản trị quốc gia của họ…Nhưng chúng ta đều biết hành vi bắt bớ để phá vỡ các hội đoàn tự nguyện xã hội dân sự ở Việt Nam như vậy là đã vi phạm nhân quyền, cái quyền đã được ghi rõ trong Luật Nhân quyền quốc tế và ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013”. Có khoảng 8, 9 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ bị bắt gồm Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn, Lê Thị Thu Hà, Trương Minh Đức. Sau đó thì họ bắt thêm các anh, chị Nguyễn Trung Trực, Trần Đức Thạch, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Thị Xuân. Các bản án đều hết sức nặng nề, nặng nhất là luật sư Nguyễn Văn Đài (15 năm tù, 5 năm quản chế nhưng khi đang thụ án thì vào tháng 6 năm 2018, luật sư Nguyễn Văn Đài và cộng sự Lê Thu Hà được chính phủ Đức can thiệp, để đưa sang Đức tị nạn chính trị; 13 năm tù như nhà báo Trương Minh Đức, nhà hoạt động Nguyễn Văn Túc, 12 năm tù như nhà hoạt động mục sư Nguyễn Trung Tôn, nhà hoạt động Nguyễn Trung Trực, nhà thơ Trần Đức Thạch, 11 năm tù như nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyển (anh Nguyễn Bắc Truyển cũng được nhà cầm quyền Việt Nam bất ngờ phóng thích và cùng vợ sang Đức tỵ nạn tháng 9/2023)…Tổng cộng là hơn 100 năm tù cho Hội Anh Em Dân Chủ. Bây giờ những người như nhà báo Trương Minh Đức, mục sư Nguyễn Trung Tôn, nhà nhà thơ Trần Đức Thạch, nhà hoạt động Nguyễn Văn Túc…vẫn đang ở trong tù, trong đó có người sức khỏe nguy kịch, bị nhiều bệnh nguy hiểm như mục sư Nguyễn Trung Tôn nhưng trại giam từ chối điều trị y tế…Hoặc nhà thơ bất đồng chính kiến Trần Đức Thạch (tác giả hồi ký nổi tiếng “Hố chôn người ám ảnh”, tố cáo tội ác kinh hoàng của quân đội Việt cộng trong trận đánh tại Tân Lập cuối tháng 4/1975, khi đó tác giả là bộ đội Bắc Việt), bước chân vào tù khi đã 69 tuổi--và đây là bản án tù lần thứ ba của ông, không hiểu ông có chịu đựng nổi 12 năm tù lần này? Cũng như hầu hết những thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, anh Phạm Văn Trội sinh ra và lớn lên hoàn toàn trong chế độ do đảng Cộng sản lãnh đạo. Lý lịch gia đình thuộc “thành phần cách mạng”. Bố anh trước đó là đảng viên đảng Cộng sản, đánh nhau với Pháp và bị bắt ra Côn đảo, nhưng năm 1982 thì cụ xin ra khỏi đảng, còn mẹ anh thì không phải là đảng viên đảng Cộng sản mà chỉ là thanh niên du kích, sau khi lập gia đình thì không tham gia sinh hoạt đảng, sinh hoạt chính trị nữa. Bản thân anh Phạm Văn Trội từng theo học chuyên ngành quản lý tại trường đại học quốc gia Hà Nội. Anh Trội kể, khi còn là sinh viên anh bị nhà trường nhồi nhét vào trong đầu rất nhiều thứ chủ nghĩa khác nhau, đặc biệt về chủ nghĩa Mác Lenin. Nhưng khi anh nghiên cứu về chủ nghĩa Mác Lenin thì thấy chủ nghĩa này không thực tiễn trong cuộc sống và anh bắt đầu tranh luận, phản biện, anh cho rằng Việt Nam áp dụng chủ nghĩa này thì đất nước sẽ dừng lại không phát triển và nhân dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là không khích lệ con người ta tham gia vào các hoạt động trong xã hội để thúc đẩy xã hội, thúc đẩy quốc gia. Đó là lý do chính mà anh nghĩ là cần phải thay đổi sang một mô hình chính trị khác, mang một hệ tư tưởng khác để người dân Việt Nam và quốc gia Việt Nam cất cánh bay cao, bay xa hơn. Quá trình tự nhận thức trở lại của anh bắt đầu là thế, chứ hoàn toàn không phải vì gia đình thuộc loại “phản động”, “có nợ máu với nhân dân” gỉ cả. Và anh bắt đầu viết rất nhiều bài về biển Đông, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, về vấn đề phải thoát Trung …cho tới khi bị bắt lần thứ nhất. Khi được hỏi anh lên tiếng, phản biện thì gia đình họ hàng phản ứng như thế nào, anh Trội cho biết: “Trong gia đình tôi có nhiều người có trí thức cho nên về cơ bản thì mọi người ủng hộ, nhưng bên cạnh đó mọi người rất sợ tôi bị bắt đi tù và sẽ có cuộc sống khổ sở, vì vậy mà mọi người khuyên ngăn chứ không ngăn cấm, khuyên vì sợ tôi đi tù chứ không khuyên tôi từ bỏ con đường này”. Anh nói thêm: “Tôi chỉ nhắc lại câu nói của Mao Trạch Đông là chính quyền Cộng sản ra đời từ họng súng, ở Việt Nam từ năm 1945 họ vẫn nói là họ đi cướp chính quyền của Trần Trọng Kim chứ không phải là được Trần Trọng Kim bàn giao chính quyền và họ duy trì cái chính quyền ăn cướp cho đến ngày hôm nay chưa một lần hỏi ý kiến nhân dân để xem cái mô hình đó có phù hợp hay không, nhân dân có đồng tình ủng hộ hay không v.v…” Cuộc sống trong ngục tù cộng sản Lần thi hành án thứ nhất, anh Trội bị đưa về trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Cuộc sống tù đày dưới chế độ Cộng sản đã tồi tệ, nhưng đối với tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị càng tồi tệ hơn gấp bội. Nhất là những khi bị “kỷ luật”. Trong thởi gian ở đây có những lần anh cùng các tù nhân lương tâm khác đấu tranh đòi một số quyền căn bản của tù nhân, và bị kỷ luật. Trại giam bắt anh và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, người cũng lên tiếng đấu tranh, dẫn đi giam riêng trong những cái buồng rất hà khắc. Buồng giam khoảng 8m có hai bệ nằm và lối đi là hết, không cửa sổ, không nhà vệ sinh, không bể nước, không đèn điện, cả ngày cứ tối thui. Tù nhân đi vệ sinh vào cái bô và đổ nước vào đó. Một ngày được ra 2 lần đi lấy cơm, uống nước và đi đổ bô, xách xô nước vào. Cứ thế trong vòng hơn 6 tháng. Trong thời gian bi kỷ luật thì như thế, còn hết thời gian kỷ luật thì lại ra sống chung, làm việc chung với mọi người. Khu chính trị thì đan lát, đan những sản phẩm mây tre để xuất đi châu Âu. Đây là một hình thức “bóc lột sức lao động của tù nhân” vì buộc họ phải làm việc mà không được trả tiền công. Khi giam chung thì ở Việt Nam các trại thường chia thành 2 nhóm tù nhân, tù hình sự thì giam chung rất đông, 70-80 người một buồng, án chính trị thì họ tách nhỏ ra cứ 4 người một buồng khoảng 12 mét vuông, còn lại lối đi và một nhà vệ sinh nhỏ và một bể nước. Nhà vệ sinh không có cửa, không che đậy, khi một người đi vệ sinh thì 3 người còn lại phải…ngửi mùi. Anh Trội cho biết, nhà cầm quyền thường làm nhà tù sát núi, vì vậy mùa hè thường rất nóng còn mùa đông thường rất lạnh. Thứ hai, nhà tù thường nằm trên các nghĩa địa đã được giải tỏa, rồi san lấp làm nhà tù. Ăn uống theo tiêu chuẩn có cơm, thịt, cá, rau, đường, nước mắm. Còn mì chính và muối thì trại giữ lại để nấu nướng. Nhưng chất lượng thịt cá, nấu nướng theo xuất ăn của trại rất tệ nên anh thường chỉ lấy cơm, còn lại gia đình phải gửi tiền vào để anh đặt mua thêm thức ăn. Mỗi tháng gia đình được đi thăm một lần, 1 tiếng đồng hồ. Còn điện thoại mỗi tháng một lần, 10 phút. Trước mỗi lần thăm gặp thì cả tù nhân lẫn người nhà đều được nhắc nhở chỉ được nói chuyện hỏi han gia đình, sức khỏe, tình cảm họ hàng. Tù nhân và người nhà ngồi từng dãy, nhìn thấy nhau qua màn kính ngăn và gọi nói chuyện qua phone, công an ngồi sát bên cạnh nghe, ghi âm toàn bộ những cuộc nói chuyện đó. Anh Trội nhận xét, qua 2 lần bị tù, lần thứ hai anh thấy điều kiện sống tệ hơn trước. Thức ăn tồi hơn, nhưng đặc biệt là tù nhân chính trị bị quản lý chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn. Anh Trội kể, chẳng hạn lần thứ nhất tôi được mang đàn guitar vào chơi, được mang sách vào đọc sách, được chơi cờ tướng ở trong buồng giam và được mua thức ăn tươi để tự nấu ăn, được nhận sách, bút, tất cả các loại, rất nhiều. Có những người có cả cái hòm to đựng sách, bút để viết, học tập. Nhưng bây giờ thì điều đó không có nữa. Sách bút trại giam quản lý, sách của gia đình gửi đến trại cũng quản lý, muốn lấy về đọc thì phải đăng ký mà họ chỉ cho phép lấy mỗi lần 2 quyển, giấy thì chỉ cho 1 tờ giấy học sinh 4 trang, bút họ cũng giữ và đưa cho 1 cây bút, viết xong phải đưa lại tờ giấy và bút cho họ quản lý … Lần thứ hai anh Trội vẫn bị giam ở Nam Hà. Anh cho biết, Nam Hà là nơi ngày xưa giam giữ toàn bộ lính VNCH, và các tu sĩ. Họ có truyền thống giam tù chính trị và có kinh nghiệm đàn áp tù chính trị. Trong thời gian ở tù, anh không được giam chung với các anh em cùng một hội, nhưng lại sống chung với khá nhiều tù nhân chính trị là người các dân tộc bản địa ở Tây Bắc, Tây Nguyên. Những tù nhân thuộc các sắc dân bản địa ở Tây Nguyên chủ yếu bị giam sau những cuộc biểu tình lớn vào những năm 2001, 2004 và sau này, từ vụ xả súng ở Tây Nguyên tháng 6/2023. Đa số đều chịu những bản án nặng nề, có người tới 20 năm. Trở về “nhà tù lớn” Ra khỏi “nhà tù nhỏ” trở về “nhà tù lớn”, cũng như rất nhiều tù nhân chính trị bị giam lâu ngày khác, anh Trội gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe, đau vai gáy, đau cột sống, đau dây thần kinh, huyết áp tụt, mắt thì mờ. Trong thời gian bị tù anh cũng từng bị đau nặng vài lần, có thời gian bị sỏi thận phải đi cấp cứu…Vì vậy ưu tiên trước mắt của anh là “phục hồi sức khỏe, sau đó phải dành thời gian để tìm hiểu lại, nghiên cứu, sắp xếp lại mọi việc”. Anh cho biết, chưa có ý định rời nước ra đi, vì “khi phải rời bỏ quê hương ra đi thì rất đau lòng, tôi nghĩ rằng tâm trạng của người nào xa quê cũng đều thế cả, trong trường hợp bất khả kháng mới phải đi. Thực ra lúc này tình hình ở Việt Nam rất là khắc nghiệt nhưng tôi còn chịu được thì tôi ở lại, còn khi nào không chịu được thì tôi cũng phải xin ra đi vậy”. Trong suốt những năm anh đi tù, kinh tế gia đình trông vào người vợ đi làm cho một công ty nhỏ, lương cũng chỉ đủ sống, không có tích lũy, cộng thêm anh chị em trong gia đình giúp đỡ, thỉnh thoảng bạn bè cũng giúp một chút. May mắn là vợ con anh đều hiểu việc anh làm và không một lời phàn nàn, trách móc. Hai con của anh, con trai lớn năm nay 23 tuổi, sang năm học năm thứ năm đại học Bách Khoa, con gái út 18 tuổi, năm nay bắt đầu vào đại học, cũng đại học Bách Khoa Hà Nội. Khi được hỏi “Có bao giờ anh tiếc đã mất 11, 12 năm cuộc đời vì đã lên tiếng không?” Anh Trội trả lời: “Tôi thực sự là không tiếc, có thể vì sinh mạng mình nó gắn với công việc này”. Nghĩ về tương lai của Việt Nam và phong trào dân chủ, anh cho biết: “Cá nhân tôi chưa bao giờ hết hy vọng, tôi luôn luôn hy vọng và tin tưởng ở thế hệ trẻ của Việt Nam. Những người Cộng sản gộc từng chống Pháp thì bây giờ chết hết rồi, những người đánh Mỹ thì cũng chỉ 10, 20 năm nữa là cũng ra đi hết và thế hệ 7X, 8X và 9X sẽ là chủ nhân của quốc gia, họ hội nhập vào thế giới nhờ học hành ở nước ngoài, nhờ vào internet khai sáng. Và xu hướng dân chủ hóa toàn cầu là không thể đảo ngược. Vấn đề là sớm hay muộn ở Việt Nam thôi…Tôi vẫn tin tưởng thế hệ trẻ ở Việt Nam có đủ khả năng để quyết đoán cho vận mệnh dân tộc, tương lai của chính họ. thời của chúng ta về trước là cái thời còn chìm đắm trong cơn mê chiến thắng, trong chủ nghĩa Mác Lênin không tưởng ấy, thế hệ trẻ họ sẽ khác. Sẽ phải thay đổi. Sẽ phải dân chủ hóa”. Nhiều người bi quan cho rằng phong trào dân chủ ở Việt Nam mấy năm gần đây xem như đã tắt, đã chết, nhưng theo anh Trội, khi tiếp xúc với các anh chị em, cả người cũ, người mới quen anh nhận thấy họ thay đổi phương thức, và thay đổi phương pháp chứ họ không “chết”, họ không bị “tắt”…"Những người hoạt động trong lĩnh vực này nó ngấm trong máu rồi, bây giờ nhà cai trị họ gia tăng đàn áp bắt bớ thì những người hoạt động tạm thời thay cách này bằng cách khác để bảo tồn, để tiếp tục mở rộng…Có nghĩa là ngọn lửa này không tắt mà lại trở thành cháy âm ỉ bên trong, khi có cơ hội thì nó lại bùng cháy mạnh hơn…” Người bất đồng chính kiến ở Việt Nam chỉ có hai con đường: vào tù hoặc phải sống lưu vong? Tình trạng tù nhân chính trị ở Việt Nam từ nhiều năm nay là người này ra thì người kia vào tù, người này xong án thì người khác bị kết án. Ngày 15/8 vừa qua nhà cầm quyền Việt Nam lại kết án nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến có biệt danh Anh Chí, một thành viên sáng lập của phong trào No-U phản đối đường “lưỡi bò” và từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc vào đầu những năm 2010 và các cuộc biểu tình ủng hộ môi trường vào giữa những năm 2010. Anh Nguyễn Chí Tuyến đã sử dụng YouTube, Facebook và các phương tiện truyền thông xã hội khác để bình luận về các vấn đề xã hội và chính trị. Anh bị bắt ngày 29/2/2024 và vừa bị kết án 5 năm tù, cũng về tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Trên mạng xã hội, rất nhiều người chia sẻ lại những câu nói của anh. Chẳng hạn như câu anh Tuyến nói với luật sư Lê Đình Việt trước ngày ra toà: “Tôi hoàn toàn có thể lựa chọn sự an toàn cho cá nhân mình nếu làm ngơ trước những vấn đề bất cập của xã hội. Nhưng là một công dân, tôi không thể không có trách nhiệm đối với đất nước mình”. Hoặc lời nói sau cùng tại phiên tòa sơ thẩm do TAND thành phố Hà Nội xét xử, trong đó anh không nhận tội và khẳng định: ”Tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm việc tôi làm, nhưng tôi khẳng định mình không có ý đồ chống phá gì. Tôi làm vì 2 chữ tự do cho quyền chính đáng: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do biểu đạt.” Anh Phạm Văn Trội viết trên Facebook: “Đời không cát bụi, đời không sạch Thân bất lao tù, chí bất cao “ . Tù không có gì phải sợ, chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế. Không ai muốn sống trong tù (dù chỉ một ngày) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ…” Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, người có vợ là nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh bị nhà nước cộng sản bắt giam từ tháng 4/2021 với cáo buộc có hành vi “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXNCN Việt Nam” theo Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015, và vẫn chưa được đưa ra xét xử, viết: “Đất sống cho những người bất đồng chính kiến Chỉ vào tù hay ra hải ngoại thôi ư?” Phải. Đất sống cho những người bất đồng chính kiến dưới chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản cầm quyền là vậy. Nhưng những con người dũng cảm vẫn tiếp tục đứng lên, bắt người này thì lại có người khác… songchi's blog
......

THƯ KHÁNH TUẾ (Mùa tự tứ Phật lịch 2568)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN TĂNG THỐNG HỘI ĐỒNG GIÁO PHẨM TRUNG ƯƠNG Phật lịch: 2568 Số: 20 /HĐGP/TKT/CTK THƯ KHÁNH TUẾ Mùa tự tứ Phật lịch 2568 Kính gửi: Chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, Chư tôn đức Tăng-già nhị bộ. Trong niềm hỷ lạc của toàn thể tứ chúng, thành tâm hướng về lễ tự tứ của đại Tăng, thành tựu ba tháng an cư theo Luật định mà đức Thế tôn đã tuyên thuyết. Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện Tăng thống GHPGVNTN, kính chúc khánh tuế chư tôn đức: Pháp lạp tăng quang, phát huy bản thể Tăng-già làm nơi quy ngưỡng cho bốn chúng, hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh. Kính bạch Chư tôn đức, Suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, giáo pháp của đức Thế tôn đến nơi nào là ánh sáng trí tuệ được thắp lên, vô minh đẩy lùi, tham ái, sân hận, si mê không còn đất sống, dòng sữa từ bi tưới tắt những khổ đau, làm tăng trưởng bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả, khiến cho thế giới an hòa, biến uế độ trở thành tịnh độ bằng pháp hạnh “tâm tịnh quốc độ tịnh”. Với uy đức của Tăng-già, bằng bản thể hòa hợp thanh tịnh, bản nguyện nhập thế độ sanh mà bánh xe chánh pháp được chuyển vận, Phật pháp được hoằng dương. Gặp khi thế sự đảo điên, ma quái thi diễn tà pháp, quốc độ lâm cảnh bất an, lòng người chao đảo trước sự thể chánh tà khó phân, bằng phẩm chất chánh hành, trực hành, nhu nhuyến hành mà nhiều thế hệ Tổ sư, Chư tôn đức Tăng-già tiền bối giương cao ngọn cờ chánh pháp, thổi pháp loa tuyên thuyết pháp mầu, gióng trống pháp phân rõ chánh tà, thắp đèn tuệ đưa người ra khỏi rừng mê, chèo thuyền từ cứu người lênh đênh biển khổ. Ngày nay, Phật sự của Tăng-già rộng khắp, năm châu đều có bóng huỳnh y, nhưng có phải Phật giáo thịnh hưng? Nhìn về đạo Phật Việt trong nhiều năm qua khiến cho chúng ta không ngừng thao thức. Nay trong mùa tự tứ, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện Tăng thống GHPGVNTN xin được cung thỉnh Chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, Chư tôn tịnh đức Tăng-già nhị bộ đồng quan tâm đến mấy vấn đề Tăng sự, để phát huy chánh pháp như lời di giáo của đức Đạo sư, gìn giữ mạng mạch Phật pháp. Kính bạch Chư tôn đức, Với sơ tâm trong ngày đầu thế phát, đời sống, chí nguyện, pháp hạnh của người xuất gia đã thể hiện trọn vẹn trong bài kệ: “Hủy hình thủ khí tiết, cát ái từ sở thân, xuất gia hoằng Phật đạo, thệ độ nhất thiết nhân” Mái tóc đã phủi xuống là đời sống xuất trần được mở ra, từng sợi tóc rụng rơi cho ái dục đoạn trừ, lớp áo hoa huyễn hóa được buông bỏ, mang theo bên mình là ba y một bát, tín vật ba đời Chư Phật truyền thừa, chư Tổ sư cùng nhau kế tục, nuôi thân bằng pháp hạnh thiểu dục tri túc, an bần thủ đạo, xa gia đình để sống hạnh viễn ly, cất bước trên con đường cao rộng. Chí nguyện này không được nuôi dưỡng trọn đời thì ái dục sinh khởi, vật chất làm khổ lụy, đánh mất đời sống cao đẹp của bậc xuất trần thượng sĩ. Người xuất gia sống trong cộng đồng với nhiều mối tương quan, để trưởng dưỡng phẩm tính của mình thì cần phải giữ gìn khí tiết. Đó là đời sống của vị Tỳ-kheo: bất bái quân vương, không cúi lòn để kiếm chút hư danh, không thủ đoạn để tranh quyền đoạt lợi, không vì sự o ép của bất cứ thế lực nào mà bỏ rơi tín đồ Phật tử. Luôn đem hạnh vô úy để hoằng truyền chánh pháp, nhớ lời nguyện: xuất gia hoằng Phật đạo mà sẵn sàng xả thân mạng để bảo tồn chánh pháp, quyết không để tâm phân biệt, tâm sợ sệt mà làm cho tín đồ thiếu nơi nương tựa, thiếu cơ duyên để tu tập chuyển hóa. Tăng-già hòa hợp, thanh tịnh được lưu xuất từ đời sống thực hành sáu pháp hòa kính hay còn được gọi là sáu pháp khả hỷ: “Ở đây, bí-sô phát khởi thân nghiệp từ ái đối với Đại Sư và các đồng phạm hạnh có trí, đây gọi là pháp khả hỷ thứ nhất. Do pháp này mà phát sanh khả ái, phát sanh tôn trọng, phát sanh khả ý; nó dẫn đến khả ái, tôn trọng, khả ý, đẹp ý, đoàn kết, hoan hỷ, không chống trái, không tranh chấp, hòa hợp nhất thể. Ở đây, bí-sô phát khởi khẩu nghiệp từ ái đối với Đại Sư và các đồng phạm hạnh có trí, đây gọi là pháp khả hỷ thứ hai. Do pháp này mà phát sanh khả ái, phát sanh tôn trọng, phát sanh khả ý; nó dẫn khả ái đến tôn trọng, khả ý đến đẹp ý, đoàn kết, hoan hỷ không chống trái, không tranh chấp, hòa hợp nhất thể. Ở đây, bí-sô phát khởi ý nghiệp từ ái đối với Đại Sư và các đồng phạm hạnh có trí, đây gọi là pháp khả hỷ thứ ba. Do pháp này mà phát sanh khả ái,… chi tiết cho đến… hòa hợp nhất thể. Lại nữa, bí-sô bằng như pháp mà thu được lợi dưỡng như pháp, nhẫn đến thức ăn nhận được trong bát, cùng chung thọ dụng lợi dưỡng này với các đồng phạm hạnh có trí, không cất giấu dùng riêng. Đây gọi là pháp khả hỷ thứ tư. Do pháp này mà phát sanh khả ái,… chi tiết cho đến… hòa hợp nhất thể. Lại nữa, bí-sô, những gì là giới không khuyết, không thủng, không tỳ vết, không hoan ố, ứng cúng, không chấp thủ, khéo cứu cánh, khéo thọ nhận, được những vị có trí tán thán, không chỉ trích; giới như vậy, cùng chung thọ trì với các đồng phạm hạnh có trí, không có điều gì che dấu. Đây gọi là pháp khả hỷ thứ năm. Do pháp này mà phát sanh khả ái,… chi tiết cho đến… hòa hợp nhất thể. Lại nữa, bí-sô, những gì là kiến giải là Thánh, là xuất ly, dẫn đến thông đạt, do sự tác thành của kiến này mà chân chánh đoạn tận khổ; kiến như vậy, cùng chung tu học với các đồng phạm hạnh có trí, không có điều gì che dấu. Đây gọi là pháp khả hỷ thứ sáu. Do pháp này mà phát sanh khả ái, phát sanh tôn trọng, phát sanh khả ý; nó dẫn khả ái đến tôn trọng, khả ý đến đẹp ý, đoàn kết, hoan hỷ không chống trái, không tranh chấp, hòa hợp nhất thể.[*] Từ nền tảng của sáu pháp khả hỷ mà tăng trưởng đời sống thanh tịnh trong Tăng đoàn, nuôi lớn đời sống phạm hạnh của chúng xuất gia, nuôi lớn đức tin cho hàng đệ tử tại gia, làm tường thành vững chắc bảo hộ Tăng đoàn, nhiếp phục tà đạo. Tuy nhiên, trong nếp sống khả hỷ của Tăng-già, vẫn có biệt nghiệp của từng vị, do có những điều bất đồng mà đã gây nên sự bất khả ái, mất đoàn kết, thiếu hoan hỷ, tạo chống trái, gây tranh chấp, khiến cho tập thể Tăng không hòa hợp nhất thể. Lúc này, không gì hơn là phụng hành lời Phật dạy: dùng pháp NHƯ THẢO PHÚ ĐỊA với bi tâm mà bao dung, hóa giải để cùng nhau sống thanh tịnh, hòa hợp của trong bản thể của Tăng-già. Kính bạch Chư tôn đức, GHPGVNTN tiếp nối công nghiệp Lịch đại Tổ sư, với chí nguyện ĐẠO THỐNG CƯƠNG DUY mà rộng truyền chánh pháp, gìn giữ nền đức lý của Dân tộc từ Quê mẹ yêu thương đến cộng đồng nhân loại khắp nơi trên Thế giới. Đã đi qua nửa thế kỷ đầy biến động và tang thương, Chư tôn đức Hội đồng Lưỡng viện, Tăng, Ni của GHPGVNTN đã chẳng sợ gian nguy, từ nơi tù đày vẫn giữ tròn khí tiết, lấy nhà giam làm phòng kiết hạ, biến nơi quản thúc hẻo lánh xa xôi làm tịnh xứ an cư. Hàng Phật tử tại gia trung kiên với GHPGVNTN, không chọn lợi danh mà một lòng giữ tròn phẩm hạnh, thủy chung cùng Thầy Tổ, lý tưởng nguyện tôn thờ. Dù đời sống cơ hàn, nhiều nguy khổ, gian lao, mà vẫn kham nhẫn gánh vác Phật sự Giáo hội giao phó không một chút lãng xao, không một ý niệm sợ hãi. 60 năm qua, lập trường GHPGVNTN là bất biến, như lời tuyên bố của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, trong dịp khai mạc khóa học tập cho cán bộ Giáo hội ngày 27/02/1971: “Giáo hội không mưu đồ, không tham vọng những quyền lợi riêng tư thế gian! Giáo hội đã dấn thân vào quốc sự trong một hoàn cảnh đặc biệt theo truyền thống phụng sự Dân tộc: trước hết Giáo hội đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, tiếp theo là đòi chấm dứt chiến tranh, đòi chủ quyền quốc gia, đòi tự do dân chủ và công bằng xã hội v.v… Vì những đòi hỏi ấy, Giáo hội đã mất khá nhiều xương máu, danh dự, tài sản, và chịu nhiều tù tội bất công, cũng như phải đối diện thường trực với các thế lực phá hoại! Mặc dù vậy, Giáo hội không vì thế mà nản lòng, vì thấy rằng việc làm của mình có ít nhiều kết quả, nhất là Giáo hội đã tiên phong mở đường cho các sinh hoạt dân chủ cho mọi thành phần trong dân chúng, dù sinh hoạt ấy cũng phải chịu nhiều gian nguy tù tội, như Giáo hội đã chịu trong bao năm qua. Điều đó đã làm cho Giáo hội hãnh diện với những công trình kiến quốc đã và đang làm, cũng như càng thêm tin tưởng vào con đường đã và đang đi của Giáo hội. Giáo hội không, và sẽ không bao giờ tìm sự hưởng thụ riêng tư, trên sự đau khổ tủi nhục của Dân tộc, hay tìm sự an thân hèn nhát trong khi đất nước còn mịt mù khói lửa đao binh” Dù trong gian khó, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện Tăng thống GHPGVNTN nguyện dấn thân tiếp nối công hạnh của tiền nhân, gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh, đem hết nguyện lực của mình để hướng dẫn tứ chúng đồng tu, mang chí nguyện của GHPGVNTN mà góp phần phụng sự Đạo pháp – Dân tộc – Nhân loại. Kính nguyện mười phương Tam bảo, Lịch đại Tổ sư, Hồn thiêng sông núi Dân tộc Việt Nam, Anh linh Chư Thánh tử đạo Phật giáo Việt Nam, Tăng-già nhị bộ đồng chứng minh và hộ niệm cho Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện Tăng thống GHPGVNTN viên thành Phật sự mà Lịch đại Tăng thống GHPGVNTN đã phú chúc. Trong nguồn pháp lạc vô biên của mùa tự tứ, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện Tăng thống GHPGVNTN kính nguyện: THẬP PHƯƠNG BẠC-GIÀ-PHẠM NHẤT LỘ NIẾT BÀN MÔN”. Kính chúc chư tôn đức thân tâm an lạc. Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ-tát. Phật Ân Tự, Phật lịch 2568, ngày 14 tháng 07 năm Giáp Thìn (17/08/2024) Thừa ủy nhiệm Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Chánh Thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống Tỷ-kheo Thích Đức Thắng --------- [*] Tuệ Sỹ (2020), A-tì-đạt-ma tập dị môn túc luận, NXB Hồng Đức, trang 428  
......

Sa hoàng Putin có đứng vững?

Nguyễn Tấn Thành Sau hơn 2,5 năm kể từ lúc Sa hoàng Putin huy động tổng lực sức mạnh quân sự của quân đội mạnh thứ hai thế giới, tổng tấn công xâm lược toàn diện Ukraina vào ngày 24/2/2022, tiêu hao không biết bao nhiêu sức người, sức của; hủy hoại không biết bao nhiêu mối quan hệ quốc tế; đánh mất không biết bao nhiêu uy tín đất nước; phá nát không biết bao nhiêu việc làm ăn khi nền kinh tế bị quốc tế cấm vận; đăng xuất không biết bao nhiêu quân số, quân cụ; què quặc không biết bao nhiêu trai tráng ... Nhưng thành quả Sa hoàng thu về không được bao nhiêu, không đạt được bất cứ mục tiêu nào khả dĩ. Cái giá phải trả cho việc xâm chiếm (chưa hoàn tất) 4 tỉnh của Ukraina là Kherson, Zaporizhia, Donetsk và Luhansk là quá lớn. Đã vậy, vào ngày 6/8/2024, Nga còn bị quân Ukraina, là nước đang bị Nga xâm lăng, quay súng xâm lăng ngược vào tỉnh Kursk của Nga làm không ít người Nga giật mình. Nhất là đã gần 2 tuần bị xâm lăng, quân của Sa hoàng Putin vẫn còn lúng túng như gà mắc tóc, chưa hình thành được một lực lượng phản kích đủ mạnh để đánh đuổi quân xâm lược, còn để quân Ukraina làm mưa làm gió ngay trong lãnh địa thiêng liêng bất khả xâm phạm của Sa hoàng kể từ sau thế chiến II đến nay... Vì đó làm không ít người liên tưởng đến cuộc chiến tranh Nga - Nhật giữa Sa hoàng Nikolai II của Nga và Minh Trị Thiên hoàng của Nhật đầu thế kỷ trước (2/1904 - 9/1905). Sa hoàng Nikolai II thua Nhật dẫn đến tan rã đế chế, mở màn cho cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 và một kết cục bi thảm cho hoàng triều Nikolai II. Chắc cũng không ít người nhớ lại cuộc chiến giữa Liên Xô và Afghanistan (12/179 - 2/1989). Sau khi Liên Xô thua trận rút quân, xã hội Liên Xô xáo trộn dữ dội làm tan rã đế quốc Liên Xô hơn 2 năm sau đó. Giờ đây đến lược Sa hoàng Putin sắp, đang và sẽ... Khi cuộc chiến Ukraina đang bắt đầu tiến trình áp lực ngược trở lại điện Kremlin?    
......

Pages