2015

Bao giờ Nhật đi tuần biển Đông?

Những cuộc hội đàm trước đây của ông Nguyễn Tấn Dũng hay ông Phùng Trước với giới lãnh đạo Nhật về tình hình biển Đông, hầu như biến mất rất nhanh trên báo đài Nhật. Những cuộc hội họp đó chẳng dẫn đến ký kết cụ thể nào giữa hai bên. Theo nhận xét của truyền thông Nhật, phía Việt Nam chỉ nói chung chung về "quyết tâm bảo vệ biển đảo", nhưng vẫn không liên kết với bất cứ một quốc gia nào trong việc phòng vệ biển Đông cũng như giải quyết vấn đề chủ quyền tại hai lãnh đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có nhà bình luận còn tỏ ra bực mình vì chính phủ Nhật bị nhà cầm quyền Việt Nam sử dụng cho mục tiêu tuyên truyền với dân Việt Nam và chỉ cho mục tiêu đó mà thôi. Ngược lại, cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Philippines và Nhật Bản vào ngày 30/01/2015 đã được truyền thông Nhật đánh giá cao. Hai bên đã trao đổi thẳng thắng vấn nạn chung tại biển Đông và biển Hoa đông trước sự bành trướng vũ lực quân sự của Trung quốc. Hai bên đã ký những thỏa thuận về hiệp tác quốc phòng để bảo an hải dương và công tác cứu nạn trên biển. Truyền thông Nhật phản ảnh khá rõ thái độ lo ngại ngày càng tăng của dân Nhật về ý định của Trung quốc muốn kiểm soát toàn bộ biển Đông và thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở vùng biển này. Theo báo đài Nhật, khu vực biển Đông là một ngư trường lớn. Mỗi năm luợng cá đánh bắt được ở đây chiếm 10% tổng số cá của thế giới. Đó là chưa kể đến các dạng tài nguyên thiên nhiên dưới lòng biển. Mỗi năm số lượng hàng hóa trị giá hàng trăm tỷ mỹ kim được chuyển vận qua lại trên vùng biển Đông. Con đường vận chuyển này đóng vai trò vô cùng quan trọng cho nền kinh tế Nhật và các nước trong vùng. Vài ngày trước khi khi Bộ trưởng Quốc phòng Philippines lên đường sang Nhật, Phó Đô Đốc Robert Thomas, Chỉ huy trưởng hạm đội 7 của Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn với hãng thông tấn Reuter, đã nói rằng: "Chúng tôi hy vọng Nhật Bản có thể mở rộng các phi vụ tuần tra về phía Biển Đông". Và sau cuộc hội đàm giữa 2 vị bộ trưởng, vào ngày 03/02/2015, tại phiên họp Ủy ban Ngân sách Hạ viện Quốc hội Nhật, khi được hỏi về lời phát biểu của Phó Đô đốc Thomas, Thủ tướng Abe trả lời rằng: "Trong tinh thần tích cực bảo vệ hòa bình, chính phủ Nhật muốn góp phần duy trì sự ổn định khu vực Á châu". Phát biểu đó được ông Nakatani, Bộ trưởng Phòng vệ Nhật, khai triển như sau: "Tại thời điểm này chính phủ Nhật chưa lên kế hoạch, nhưng tình hình biển Đông ảnh hưởng lớn đến an ninh của Nhật Bản. Phải đối ứng ra sao mỗi khi hữu sự là vấn đề mà chính phủ Nhật đang bàn thảo". Hãng thông tấn Kyodo của Nhật còn cho biết Bộ trưởng Nakatani cũng xác nhận Tokyo đang theo dõi sát sao các diễn biến chính trị và quân sự ở Biển Đông, nơi Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền biển đảo với các láng giềng, từ Philippines, đến Malaysia, Brunei. Ông Nakatani tuyên bố nếu cần thiết, Hải quân Nhật sẽ được triển khai để tuần tra khu vực mặc dù Nhật không có tranh chấp chủ quyền ở khu vực Biển Đông. Khu vực tuần tra trên không và trên biển của Nhật Bản không nên chỉ giới hạn trong phạm vi biển Hoa Đông, nơi quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Tokyo quản lý đang bị Bắc Kinh gây sự. Nếu tuyên bố trên trở thành hiện thực, việc tuần tra ở biển Đông sẽ được Phi đoàn Không quân thứ Năm của Lực lượng Phòng vệ trên biển trực thuộc Hải quân Nhật, đặt căn cứ tại Okinawa, thực hiện với khoảng 20 máy bay trinh sát P-3C. Ngoài khả năng bay xa, bay lâu để truy tìm và nhận dạng các tàu nổi, tàu chìm, loại máy bay này cũng có khả năng mang theo ngư lôi và thủy lôi chìm cho các sứ mạng tấn công. Hiện nay chính phủ Nhật bản còn bị ràng buộc bởi điều 9 Hiến pháp của họ không cho phép đưa quân ra ngoài nước Nhật. Đây là bản Hiến pháp được soạn thảo sau Thế chiến II dưới nhiều áp suất từ Hoa Kỳ. Nay chính Hoa Kỳ cũng ủng hộ việc Nhật tu chính điều khoản nêu trên vì không còn thích hợp với tình trạng thế giới nói chung - với những vụ con tin Nhật bị các nhóm Hồi Giáo bắt cóc - và tình trạng biển Nhật Bản và biển Đông nói riêng. Hiển nhiên, lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng với các diễn tiến này. Bắc Kinh còn tố cáo Thủ tướng Abe chỉ "lợi dụng việc hai công dân Nhật bị IS sát hại" để kích động dân Nhật và để hủy bỏ điều 9 Hiến Pháp. Họ đổ lỗi việc 2 công dân Nhật bị sát hại là do các phát biểu và hành động "vô trách nhiệm" của ông Abe tại Trung Đông trước đó. Nhưng các phê phán trên báo đài Trung Quốc và đặc biệt qua miệng của bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, chỉ khiến công luận Nhật thêm bực tức và chính phủ Nhật tiến nhanh hơn với các nỗ lực liên minh phòng thủ tại biển Đông. Rõ ràng, thái độ lừng khừng không dám quyết định của giới lãnh đạo Việt Nam đã dẫn đến sự chán nản và bỏ lại phía sau của các chính phủ trong vùng. Trong khi đó, Bắc Kinh vẫn tiếp tục chính sách "mềm nắn, rắn buông" như đã thấy trong suốt nhiều năm qua. Và vì vậy, một khi thấy liên minh phòng thủ của các quốc gia khác quá cứng, Bắc Kinh sẽ quay sang áp lực Việt Nam nặng nề hơn nữa, nơi mà họ đang nắm ngày càng chặt từ biển khơi vào đất liền. Xem ra loại tai họa như 64 chiến sĩ Việt bị tàn sát tại Trường Sa năm 1988 vì Bộ Chính trị đảng CSVN không dám tiến hay lùi, đang lập lại ở cấp độ hàng ngàn lần lớn hơn trên cả nước Việt Nam.
......

THƯ ĐẦU NĂM ẤT MÙI 2015

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2015/02/20150219-ctm-... Kính thưa đồng bào, Năm 2015 đánh dấu 40 năm kể từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam áp đặt sự cai trị độc tài của họ trên toàn cõi đất nước thân yêu của chúng ta. 40 năm là một thời gian dài, gần một nửa thế kỷ dân tộc ta phải gánh chịu biết bao nhiêu khổ đau, mất mát và bất công bởi vì những người lãnh đạo đảng Cộng Sản đặt quyền lợi của riêng họ và bè nhóm lên trên quyền lợi của đất nước. Tuy nhiên, trước thềm Xuân Ất Mùi 2015, chúng ta lại nhìn thấy một viễn cảnh tươi sáng đang hé mở cho dân tộc. Sau 40 năm thống trị, đây là lúc nền độc tài của đảng Cộng Sản đang bị thách đố nặng nề nhất. Chúng ta có thể tóm tắt những khó khăn của họ vào 5 điểm sau đây. Đầu tiên là tình trạng tranh giành quyền lực và quyền lợi trong nội bộ lãnh đạo đã bùng nổ công khai trước mắt mọi người. Đây không phải là sự tranh chấp vì khác biệt chính sách hay phương thức giải quyết những vấn đề của đất nước, tất cả chỉ để giành lấy cơ hội làm giàu cho bản thân và con cháu của họ. Việc đấu đá trong nội bộ đảng Cộng Sản không phải là điều gì mới, nhưng thay vì được che đậy như trước đây thì nay mọi việc được phơi bày lộ liễu trước công luận. Tất cả những gì xấu xa nhất của giới lãnh đạo đã được đem ra ánh sáng, lột trần trước mắt của người dân. Thứ hai là sự yếu hèn của lãnh đạo trước chính sách xâm lấn của Trung Quốc. Để che mắt dư luận, đây đó có những phát biểu có vẻ mạnh bạo, hoặc những động thái gọi là để đối phó với đe dọa quốc phòng. Nhưng tất cả chỉ là hỏa mù vì sự thật lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam cần sự bảo kê của Cộng Sản Trung Quốc để tiếp tục duy trì sự cai trị độc tài. Ngày nào họ còn tiếp tục đàn áp những ai phản đối Trung Quốc, còn che dấu những gì thật sự đã ký kết với Trung Quốc, và không dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế; ngày đó sự phản bội dân tộc của họ vẫn không thể nào tha thứ được. Thứ ba, chính vì sự thối nát và yếu hèn của họ đã khiến bất mãn bộc phát ngay trong hàng ngũ đảng viên Cộng Sản. Đã có những người đảng viên Cộng Sản can đảm lên tiếng phản đối lãnh đạo, đòi hỏi chính quyền phải quyết liệt đối phó với Trung Quốc, phải dân chủ hơn, và phải chấm dứt vai trò độc tôn của đảng Cộng Sản. Mặc dù còn là thiểu số nhưng những tiếng nói can đảm này chắc chắn đã thể hiện ước vọng của nhiều đảng viên Cộng Sản thầm lặng khác. Vì khi đất nước bị đe dọa, đã mang dòng máu Việt trong tim thì tinh thần dân tộc là mẫu số chung của tất cả chúng ta bất kể xu hướng chính trị, trừ những người lãnh đạo đã bán rẻ lương tâm vì quyền lợi bản thân. Thứ tư, trong vòng 10 năm trở lại đây, sự phát triển của mạng điện tử và mạng xã hội đã đem lại cho chúng ta phương tiện để phá vỡ bức màn bưng bít thông tin của chế độ. Một khi hàng chục triệu người đã vượt thoát ra khỏi bức màn đen tối của những thông tin sai lạc, khi đó là sự bừng tỉnh và thôi thúc những đòi hỏi chính đáng cho quyền làm người. Chính nhờ vào mạng điện tử mà người dân Việt Nam đã phần nào giành lại được những quyền quan trọng như tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội và kể cả tự do tụ họp dù nhiều lúc mới chỉ ở trên mạng. Sau cùng, mặc dù chế độ đã thẳng tay đàn áp, bắt bớ rất nhiều người nhưng những tiếng nói tranh đấu cho công lý, nhân quyền và dân chủ vẫn ngày càng gia tăng và trở nên đa dạng. Có thể nói chưa bao giờ phong trào tranh đấu cho dân chủ lại có sự tham gia của nhiều người, nhiều thành phần như hiện nay. Bên cạnh đó, những nỗ lực đấu tranh này đã chứng tỏ khả năng tồn tại trước sự trù dập của chế độ, và đang từng bước giúp mọi người vượt qua sự sợ hãi trước guồng máy công an. Kính thưa đồng bào, Sau 40 năm thống trị, chế độ độc tài Cộng sản đã để lộ nguyên hình của một chế độ nhũng lạm, tha hóa và tàn ác. Những người lãnh đạo chế độ hiện nguyên hình là những con người gian tham và phản bội dân tộc. Nhưng cũng chính vì vậy mà chế độ đang ngày càng suy yếu. Sự gia tăng đàn áp của họ trong thời gian gần đây không thể hiện sức mạnh, trái lại đó là chỉ dấu chế độ đang gặp nhiều khó khăn hơn trước và phải loay hoay tìm cách đối phó. Ngày nay một viễn cảnh lạc quan đang hé mở cho toàn dân. Chế độ độc tài Cộng sản sẽ không thể tiếp tục tồn tại mãi mãi được nữa. 40 năm đã quá đủ; 2015 phải là năm toàn dân ta tiến bước nhanh hơn nữa trên con đường tranh đấu cho một đất nước vững mạnh, cho một xã hội đầy công bằng, người người đối xử với nhau có tình, có lý. Với quyết tâm đó, trước thềm Xuân Ất Mùi, thay mặt toàn thể anh chị em đảng viên Việt Tân, tôi xin kính gửi đến đồng bào lời cầu chúc an lành, thịnh vượng và nhiều thắng lợi. Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc sẽ vượt qua mọi thách đố, và sớm thành công trên con đường tranh đấu chấm dứt độc tài để xây dựng một đất nước Việt Nam mới đầy tình người và hạnh phúc. Trân trọng kính chào đồng bào. Đỗ Hoàng Điềm Chủ Tịch Đảng Việt Tân
......

Bài thơ Thần năm Ất Mùi

Tôi chào đón năm Ất Mùi này (2015) với bài thơ Thần đã ra đời vào năm Ất Mùi 1655, đúng 360 năm trước. Lịch xưa tính đúng chẳn sáu hội (mỗi hội 60 năm). Đây là bài thơ đã được ghi lại trong Đại Nam Thực Lục - một bộ sử biên niên ghi lại thời kỳ các Chúa Nguyễn, rồi Nhà Nguyễn trị vì đất nước. Bấy giờ, Chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần, một đêm nằm mộng thấy thần nhân hiện lên đọc cho nghe bài thơ. Hôm sau nhà Chúa đã đọc lại cho đình thần nghe, và cho rằng đó là lời mách bảo của thần linh. (xem ĐNTL TI, NXB Giáo Dục tr63). Nguyên văn: Tiên kết nhân tâm thuận. Hậu thi đức hóa chiêu. Chi diệp kham tồi lạc. Căn bản dã nan dao (diêu) Dịch nghĩa: Trước hết phải cố kết nhân tâm cho thuận. Sau là thi hành (chính trị) đạo đức để quy tụ mọi người. Dẫu cành lá có gãy rụng. Gốc rễ chẳng hề lung lay. Trong văn học Việt Nam, người ta cho rằng đây là bài thơ thần thứ hai. Bài đầu là bài thơ “Nam quốc sơn hà”, tương truyền đã vang lên trong đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát, ở ven sông Như Nguyệt, nơi phòng tuyến chống quân nhà Tống xâm lược, thời Lý Thường Kiệt. Nếu bài thơ trước (Nam quốc sơn hà) là tinh thần, ý chí của dân Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Đất Nước, quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lăng, được coi như một tuyên ngôn Độc lập, thì bài thơ sau là một “minh triết” chính trị. Bài thơ góp vào, làm nên sự phong phú sâu sắc của tư tưởng, đạo trị nước của Việt Nam. Cũng nên lưu ý một tình tiết tế nhị. Đó là bài thơ xuất hiện lúc đất Nước còn phân ly. Lực lượng nào muốn thắng, gồm thâu thiên hạ, đều phải chú ý đến những vấn đề cốt tử: Thi hành đức hóa, cố kết lòng người… Ngoại trừ hoàn cảnh xuất hiện, phân tich kỹ 20 chữ của bài ngũ ngôn tứ tuyệt này, có thể rút ra được nhiều điều bổ ích, thú vị. Điều ấy, không những có ích cho những người lãnh đạo quốc gia ở tầm vĩ mô, mà còn có lợi cho cả công việc ứng xử ở tầm cơ sở, vi mô, của một gia đình, một doanh nghiệp, một cộng đồng xã hội, một chính đảng … Chữ tiên, (trước hết) là nói tầm quan trọng của vấn đề. Câu đầu, đưa ra ba triết lý quan trọng: kết, nhân tâm và thuận. Ba chữ này, là ba phạm trù rất cơ bản để nhận thức và ứng xử xã hội. Ngẫm về chữ kết, đã có điều thú vị, nó có vẻ dễ hiểu, thậm chí người ta nghe đã nhàm tai, nào kết đoàn ta là sức mạnh trong một bài hát Tàu, nào đoàn kết, đại đoàn kết…Chữ kết, người xưa viết với bộ “mịch”, có ý nói về sự bó bện cho bền chặt. Ý nghĩa là sự tập hợp cái nhiều (đa) thành cái một (nhất). Người ta phải “kết” cái nhiều lại để thành một cho mạnh cho bền chắc…nhưng không bao giờ lại thủ tiêu các thành viên, thành tố. Nếu hiểu kết mà chỉ nhăm nhăm coi trọng cái một mà bỏ cái nhiều, chỉ chú ý đến cái chung, mà bỏ cái riêng, thì chẳng còn ý nghĩa kết gì nữa. Đó là quy luật tự nhiên, huống chi là quy luật xã hội! Không thấy ý nghĩa “kết”, không thể gắn bó con người được. Phải hiểu và làm chữ kết trong thế vừa đề cao cái một, mà phải coi trọng cái đa, những thành tố riêng rẽ, để tạo thành cái “Kết”. Trong tự nhiên, người ta dễ hiểu và làm theo quy luật ấy. Như cái máy tính điện tử, nếu không coi trọng từng chi tiết, từng linh kiện, làm sao có thể có được chất lượng cao của bộ máy! Nhưng trong ứng xử xã hội, con người lại tầm thường đến độ ngu xuẩn, là muốn kết mà không muốn làm cho mọi thành tố mạnh lên! Hai chữ nhân tâm cũng nên luận. Không nên chỉ hiểu đơn giản là lòng người. Phải thấy nhân là con người và cả cái tâm của nó. Nếu không biết nuôi dưỡng con người bằng một “polytique” nhân văn, con người sẽ đói, sẽ khổ, sẽ méo mó bất thành nhân dạng, có thể thành quái thai, chỉ có phần con mà mất đi phần người. Trong trường hợp ấy, không thể có cái tâm đúng nghĩa. Tâm không chỉ là lòng người, nó là tổng hòa của cái trí, cái biết cái thức, thiếu tâm hồn, thiếu tri thức không thành người. Như vậy vấn đề nhân tâm không chỉ thuần túy là tinh thần, ý thức, tình cảm, tâm hồn. Phải tính cả những giá trị vật chất của con người cho con người, vì con người. Những thể chế, thiết chế, chế độ phản bội lại con người không thể gọi là nhân văn, lại có thể cố kết con người, làm mạnh con người. Còn chữ thuận. Minh triết Việt biết đánh giá cao ý nghĩa chữ thuận - thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nhưng thuận không chỉ có nghĩa là cùng nhau, còn có cái nghĩa là theo quy luật, theo thiên tính, nhân tính, nhân tình. Con người từng đánh mất chữ thuận, nên đã làm cho con người, cho xã hội không hòa, địa không lợi, thiên không còn thời. Vì thế, sau cái tiên kết, là nói hậu thi. Những điều phải thi hành, phải làm tiếp theo để thể hiện cho được sự cố kết, làm vững mạnh con người, làm cho nhân tâm thuận, nghĩa là làm cho tiến hóa nhân cách, nhân vị, nhân sinh. làm cho tiến hóa xã hội. Thi hành “đức hóa”, nghĩa là thi hành một nền chính trị đạo đức, nhân văn, một nền kinh tế đạo đức, nhân văn;một nền văn hóa giáo dục đạo đức nhân văn. Mọi sự tuyên bố chủ nghĩa, lý thuyết này nọ mà không theo tiêu chí ấy, đều là lừa dối, chỉ đạt tới dự nhất thời, nửa vời, đẩy con người và xã hội đi tới ngày càng suy đồi, tan rã. Không phải ngẫu nhiên, mà ngày nay đang xuất hiện nhiều những cảnh báo về cái ác tràn lan, và đang đề xuất những tư duy lành mạnh, cổ vũ cho một tinh thần, một thái độ, một tâm thức” minh triết” trong đời sống. Bruce Lloyd (Anh quốc) tha thiết đề nghị hãy kiến tạo xã hội minh triết, kinh tế minh triết. Còn Gandhi (Ấn) từ 1934, đã hô hào xây dựng nền giáo dục minh triết. Thi hành đức hóa còn có nghĩa là thực hiện một đường lối, một phương thức quản trị, điều khiển, tổ chức, quản lý có nhân văn, đạo đức, coi trọng con người hơn là coi trọng giá trị vật chất gia tăng. Những cộng đồng, những xã hội vĩ mô và vi mô chỉ nhăm nhăm lợi ích giá trị vật chất gia tăng, bỏ rơi, bỏ quên con người, xã hội của con người đều không thể biện hộ cho tính “phản động” của mình. Người ta đang phải nói nhiều về nền chính trị có khuôn mặt người, kinh tế có tính người, văn hóa có tình người… Đó là sự nuôi dưỡng, vun trồng, bồi đắp cho cái gốc, cái rễ (căn và bản) của con người, của xã hội, của Đất Nước, của nhân loại. Đó chính là bài học, là triết lý, là phương châm để một gia đình, một doanh nghiệp, một chính đảng, một nhà nước vận hành đạt tới nhân văn, tiến hóa. Nhãn tiền sự thoái hóa trông thấy trên Đất Nước ta và cả trên thế giới đều có thể chiêm nghiệm từ ý nghĩa bài thơ Thần này. Xin chép lại bài thơ Thần đã xuất hiện đúng năm Ất Mùi (1655) và đôi lời thô thiển, nói lên cảm nghĩ của mình để hầu chuyện ban đọc bên chén rượu, chén trà xuân, năm này, cũng là một năm Ất Mùi của Dân tộc. /.
......

40 năm và ước nguyện mùa Xuân

Và mùa xuân không còn Những nỗi đau thầm nữa… (Mùa Xuân – Tagore) Bước vào những ngày đầu năm 2015, chuyện những kẻ khủng bố bịt mặt xả súng bắn vào toà soạn Charlie Hebdo gây nên cái chết cho 12 người bao gồm hai cảnh sát và mười nhà báo, trong đó có những hoạ sĩ biếm hoạ tài danh đã làm rúng động cả nước Pháp. Tuy rằng không phải ai cũng tán thành tính khiêu khích của tạp chí châm biếm Charlie Hebdo; nhưng từ vụ thảm sát này, thái độ của người dân Pháp và cách hành xử của các vị lãnh đạo thế giới đối với quyền tự do ngôn luận đã tạo nên niềm tin và một hình ảnh đẹp đẽ nhất của những ngày đầu năm. Ngày 11/01/15 tức là bốn ngày sau vụ thảm sát, gần 4 triệu người dân Pháp đã tham gia cuộc tuần hành được coi là quy mô chưa từng có trong lịch sử nước Pháp. Cuộc tuần hành còn lớn hơn cả lễ mừng giải phóng Pháp khỏi tay Hitler năm 1944. Rõ ràng trong cái thế giới có vẻ như rời rạc ngày nay, bật lên một sự thật là tất cả chúng ta đều có mối liên hệ rất mật thiết với nhau từ niềm mơ ước riêng tư cho đến nỗi khát khao về cái đẹp, về tự do, nhân bản, về điều đúng, điều thiện… Khắp nơi trên thế giới, người ta đã tụ họp nhau lại để tưởng niệm những người đã nằm xuống, để lên án những hành động khủng bố và bày tỏ sự ủng hộ đối với nước Pháp. Nhiều biểu ngữ, băng rôn đã ghi câu: Je suis Charlie (Tôi là Charlie). Một bé gái đi trong đoàn tuần hành còn giương cao tấm biển với hàng chữ "Khi lớn lên con sẽ trở thành nhà báo". Đám đông khổng lồ đó đã được dẫn đầu bởi hơn 40 vị lãnh đạo thế giới. Hình ảnh họ khoác tay nhau tuần hành cho Charlie hẳn đã làm nhiều người Việt Nam xúc động khi nghĩ đến hoàn cảnh đất nước mình. Dù ở những địa vị lãnh đạo đầy quyền lực như Tổng thống Pháp Francois Hollande, Thủ tướng Đức Angela Merkel, Thủ tướng Anh David Cameron, Thủ tướng Ý Matteo Renzi… thái độ của họ thể hiện sự yếu đuối, nhỏ bé, cùng sự cần thiết có nhau của con người trước bạo lực! Nhưng mặt khác, họ cũng nói lên sự mạnh mẽ phi thường của ý chí con người trước họng súng. Họ không đến đó, đứng đó cho dân họ. Họ đứng cho những con người yếu đuối, sợ hãi, cô thế trên những phần đất tăm tối của quả đất; nơi con người còn bị ngự trị bởi khủng bố, bởi các chế độ độc tài. Cách đây ít năm, Ls Lê Quốc Quân, Bs Phạm Hồng Sơn và một vài người bạn của các anh cũng đứng khoác tay nhau như thế ở ngã ba Triệu Quốc Đạt - Hai Bà Trưng, trên con đường dẫn tới phiên toà xử Ts Cù Huy Hà Vũ. Trước mặt họ là hàng trăm công an mặc sắc phục và thường phục, phía sau họ, khi ấy không có đám đông nào hết, không một ai… nhưng họ vẫn đứng, khoá chặt tay vào với nhau. Dũng cảm và đơn độc! Ngày hôm nay, sau lưng Lê Quốc Quân, Nguyễn Ngọc Già, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Quang Lập… cái khoảng trống ấy đang dần dần được lấp đầy. Những đốm lửa đã nhen nhúm gọi nhau thành ngọn lửa. Tôi cảm nhận tận đáy lòng điều Lê Quốc Quân nhắn với bạn hữu anh từ trại giam An Điềm: “ngồi trong này nhận được thiệp hoặc thư của ai thì đọc mà nhớ luôn cả mặt chữ”. Đôi lúc hoạn nạn, đơn độc, hạnh phúc không hẳn là những điều gì to lớn, mà chỉ cần có nhau. Chỉ cần biết rằng ở ngoài kia mình có bạn bè, đồng đội; những việc mình làm, sự hiện hữu của mình có ý nghĩa. Và rõ ràng dù con đường trước mặt còn chìm trong bóng đêm, nhưng đồng đội của các anh đang sẵn sàng cùng nhịp bước trong màn đêm đó. Đây là những món quà vô giá cho người tù: sau lưng Nguyễn Quang Lập, hàng loạt những blogger cùng lên tiếng sẵn sàng bị bắt theo điều 88; sau khi Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, Blog Anh Ba Sàm vẫn tiếp tục hoạt động, … Và đặc biệt đối diện với những trấn áp từ việc dồn dập bắt giam các anh, phong trào "Tôi không thích ĐCSVN" đã thành hình. Từng khuôn mặt blogger xuất hiện mỗi ngày trên các trang mạng xã hội, mạnh mẽ, công khai, bất chấp các hù dọa của điều 88. Các nhà hoạt động ngày nay đã không cô đơn, không bị bỏ rơi như thời Nhân Văn Giai Phẩm, thời Xét Lại Chống Đảng… Ngược lại, bản thân và gia đình họ được chăm sóc, được bảo bọc yêu thương. Trong một bức thư gửi cho em trai là tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu, anh Đặng Xuân Hà viết : "Em ạ, kể từ tháng 10 đến nay mọi người ở khắp nơi đều rất quan tâm tới em và Mẹ. Điều đó làm Mẹ và mọi người trong nhà rất vui, khiến mẹ đỡ yếu nhiều". Nếu thế giới sẽ nhớ mãi về Charlie và biến cố những ngày đầu năm 2015 thì người dân Việt Nam cũng sẽ nhớ mãi mốc điểm thời gian này. Ai cũng khao khát được sống, nhưng trước khủng bố và sự huỷ diệt, con người đã làm điều tốt nhất để sự sống được thăng hoa, để cuộc sống đáng sống! Những nhà văn, những hoạ sĩ biếm hoạ đã biến mình thành nhân vật trong một bức tranh đẹp đẽ, nhân bản của nhân loại. Cũng cùng lúc đó, trong bóng tối của bạo lực, những người dân Việt Nam nhỏ bé, cô thế, sợ hãi cũng đang nương nhau đứng dậy. Mặc dù chưa có được đám đông đáng kể, nhưng những con người “tay không” này đã chứng tỏ được sức mạnh của mình. Họ thực sự đang làm chế độ lo sợ. Ông Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã phải thừa nhận: “Một chế độ muốn tồn tại thì phải được sự ủng hộ của người dân. Hiện nay các thế lực chống đối đã tuyên truyền và chiếm được trái tim khối óc của hàng triệu người, thì nguy cơ đối với chế độ là có thật”. Dù vậy, chúng ta có thay đổi được hiện trạng của đất nước mình hay không còn tuỳ thuộc vào sự sáng suốt và chấp nhận hy sinh của mỗi người. Chỉ một hành động man rợ của kẻ khủng bố đã làm thế giới phải sát vai đứng cùng nhau; trong khi phải đối đầu với một chế độ bạo lực, nham hiểm, đâu đó trong hàng ngũ những người đấu tranh hôm nay vẫn còn thấy những ngại ngùng, chia cách. Bốn mươi năm - con số thời gian kể từ ngày cả nước phải sống dưới bóng độc tài - như vô tình chợt làm chúng ta thấm thía nỗi đau. Bốn mươi năm! liệu đất nước và những thảm hoạ trước mắt có đủ vực dậy mỗi con dân Việt? Có xoá tan được cách ngăn và có đủ làm nên chất keo đoàn kết cần thiết không? Giờ này, những người bạn của chúng ta, những tù nhân lương tâm đang nghĩ gì trong những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm sắp đến? Chắc hẳn bên cạnh nỗi nhớ nhung gia đình, nỗi thương nhớ vợ con là những thời khắc đối diện với chính mình, với hương hồn cha ông, với tổ tiên đất nước. Sẽ không có nén nhang nào được họ thắp lên giữa đêm giao thừa năm nay trong chốn lao tù, nhưng hương khói từ những nén nhang tâm thành giữa lòng họ có kết nối được những tấm lòng Việt Nam. Không một ai muốn phải mất mát hay hy sinh, nhưng dường như tất cả nhân loại đều nhận thức ra rằng: Chỉ trong những giai đoạn đen tối và khi cùng gánh vác trách nhiệm với nhau, người ta mới thấy tỏa sáng những phẩm chất cao quí của chính mình và những người bạn đồng hành. Đầu năm là thời điểm linh thiêng để mỗi chúng ta cùng nhìn lại một đất nước gấm vóc, một dân tộc oai hùng qua bao thời đại; để cùng nhau vực lại niềm tin và nhất định sống đúng với lương tâm và ước nguyện. Xin hãy hoà cái Tôi vào cái Chúng Ta. Xin chúc từng người Việt Nam chọn được bước đi cho mình trong năm mới, trong dòng người khao khát tạo đổi thay, để quê hương chung của chúng ta sớm trở thành một nơi chốn thực sự đáng sống Theo viettan.org
......

Ông Nguyễn Bá Thanh và cái chết tức tưởi

Ngày Mười Ba Thứ Sáu, ông Nguyễn Bá Thanh nhắm mắt từ trần, rời bỏ giấc mộng Thị Trưởng Đà nẵng một thuở, và giấc mộng kinh ban tế thế trên đất Hà Nội cũng tan theo mây khói. Cái chết của ông, sự ra đi của ông để lại sự thương tiếc không ít trong lòng nhiều người dân Đà Nẵng, Quảng Nam và cả nước. Đương nhiên có không ít người oán hận ông. Nhưng hầu như họ ít lên tiếng và có vẻ như họ không nói gì về ông nữa kể từ khi ông lâm bệnh nặng. Cái chết của ông đã hóa giải nhiều mối cừu thù với ông mà trong đó, nguyên nhân có một phần không nhỏ do ông gây ra. Có thể nói, một cái chết đắt địa nhất trong vấn đề khai sáng cho người Việt vào thời điểm này. Ông đã chết không uổng phí cho dù có bị đầu độc hay bị gì đi nữa. Cái chết đầy ẩn số của ông đã giúp cho người nông dân, kẻ có học, anh phu xe và nhiều thành phần vốn dĩ ngủ quên trong đau khổ, cam chịu, toan tính cơm áo gạo tiền bỗng giật mình đặt câu hỏi: Vì sao ông chết? Có phải là ông bị đầu độc? Nếu còn sống, ông sẽ thăng tiến đến đâu? Chúng ta đang sống trong chế độ nào? Thứ Sáu ngày 13 – giấc mộng Thị trưởng tan theo mây khói Lúc còn làm Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhiều lần ông Thanh bày tỏ nguyện vọng thay đổi chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố thành chức Thị Trưởng nhưng cấp trên không chấp nhận. Và lúc ông Thanh đương chức ở Đà Nẵng, hai con đường Trường Sa, Hoàng Sa được ông cho người Trung Quốc thuê để xây dựng các biệt thự, khu nghỉ mát, sòng bạc hàng loạt. Khách Trung Quốc sang thăm, ông cũng dắt họ về khách sạn trên đường Hoàng Sa, Trường Sa để nghỉ lại… Ông cũng từng tuyên bố đã cải trang hàng trăm tàu quân sự thành tàu đánh cá ra biển Đông xua Trung Quốc chạy mất dép. Nhiều trí thức Đà Nẵng cho rằng đó là hành động yêu nước của ông (?!). Có lẽ bây giờ, câu hỏi ông có bị đầu độc hay không và ai đã đầu độc ông vẫn chưa cũ. Bởi nó là nguyên nhân, đầu mối của mọi vấn đề, bởi nó đã đóng chặt một giấc mơ chính trị, một số phận cũng như khép lại hàng loạt cừu thù đáng tiếc của một đảng viên Cộng sản thuộc hàng cao cấp ở Đà Nẵng và cũng là người có nhiều công trình còn dở dang… Cũng như nó lại giải mã cho câu trăn trối (qua miệng giáo sư Phạm Gia Khải) rằng “gia đình tôi sẽ tự lo mọi chi phí bệnh viện”. Tại sao một người nằm viện suốt hơn nửa năm trời, một người luôn chịu đựng mọi cơn đau, cố gắng vượt qua cái chết để tiếp tục thực hiện công nghiệp còn dang dở của mình lại chỉ trăn trối một vấn đề hết sức nhỏ, không đáng quan tâm như vậy? Mặc dù khi truyền đạt lại câu nói này, giáo sư Phạm Gia Khải nói với lòng ngưỡng mộ và yêu quí ông Thanh nhưng dường như trong sự ngưỡng mộ, yêu quí ấy có chút gì đó không bình thường! Nó không bình thường bởi điều mà ông truyền đạt không nhất thiết, không đáng phải công khai trên báo giới, thông tin của nó không có sức nặng cần thiết cho lúc này. Nhưng tại sao ông Phạm Gia Khải lại đưa ra thông tin này? Có một ẩn số và hai khả năng: Ẩn số về viện phí, nói là nhà nước lo một phần, trung ương đảng lo một phần và gia đình lo một phần viện phí nhưng không nói cái “một phần “ ấy thuộc gói nào, là gói ở bệnh viện đa khoa Đà Nẵng hay là gồm cả gói chữa bệnh ở Mỹ, Singapore. Thông tin về vấn đề này chưa được tường minh. Và hai khả năng là: Lời công bố vô tình của một người có nếp nghĩ không thấu đáo, chỉ trả lời để mà trả lời (khả năng này khó xuất hiện ở giáo sư Khải). Khả năng thứ hai nhằm đấu tố, một bước nối của Chân Dung Quyền Lực. Vì đến thời điểm hiện tại, chức năng và sứ mệnh đấu tố của Chân Dung Quyền Lực đã hết, nó có tồn tại hay không tồn tại cũng không thể đưa ra ác chủ bài cần thiết mà người ta đặt định. Nhưng cuộc đấu tố quyền lực thì chưa bao giờ chấm dứt. Người ta vẫn chưa buông tha cho ông Nguyễn Bá Thanh. Nên nhớ Chân Dung Quyền Lực là một trang blog phanh phui tham nhũng. Câu nói của giáo sư Phạm Gia Khải là câu nói của một người mến mộ ông Thanh, xét về nội dung, hình thức thì khác nhau, thậm chí khác nhau về bản chất. Nhưng mục tiêu của nó thì phải xem lại! Bởi lẽ, với mức chi phí mỗi ngày điều trị lên đến hàng chục ngàn đô la, thậm chí có ngày lên đến vài chục ngàn đô la tại bệnh viện Mỹ và bệnh viện Singapore, sau đó về Đà Nẵng, chi phí bệnh viện cũng lên đến hàng chục triệu đồng mỗi ngày. Nếu cộng tổng số tiền điều trị bệnh cho ông Thanh, có thể là vài chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng gồm chi phí điều trị bệnh, người chăm sóc ăn ở và đi theo qua Singapore, qua Mỹ, rồi chi phí máy bay chuyên dụng để đưa ông về… Chắc chắc con số có thể lên đến hàng trăm tỉ đồng. Nếu là một cán bộ thanh liêm, thì cả một đời làm việc, ăn lương của ông Nguyễn Bá Thanh không bao giờ chi trả đủ 30% số tiền viện phí. Trong khi đó, nhà cửa của ông Thanh vẫn chưa phải thế chấp hay bán đi để chữa bệnh, xe cộ của ông và con ông vẫn còn nguyên mà lúc sắp ra đi ông lại mạnh miệng tuyên bố gia đình sẽ lo toàn bộ viện phí. Như vậy, bản thân câu nói này đã tự đấu tố Nguyễn Bá Thanh là một quan tham cộm cán! Liệu có thật sự ông Thanh đã nói câu này? Hay là một trò đấu tố khác đang diễn ra? Và tại sao với một cán bộ cao cấp như Nguyễn Bá Thanh, khi nằm viện lại không có bảo hiểm y tế? Lại phải nhờ đến tổ chức, nhà nước và gia đình? Rõ ràng, câu nói cuối cùng của Nguyễn Bá Thanh rất có vấn đề dù ông có thật sự nói hay là ông Phạm Gia Khải đã nhét vào miệng ông! Ai đã đầu độc ông Thanh? Và đến đây, dường như bệnh tật và cái chết của ông Thanh không bình thường nữa. Bởi nó được đưa tin một cách không bình thường; Điều trị một cách bí mật, không bình thường và khi chết, lời trăn trối cũng không bình thường. Một cái chết bất thường trong lòng một chế độ không bình thường. Vậy ai đã đầu độc ông Thanh? Có hai luồng dư luận, đương nhiên là luồng dư luận do Chân Dung Quyền Lực đưa ra, nói rằng Nguyễn Xuân Phúc đầu độc Nguyễn Bá Thanh đã bị loại bỏ, nó hoàn toàn thiếu căn cứ, thậm chí hồ đồ. Bởi lẽ, Nguyễn Xuân Phúc từ đầu lấy yếu tố vùng miền để đấu đá và thăng tiến. Có thêm một nhân vật miền Trung chống lưng, dù sao cũng vững hơn phải đấu đá lẻ loi với hàng chục đối thủ nói giọng Nam giọng Bắc và luôn chờ thọc hông giữa đất Hà Nội. Hiện tại, một luồng dư luận cho rằng phe Nguyễn Tấn Dũng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh, luồng khác lại cho rằng chính tay chân bộ hạ của Nguyễn Phú Trọng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vậy đúng sai ra sao? Ở luồng dư luận thứ nhất, có thể nói rằng nếu Chân Dung Quyền Lực là của phe Nguyễn Tấn Dũng thật sự thì Nguyễn Tấn Dũng khó có thể là kẻ đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì lẽ, mục tiêu cuối cùng để Chân Dung Quyền Lực đánh là Nguyễn Bá Thanh, đánh một quan chống tham nhũng đang truy kích đàn em của mình, lật tẩy ông ta trước thiên hạ là xem như đắc lợi, chẳng cần nói thêm chuyện gì cho nhiều. Nhưng nếu biết trước Nguyễn Bá Thanh sẽ chết và sẽ không còn cơ hội điều tra đến tài sản gia đình mình, Nguyễn Tấn Dũng chẳng thừa hơi để lập trang Chân Dung Quyền Lực để phanh phui, đấu tố mà kết quả của nó là 50/50. Thành công cũng đó mà nguy hiểm, thân bại danh liệt cũng chính nó nếu như phe đối phương thiết lập một blog khác theo kiểu Gương Mặt Quyền Thế để đấu tố lại chẳng hạn! Nhưng ở khía cạnh khác, thâm độc hơn, hiểm hóc hơn (mà Nguyễn Tấn Dũng từng làm là mượn tay Nguyễn Phú Trọng để loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7 – 2012), ông Dũng lại một lần nữa mượn tay Nguyễn Phú Trọng để đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì làm như thế ông được lợi cả hai mặt, vừa không trực tiếp vấy máu lại vừa tung ra cú đòn Chân Dung Quyền Lực để giằng mặt đối thủ và củng cố uy lực. Vậy nếu là phe Nguyễn Phú Trọng đầu độc Nguyễn Bá Thanh thì vì sao lại đầu độc và đầu độc Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Phú Trọng được gì? Có lẽ phải nhắc lại mối quan Hệ Việt – Trung cũng như thế chân vạt Mỹ – Trung – Việt giữa ba con người gồm Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn Bá Thanh. Xét trên góc độ thân Trung Cộng, tương quan của ba nhân vật này ngang nhau. Nếu nhìn bên ngoài, Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc hơn Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Tấn Dũng có công cho Trung Quốc thuê rừng, đất Tây Nguyên, thuê cảng Vũng Áng lâu dài… so với Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Tấn Dũng là bậc thầy thân Trung, hơn nữa, Trọng và Dũng chức quyền cũng hơn Thanh. Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn khác. Phải nhớ là sau khi Nguyễn Bá Thanh tuyên bố từng cho cả hàng trăm tàu đánh cá do quân đội cải trang ra xua tàu Trung Quốc chạy tán loạn thì sau đó không bao lâu, hàng loạt vụ gây hấn trên biển Đông, rơi vào tọa độ Đà Nẵng đã diễn ra rất nặng nề. Và ở trên đất Đà Nẵng, người Trung Quốc được biệt đãi, họ không xây dựng những khu công nghiệp như Vũng Áng, Hà Tĩnh nhưng họ lại xây biệt thự, xây nhà vip, khu nghỉ mát và sòng bài. Tất cả bờ biển Đà Nẳng hầu như dành cho người Trung Quốc ở và sinh hoạt. Nơi họ ở là một biệt khu, ngoại trừ Nguyễn Bá Thanh, ít có quan chức nào được bước vào bên trong. Và cái mộng biến Đà Nẵng thành một đặc khu kinh tế không dừng ở đó, ông Thanh cũng không mộng ở cái chức Thị Trưởng. Bởi một khi Đà Nẵng thành đặc khu kinh tế với Thị trưởng Nguyễn Bá Thanh hoặc một Thị Trưởng đàn em của ông, mối quan hệ chính trị dây mơ rễ má với các quan chức cấp cao Trung Quốc mà Nguyễn Bá Thanh đã ngầm thiết lập sẽ giúp ông được rất nhiều. Hơn nữa, với tài năng, cá tính cũng như uy tín được xây dựng từ trước, tiếng nói Nguyễn Bá Thanh tại miền Trung có thể làm ảnh hưởng đến cục diện chính trị cả nước, có thể làm đảo lộn mọi thứ vốn ổn định của Bộ Chính Trị. Chính vì nhìn ra được điều này mà Nguyễn Phú Trong mặc dù rất tin tưởng vào tài năng Nguyễn Bá Thanh nhưng lại là người loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7. Và trước Hội nghị trung ương 10, Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng ác chủ bài, đã cử Nguyễn Bá Thanh sang Trung Quốc công tác. Thực ra là ông thừa biết cử Nguyễn Bá Thanh sang Tàu, cũng đồng nghĩa với chuyện thả cọp về rừng. Ông ta cũng thừa biết trong con mắt lãnh đạo cấp cao Trung Cộng, chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới xứng tầm thái thú cho họ trong bối cảnh hiện tại. Tiếng nói của Nguyễn Phú Trọng, nếu bỏ cái chức Tổng Bí Thư ra, ông ta chỉ là miếng giấy lộn. Trong khi đó, nếu dán cái chức Tổng Bí Thư lên Nguyễn Bá Thanh, có thể làm đảo lộn thời cuộc bởi tiếng nói, sự chi phối của ông đối với nhân dân còn cao hơn rất nhiều so với Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi đó, chuyến đi Trung Quốc của Thanh là chuyến đi ủy nhiệm nhằm tìm một sự chỉ đạo, sắp xếp nào đó có lợi cho phe Trọng và có hại cho phe Dũng từ các quan thầy Trung Cộng. Và chuyến đi có thể nói là rất thành công, Nguyễn Bá Thanh tìm được tiếng nói chung với các quan thầy Trung Cộng. Bởi các lãnh đạo cấp cao Trung Cộng ngay từ đầu cũng nhận thấy miền Trung là yết hầu của Việt Nam về mặt quân sự, nếu thao túng miền Trung thì xem như lấy được Việt Nam, vấn đề là lấy làm sao thật êm mà người ta phải cám ơn sự xâm lược của mình. Nguyễn Bá Thanh nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên nặng ký trong chức năng thái thú Trung Cộng tương lai. Và đây là điều Nguyễn Phú Trọng hoài nghi, lo sợ ngay từ đầu. Nó đã thành hiện thực. Phe Nguyễn Tấn Dũng nhìn thấy sự việc nên đã bài binh bố trận từ Chân Dung Quyền Lực cho đến nhiều việc khác, kể cả phát biểu của Phạm Gia Khải sau này. Và đòn đầu tiên mà Dũng đánh vào Nguyễn Phú Trọng chính là phát biểu có tính chống Trung Cộng của ông. Điều này làm vỡ trận, quan thầy Trung Cộng bẽ bàng nhận ra Nguyễn Phú Trọng không có khả năng quán xuyến Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam, ông đã không điều khiển được đảng viên đàn em để tạo mối quan hệ thuận lợi cho công cuộc Hậu Thành Đô. Và Nguyễn Phú Trọng cũng ngỡ ngàng nhận ra mình đã nuôi ong tay áo bấy lâu nay, nuôi một người từng chơi thế chân vạc, vừa đi với Trung Cộng lại vừa mở cửa, mời tàu hải quân Mỹ vào Đà Nẵng và có thể trở thành một lãnh chúa vùng miền, một lãnh đạo quốc gia nếu Trung Quốc chịu chống lưng và cất nhắc. Bây giờ, thay vì phải đánh nhau với Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng lại phải đánh nhau với Nguyễn Bá Thanh. Chuyến đi Trung Quốc của Nguyễn Bá Thanh là một thất bại, mất điểm của Nguyễn Phú Trọng. Và chuyện gì đến cũng đã đến, Trọng Lú quyết bước ra khỏi vùng lú, phải diệt cho được con ong trong tay áo, diệt ứng cử viên miền Trung – kẻ đã từng nhiều lần biến Đà Nẵng thành đặc khu nhưng chưa được. Bây giờ Trọng mới thấy tham vọng của Thanh, Trọng không còn lú nữa, phải cho Thanh chết! Và khi Thanh chết đi, uy tín của Trọng với đám quan thầy Trung Cộng sẽ lấy lại được. Bởi với họ, nội bộ Cộng sản Việt Nam cứ thoải mái đấu đá, giết nhau, càng giết, càng đấu đá thì càng phải dựa vào đàn anh, họ càng dễ xoa đầu và chỉ định, chỉ đạo. Nhưng Nguyễn Phú Trọng quên mất một điều, Nguyễn tấn Dũng có một cái chân vạc còn ghê gớm hơn và hình như là mọi sự nóng giận hay thủ đoạn của Trọng đều không qua mặt được Dũng. Cuối cùng, Dũng đã nhổ được cái gai trong mắt mà không tốn viên đạn nào. Trọng càng lúc càng lụn bại. Đương nhiên đây chỉ là những luồng dư luận được đặt thành giả thiết. Và vấn đề buồn nhất vẫn là cái chết thảm thương và tức tưởi của ông Thanh, đất nước mất một lãnh đạo có tâm. Nhưng cái chết của ông cũng rất đúng lúc, nó làm rõ hơn một thứ chân dung quyền lực khác – những chân dung quyền lực chân vạc, vừa dựa Mỹ nhưng lại trông đợi vào sự cất nhắc của quan thầy Trung Cộng để tiến thân. Và hình như Nguyễn Bá Thanh đã cay đắng và hốt hoảng nhận ra mình đã nhầm đường cho đến phút lâm trọng bệnh, ông đã chọn đất Mỹ để chữa bệnh. Điều này, nếu bàn luận ra thêm, có khi phải ứa nước mắt cho thân phận chính trị Việt Nam bởi phần lớn nhân dân mãi là đám đông kêu gào, khóc lóc, đại bộ phận quan chức thăng tiến chỉ biết dựa vào sự chống lưng của Trung Cộng.
......

“Người Ta” Là Ai, Ở Đâu, Tên Gì, Mấy Đứa?

Cuối năm, có kẻ phát hiện ra nồi bánh chưng ngon nhất VN được chụm bằng củi chẻ từ kèo/cột/rui/mè… của hội trường Ba Đình. Chưa biết đúng sai. Chỉ có thể nói leo: Và trong lúc trông bánh, những câu chuyện rôm rả nhất, hẳn phải là chuyện “người ta”? Hãy bắt đầu bằng hai câu danh ngôn của cố chủ tịch và đương kim phó chủ tịch nước, nói về “người ta”: ·                     “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” – Hồ Chí Minh (Di chúc, tháng 5, 1965). ·                     “Người ta ăn của dân không từ một cái gì” – Nguyễn Thị Doan (Giám sát thực hiện chính sách, 11/9/2013). * Khoan bàn về chuyện “mực thước” là “ăn của dân không từ một cái gì”, trong suốt nửa thế kỷ 1965-2015. Hãy coi thử khúc giữa của nó còn những thứ “người ta” nào khác? ·                     “Nhiều lần tôi nói rồi, người ta nghĩ thế này nhưng người ta nói thế khác…” – Nguyễn Phú Trọng (Mỗi người một hướng, làm sao con đò sang sông, 10/01/2013) ·                     “Minh bạch, rõ ràng, muốn thế phải bằng quy chế, luật pháp, quy định, trước hết là con người ta trong sáng, công tâm. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, nói thật” – Nguyễn Phú Trọng (Cần làm rõ có hay không việc chạy chức, chạy quyền, 29/01/2015). ·                     “Chúng ta không ngăn và cũng không cấm được đâu các đồng chí, quan trọng nhất là đưa thông tin đúng, chính xác kịp thời để người ta có lòng tin đúng, ai nói thì nói trên mạng nhưng đây là thông tin chính thống của Chính phủ” – Nguyễn Tấn Dũng (Không thể ngăn cấm thông tin trên mạng, 15/01/2015). ·                     “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không lẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được” – Trương Tấn Sang (Tiếp xúc cử tri Sài Gòn, tháng 5-2011). ·                     “Bởi vì trong thực tế có những vụ việc người ta ‘chạy’ dữ lắm, người ta ỷ thế, ỷ quyền, ỷ tiền, ỷ bạc mà ‘chạy’ để thoát tội và gây ra tội lỗi mới” – Trương Tấn Sang (Trả lời phỏng vấn của TTXVN về nạn tham nhũng, 03/02/2015). ·                     “Người ta có thể trù úm một người, một nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc này” – Trương Tấn Sang (Sợ trù úm khi tố cáo tham nhũng thì đất nước này ra sao? 17/10/2012). ·                     “Xin nói thật là làm thủ trưởng thì nó khác, cho ai nói thì nói, không cho nói thì thôi, người ta nói mình nghe thì nghe mà không nghe thì quên” – Nguyễn Sinh Hùng (Tôi không ngồi nhầm vai – 07/8/2011). ·                     “Người ta có thẻ nhà báo rồi tại sao lại cần phải giấy giới thiệu?” – Nguyễn Sinh Hùng (Lề luật vào dự các phiên toà, 22/12/2014). ·                     “Nếu người ta căn cứ 312 văn bản này để mà tổ chức thực hiện thì gay go rồi. Mà nếu không tổ chức thi hành thì lại là vi phạm pháp luật” – Nguyễn Sinh Hùng (Hậu quả 312 văn bản sai luật, 11/6/2014). ·                     “Nhiều khi đang biểu quyết cùng một dự án luật, nhưng số lượng đại biểu tham gia biểu quyết thay đổi liên tục: lúc thì 480, lúc bốn trăm bảy mấy, lúc cao hơn năm người, lúc tụt xuống ba người… Có nghĩa là người ta biểu quyết hộ người khác nên lúc bấm nút, lúc thì quên” – Nguyễn Thị Kim Ngân (Nhiều đại biểu vào QH để hỏi mồi và vỗ tay, 25/7/2015). ·                     “Trong hoàn cảnh hiện nay, muốn đồng thuận, nhất trí, không phải ‘ép người ta mà được’, không phải chúng ta cứ ‘khư khư áp đặt’mà được” – Đinh Thế Huynh (Hội Nghị báo cáo viên miền Bắc, các cơ quan đảng uỷ trực thuộc TW, 16/8/2012). ·                     “Việc luân chuyển theo yêu cầu của hội nghị TƯ 4 đã được làm bài bản, không phải theo cách cũ làm ào ạt khiến người ta nghĩ là chạy được” – Tô Huy Rứa (Tôi cũng trăn trở, 29/01/2015). ·                     “Còn nếu không chuẩn bị, cứ để anh trẻ này làm phó phòng, ra bỏ phiếu chung với ông giám đốc thì ai người ta bỏ phiếu cho anh phó phòng” – Tô Huy Rứa (Bố trí các chức danh lãnh đạo, 21/8/2014). ·                     “Nhà người ta trị giá 10 tỉ mà ông nhân viên tín dụng định giá lên đến 50-70 tỉ, rồi lãnh đạo ngồi ở nhà không nắm được giá trị thật cứ gật gù ký…” – Nguyễn Bá Thanh (Báo cáo láo quen rồi, 20/3/2013). ·                     “Muốn phát triển mạnh để đuổi kịp và vượt người ta thì chủ tịch xã phải có tầm chủ tịch huyện, chủ tịch huyện phải có tầm chủ tịch tỉnh” – Vũ Đức Đam (Chuyện chưa biết về PTT trẻ nhất, 13/11/2013). ·                     “Mỗi khi có tệ nạn mới phát sinh, người ta lại đổ tội cho giáo dục” – Phạm Vũ Luận (Làm bộ trưởng giáo dục khó hay dễ, 01/12/2014). ·                     “Chúng ta không thể vì một hiện tượng cá lẻ mà suy rộng ra một nền khoa học vô dụng…Công bằng mà nói chúng ta cũng đã có rất nhiều sáng tạo, nghiên cứu khoa học được ứng dụng thành công. Đơn cử như Việt Nam là 1 trong 4 nước trên thế giới làm được vắc-xin Rota. Điều này không phải nước nào cũng làm được. Đây là những nghiên cứu khoa học được đánh giá cao nhưng lại không được nhắc tới nhiều bởi lẽ người ta cho rằng đó thuộc trách nhiệm của nhà khoa học. Trong khi đó những sáng chế của người dân bình thường lại được được nhiều người đánh giá cao cũng là chuyện dễ hiểu” – Nguyễn Quân (Bộ trưởng KH-CN nói về Hai Lúa chế tạo xe bọc thép, 10/12/2014). ·                     “Cách đặt câu hỏi, nội dung thăm dò chung quá, đại khái quá, chỉ cho người ta hài lòng, không hài lòng hoặc rất hài lòng” – Vũ Mão (Vì sao người dân chưa hài lòng, 24/8/2014) ·                     “Người ta đang ốm đau không nên nói nọ nói kia” – Phạm Thế Duyệt (Người ta đang ốm, 09/01/2015). ·                     “Đó là chuyện của người ta. Không có chuyện giải trình gì cả. Mình là dân biểu, họ cứ nhầm lẫn…” – Đỗ Văn Đương (trả lời phỏng vấn của TNO về việc Liên đoàn Luật sư phản đối nhận định của đương sự là luật sư chỉ bào chữa cho người có tiền, 01/11/2014). ·                     “Tôi cho rằng người ta vẫn cứ im lặng để người ta hiểu như rằng đây cũng coi nó như một bức thư nặc danh vậy” – Phạm Quý Thọ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trả lời phỏng vấn của BBC Việt ngữ về trang CDQL) * Với ngần ấy những danh ngôn nội bộ vừa tạm liệt kê, người nghe sẽ tức khắc nhận ra ngay cái thứ “người ta” đó là ai. Không chỉ trong đảng, mà cả người ngoài đảng; không chỉ người trong nước mà cả người ngoài nước; không chỉ người VN, mà cả người nước ngoài (như Carl Thayer)… cũng đều thấy cái thứ “người ta” đó là ai: ·                     “Với tiêu chí hạn chế tuổi lãnh đạo ở ngưỡng 65 tuổi, thì người ta luôn mở ra đặc lệ với ghế Tổng Bí thư Đảng. Có nguồn nói thậm chí người ta sẽ mở ngoại lệ ra cho hai cá nhân đợt này” – Carl Thayer (Trả lời phỏng vấn của BBC về Hội Nghị TW 10, 05/01/2015). Không phải đảng viên CSVN, không phải đảng viên cao cấp của CSVN, thì cách nào mà “người ta” có thể mở ra đặc lệ hay ngoại lệ cho dăm ba chóp bu giữ ghế? Thế, vì sao đảng viên nói về đảng viên mà phải xa gần bóng gió? Có phải vì tất cả đều cần tránh va chạm thẳng mặt, giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với nhóm lợi ích; hay giữa nhóm lợi ích với nhóm lợi ích? Hoặc giả, đơn giản chỉ vì nỗi ám ảnh rằng tai hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, có khi không chỉ 1 lần/1 người, như kinh nghiệm năm con ngựa này có 2 đám ma to đùng làm gương rèn cán: Phạm Quý Ngọ (18/02/2014) & Nguyễn Bá Thanh (13/2/2015)? Không xa gần bóng gió để mà được thử các loại độc dược tân kỳ à? * Mà không chỉ một dạng “người ta” hiền lành nhưng dễ chết đó. Phiên bản của những xa xôi bóng gió ấy còn là những “họ”, những “một số người”, những “một số hiện tượng”, những “bộ phận không nhỏ”… ·                     “Tôi nghĩ rằng đa số anh em là như vậy nhưng có một bộ phận mà đảng nói là không nhỏ…, bây giờ không biết nằm ở đâu. Dân hỏi mãi, đảng hỏi mãi nhưng không trả lời được. Từ Trung ương đến cơ sở đều lúng túng chỗ này” – Trương Tấn Sang (Một bộ phận không nhỏ không biết nằm đâu, 15/10/2014). Thế, cái tập thể có nhiều bộ phận không nhỏ mà không ưa nhau đó làm gì? Cái gì? Làm giàu à? Thiệt sao? Cách nào? ·                     “Chúng tôi theo dõi mới biết là tham nhũng ngày càng tinh vi. Tham nhũng không phải đứng một người riêng lẻ mà nó dây mơ rễ má, hình thành những nhóm nữa, xâu chuỗi bao che, bảo vệ nhau” – Trương Tấn Sang (Đề phòng người chống tham nhũng bị tấn công ngược, 03/12/2014). Có trễ quá không, cái chuyện đề phòng người tố tham nhũng (hay tiến hành điều tra chống tham nhũng) bị tấn công ngược, bằng cả chất độc phóng xạ ARS? Mục tiêu là những đồng chí vô hình (hoặc không cần mô tả), và vô danh (không cần nêu tên, hoặc chỉ cần một ẩn số X thay cho cái ẩn danh mà ai cũng hiểu). Động cơ là chiếc ghế. Phương thức là trồi đạp chiếm chỗ. Phương tiện xưa là tuyên giáo, nay là FB. Công việc chính thức và công khai là lên án mông lung, kiểu ném đá qua tường, trúng ai nấy chịu (bởi, đứa nào tay chẳng nhúng chàm), mà không cần hay chẳng dám gom trách nhiệm làm rõ từng vụ việc. Khi ném ra cái từ “người ta”, là tác giả đã ném cả cái trách nhiệm bôi nhọ/ngáng chân/giật chỏ kia lên bàn kẻ khác, tất yếu không phải là “ta” hay “chúng ta”. Cái từ “người ta” màu nhiệm này còn có thêm một đặc tính quý phái khác là can đảm/dũng cảm/không né tránh/dám nhìn thẳng nói thật …tới một sự cố nào đó, được lên báo, mà lại đủ “khôn ngoan” để có chỗ đứng bên này lằn mức an toàn, là không một ai cần làm gì cả. Như vậy, có cần lắm không cái chuyện đề phòng bị tấn công ngược vừa nói đó, một khi đảng viên xách mé những đồng chí đối thủ bằng cái từ “người ta” vô hình/vô danh/vô can/vô trách nhiệm và vô hình chung trở thành vô dụng kia? Khó quá. Làm sao Phạm Quý Ngọ và Nguyễn Bá Thanh có thể trả lời hay giải thích thêm cái từ “người ta” hiền lành mà đầy hiểm nghèo/trắc trở… này cho rốt ráo? * Ở tầm quốc gia, cái từ “người ta” trớ trêu/trí trá ấy còn là cái hiểm hoạ gây tác hại kinh hoàng hơn nữa… Sau hơn nửa thế kỷ người dân bị tước đoạt mọi thứ quyền làm người, quyền công dân, quyền có quan điểm cá nhân… để rộng chỗ cho cái tâm lý vô can và vô dụng “người ta” đó ăn sâu vào đầu óc mọi người. Như thể không có lũ “người ta” ấy là không thể có đất nước này. Từ ấy, đất nước đã trở thành đất nước của bọn “người ta” kể trên. Từ ấy, chuyện đất nước là chuyện của “người ta” tuỳ nghi định đoạt. Từ ấy, đất nước được rao bán/đổi chác tuỳ ý “người ta” định giá. Từ ấy, bất kỳ ai có nhã ý góp sức giải quyết vấn nạn của đất nước thì lập tức sẽ bị bè lũ “người ta” trả thù đến nơi đến chốn, kể cả tra tấn đến chết, bỏ tù rục xương, gia đình bị cô lập kinh tế lẫn giao tiếp xã hội… Từ ấy, với quyền trả thù và phương tiện trả thù trong tay, dần dà cái đất nước của lũ “người ta” kia thu gọn vào bộ phận lãnh đạo, cả bên hành chính lẫn bên đảng đều gọi là trung ương. Rồi đất nước của cái lãnh đạo trung ương “người ta” kia thu hẹp thêm một cấp nữa, vào tay bộ chính trị. Ở giữa cái lõi bộ chính trị “người ta” đó, đất nước bị treo căng xác giữa bốn cái cọc đầu têu có tên là tứ trụ. Bấy giờ, ở đỉnh điểm tối cao đó, chuyện giải quyết vấn nạn của đất nước là hoàn toàn thuộc về …thế hệ kế tiếp. ·                     “Mai sau thế hệ con cháu tài giỏi hơn chúng ta sẽ làm thay” – Trần Đình Long (Phó chủ nhiệm UBLP/QH, Bấm nút thông qua, 21/05/2010). ·                     “Tần Thủy Hoàng xưa nếu không quyết liệt thì làm sao để lại Vạn lý Trường Thành?” – Trần Bá Thiều (GĐ CA Hải Phòng, Bấm nút thông qua, 21/05/2010). Kể cả chuyện Hoàng Sa-Trường Sa, mỏ khoáng và ngư trường của ta trên Biển Đông. Kể cả chuyện biên giới, thác Bản Giốc, rừng đầu nguồn, Bôxít Tây Nguyên, resort trên đỉnh đèo Hải Vân… Kể cả chuyện nợ công gần ngang bằng tổng sản lượng quốc gia. Kể cả chuyện các sư đoàn công nhân TQ trên đất Việt. Kể cả chuyện dự phóng về một VN phủ tràn phóng xạ hạch nhân… Mà không, bấy giờ nào còn đất Việt, nào còn VN! Hoá ra, cái “mực thước cho người ta bắt chước” trong tờ di chúc nguệch ngoạc chết tiệt kia đã đưa cả dân tộc đến bờ diệt vong. Bởi, ngay cả cái “người ta” nọ cũng đã mang một nghĩa bành trướng thành “NGƯỜI TA” khác. ·                     “Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này không còn VN?” – Việt Khang (Anh là ai?) Hoạ chăng, bấy giờ, cái còn lại chỉ là một Khu vực Hành chính An Nam của “NGƯỜI TA” ? 16/02/2015 – Kỷ niệm 226 năm vua Quang Trung cùng quân sĩ ăn Tết Kỷ Dậu trước khi tiến quân vào Thăng Long.Blogger Đinh Tấn Lực
......

Về cái chết của ông Nguyễn Bá Thanh

Vấn đề đầu độc bằng phóng xạ và cái chết của ông Nguyễn Bá Thanh (1953-2015) Hình được cho là của ông Nguyễn Bá Thanh khi đang điều trị tại Hoa Kỳ. Theo những mô tả được phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc phải là bệnh rối loạn sinh tủy (pancytopenia) khi hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi, không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị đầu độc bằng phóng xạ. Ngày 13.2.2015 ông đã từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm nấm. Quan điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ: Trong cuộc gặp gỡ với báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được. Phát biểu của ông Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác. Theo những thống kê quốc tế, thì có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30% còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi của việc sử dung một số thuốc thuốc thông dụng như thuốc chống tê thấp như Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol, Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền (late onset hereditary bone marrow failure syndromes). Được lưu tâm hơn cả là nguyên nhân do nhiễm phóng xạ. Trong buổi gặp báo chí nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó ban Tuyên giáo Trung Ương vặn ngược lại với cung cách kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói bị đầu độc?. Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa học phải có chứng cứ.... Chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ thể.... Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể. Đầu độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác: Nếu cho rằng ông Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy nhất trên thế giới. Đầu tháng 11 năm 2006 Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin. Ngày 28 tháng 10 năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị hôn mê, thận và gan không còn hoat động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11 tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho phép. Đầu năm 2012 người ta tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng 10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng (moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của Arafat vẫn còn là một hoài nghi. Mặt khác, điều này cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính "ưu việt" của chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra dấu vết. Polonium 210 Chất độc phóng xạ Polonium 210 phát ra tia alpha, không mầu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ (quãng 1-2µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất phóng xạ tia gamma binh thường. Cách sử dung lại rất dễ dàng. Khi sử dụng không gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào trong cơ thể qua đường tiêu hóa/hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu. Ở trong cơ thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1mm, song đủ để phá nát các tế bào trên đường đi của nó. Khi Polonium 210 còn nằm trong dạ dày nó làm các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng phân chia nhanh, ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp (leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie) sau chừng 9 ngày. Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy , tối thiểu là lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lương (prognosis) là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và hệ thần kinh, thì tiên lương là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót. Giả thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ Trang mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm 2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được "bạn“ chiêu đãi, đưa đi đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc. Trong khi công tác ở Thụy Điển, ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108 với chuẩn đoán "rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7 điều trị tại Singapore và từ tháng 8 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm nay ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông đã mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày 13.2.2015 tại Đà Nẵng. Trang mạng CDQL quyết đoán là các bác sĩ Mỹ đã định bệnh "Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu thuật ghép tủy. Nay ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi bỏng. Thông tin của CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở đây. Chỉ có 2 tình huống có thể đã xẩy ra: Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng phóng xạ: Một chi tiết biện minh cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn biến của bệnh ông Thanh lại không "điển hình“, như tiên liệu của 1 cuộc đầu độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là 1-2 tháng sau là nạn nhân chết. Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh 5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị "đầu độc“ ông mới mất. Nếu đặt tiền đề rằng chứng "rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì "chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai nạn nguyên tử gây ra. Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm hơn (như Yttrium90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lương bệnh của ông cũng là nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông. Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ: Trong thời gian qua trang mạng CDQL đã tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ. Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò, rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết tóc, làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3 lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị. Người dân chờ đợi CDQL tung ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ Polonium210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh, ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của ông. Kết quả thử nghiệm máu vào tháng 5-2014 mà ông Phạm Gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất. Lời kết Cho tới ngày ông Thanh mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng chứng. Ông Nguyễn Bá Thanh đã được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như một bí mật quốc gia. Ngày 7 tháng 1 vừa qua ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong lãnh vưc sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và đúng ở khắp nơi. Ở phương Tây cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào. Ở trường hợp có người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị. Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra được. Trong trường hợp không có yếu tố phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ Tướng truy tố kẻ vu khống và đòi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ, thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này. Thủ phạm có phải là ông Nguyễn Xuân Phúc hay không, cũng là nhiệm vụ mà nhà nước phải làm rõ. Ngành công an Việt Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này. TKT Theo danluan.org
......

Bàn chuyện rời bỏ đảng

Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên Cộng Sản còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào? Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên... những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bổng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho. Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây: Điều thứ nhất Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong Đảng Cộng Sản hay những người đã từng bị Đảng Cộng Sản đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng, quả là ĐCSVN “giết người như ngóe.” Ai chống đảng - đảng diệt! Ai chưa chống đảng, mà đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống đảng - đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với đảng - nhất là người thuộc các đảng yêu nước không Cộng Sản - thì đảng cho “đi mò tôm,” tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của đảng - chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết - đảng “thịt.” Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của đảng - đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của đảng. Người cảm tình với đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận - đảng cũng “thịt.” Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, đảng nghi là gián điệp - đảng “thủ tiêu.” Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên... của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà đảng nhất quyết bác bỏ “nhân tính,” chỉ thừa nhận “giai cấp tính,” mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là “thú tính.” Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là “địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm... đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn Phát-Xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay? Thế nhưng, hễ ai - các nhà trí thức, các đảng viên của đảng - dám đề cao “nhân tính” thì đảng liền phê cho là “mất lập trường,” là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính.” Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không Cộng Sản, như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v... những năm sau khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với đảng, nhưng khác về đường lối, như những người trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người Cộng Sản ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha - phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người trotskistes là “một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát-Xít Nhật và chủ nghĩa Phát-Xít quốc tế,” “đàn chó trotskistes,” “những kẻ đầu trâu mặt ngựa,” “những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác,” “kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ,” “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất,” v.v... Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho trung ương (TƯ) đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v... (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên Cộng Sản người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật Giáo...) sau khi Đảng Cộng Sản tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Nước VNDCCH do Chủ Tịch Trường Chinh ký ngày 20 tháng 6, 1961), còn sau 30 tháng 4 năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Uy Ban Quân Quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu Phát-Xít, mệnh danh là “trại cải tạo.” Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam-Đà Nẵng hồi 1975... Chính vì phủ nhận “nhân tính,” nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân “vùng địch.” Đặc biệt cần nói đến vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của đảng từng chiến đấu cho đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản.” Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí Thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói, “Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.” Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam! Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu Đảng Cộng Sản thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ - mấy ủy viên TƯ đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu Cộng Sản, thì họ bị quy là “phần tử xét lại chống đảng,” bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù. Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi đảng cũng coi thường tính mạng con người: Cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên, “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.” Điều thứ hai Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu “người cày có ruộng.” Khi cần lôi kéo nông dân theo đảng làm cách mạng, Đảng Cộng Sản tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, Đảng Cộng Sản vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì Đảng Cộng Sản đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là Đảng Cộng Sản, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân,” v.v... Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi Đảng Cộng Sản đã nắm quyền trên cả nước, đảng liền thảo hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân,” có nghĩa là Đảng Cộng Sản đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của Đảng Cộng Sản là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, Đảng Cộng Sản thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối “quốc hữu hóa,” nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có lợi cho đám quan lại Cộng Sản cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi. Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam,” để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như Tổng Thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu, v.v. và v.v... Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được sự thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng! Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “nhà nước công nông,” “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương mà “nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột,” “đồng lương chết đói,” thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính vô sản,” thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố... khoác cái áo “vô sản lưu manh” (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính Trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu cưỡi cổ “thằng dân.” Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” - điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong “Chương Trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,... nhưng khi Đảng Cộng Sản nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho Đẳng Cộng Sản. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban Tuyên Huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: “Tố Hữu, nguyên trưởng Ban Tuyên Huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây.” Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm. Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: Ông có phải là Cộng Sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: không. Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa Mác-Xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi.” Trên báo Le pays ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-Xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được.” Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25 tháng 6, 1946, trả lời đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés,” tạm dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt.” Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937-38 chửi bới thâm tệ những người trotskistes. Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp Định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn, v.v. và v.v... càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được? Điều thứ ba ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với Đảng Cộng Sản hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi trong là tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của Đảng Cộng Sản (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v..., trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của đảng... đều phải do các đảng viên Cộng Sản nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v... nhưng đảng viên Cộng Sản hay đảng đoàn Cộng Sản những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì.” Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì Đảng Cộng Sản chủ trương phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách “chỉnh huấn,” rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch Đông. Trong “chỉnh huấn,” buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như địa chủ, tư sản... thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là Đảng Cộng Sản, và anh ta sẽ được đảng sử dụng. Tuy vậy, đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với đảng thì đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được đảng sử dụng, nhưng bao giờ đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành phần.” Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo Sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái “chủ nghĩa” này. Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc. Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa Đảng Cộng Sản đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của đất nước làm cho nó càng thêm suy bại. Mặc dù Đảng Cộng Sản đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLiên Xô dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP Liên Xô 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa. Cũng nên thấy rằng một khi Đảng Cộng Sản cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị Cộng Sản đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị Cộng Sản. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào Đảng Cộng Sản, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!” Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLiên Xô đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLiên Xô tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ Cộng Sản họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29 tháng 1, 2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ Chức TƯ triệu tập ngày 27 tháng 1, 2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ Chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp Hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại Hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí Thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ,” chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều Lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại Hội Toàn Quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp Hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi. Điều thứ tư Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước. ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách Mạng tháng 8. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là Đảng Cộng Sản) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của Đảng Cộng Sản đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3, 1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: Đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh Niên Tiền Tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội... Đại diện của chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (Đảng Cộng Sản) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của Đảng Cộng Sản là: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền. Đảng Cộng Sản thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu Đảng Cộng Sản có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp (theo Hiệp Định Sơ Bộ – 6 tháng 3, 1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật. Đảng Cộng Sản còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà chính là tội, tội ác. Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La,” chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại,” rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia; Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo Liên Xô, tuyên bố coi Liên Xô là tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi Liên Xô là “xét lại hiện đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với Liên Xô. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, Đảng Cộng Sản lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô, Trung Quốc (3-4 tháng 9, 1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười hai chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên “thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc; mặc cho Trung Cộng làm mưa làm gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo... Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang “chiếm cứ” ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam. Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cấm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt. Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc-Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,” cho nên dù có những tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sụ tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v... ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết,” nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng,” mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù. Dưới chế độ toàn trị của Đảng Cộng Sản, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó Đảng Cộng Sản lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm... lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?” Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức Cộng Sản” và việc “xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó. Điều thứ năm ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn đất nước và dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ Nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi “phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin.” Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên “mãi mãi cái loa rè,” “già rồi đâm lú.” Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn,” cái công thức từ đời xửa đời xưa Cộng Sản dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh,” cứ Liên Xô, Trung Quốc làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên Đảng Cộng Sản mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người.” Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không được đổi màu.” Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng! Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì tổ quốc và dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài... Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: Có nên tiếp tục ở trong cái Đảng Cộng Sản này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị dân tộc và đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà. Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể dân tộc, cơ thể đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì dân tộc và đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng Đảng Cộng Sản từng rêu rao và hứa hẹn? Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!” Đại hội đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc nãy” thôi. Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho tổ quốc và dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác... đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do. Theo nguoi-viet.com
......

Sự suy thoái của Đảng CSVN nhìn từ vụ Báo Người Cao Tuổi

Sự “tố cáo” những sai phạm lẫn nhau giữa Bộ Truyền thông & Thông tin (Bộ 4T) và Hội Người cao tuổi liên quan đến vụ thanh tra “đột xuất’ của Bộ về các bài báo loan tải trên báo Người cao tuổi trong mấy ngày vừa qua, cho thấy là có điều gì không ổn, không chỉ trong việc quản lý ngành thông tin hiện nay, mà còn biểu hiện sự suy thoái, bệ rạc trong bộ máy thống trị của Hà Nội sau 70 năm cầm quyền. Trong các chế độ độc tài, truyền thông là một vũ khí quan trọng không thua gì bạo lực công an. Nó không chỉ trấn áp đối phương mà còn có khả năng kết tội và làm “bầm dập” cuộc đời của nhiều nạn nhân, trước khi an ninh nhập cuộc. Hình ảnh 800 tờ báo, cơ quan truyền thanh nằm dưới sự chi phối của một tổng biên tập đã nói lên sức mạnh tuyệt đối của Bộ 4T và Ban Tuyên giáo trung ương. Nhưng các biện pháp nửa vời của Bộ 4T đối với báo Người cao tuổi như rút thẻ báo chí của Tổng biên tập Kim Quốc Hoa, thu hồi tên miền nguoicao tuoi.org.vn; nhưng lại vẫn cho duy trì báo in cho thấy Bộ 4T chưa “dám đụng” đến Hội Người cao tuổi. Thanh Tra “Đột Xuất” Trong cuộc họp báo ngày 9/2, ông Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ 4T cho biết vụ thanh tra khởi đầu từ việc Hội Người cao tuổi đề nghị khen thưởng ông Kim Quốc Hoa là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, và Ban Thi đua khen thưởng Trung ương vào đầu tháng 11/2014 đã có công văn gửi Bộ 4T, thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, đề nghị chấp thuận khen thưởng. Tuy nhiên, theo ông Trương Minh Tuấn thì vì có quá nhiều sai phạm nên Bộ 4T không chấp nhận việc khen thưởng. Sự kiện này đã khiến cho bà đại biểu quốc hội Cù Thị Hậu, chủ tịch Hội người cao tuổi lên tiếng bất bình và yêu cầu Bộ 4T phải chỉ rõ sai phạm. Chính sự đòi hỏi của Cù Thị Hậu, Bộ 4T đã ra quyết định thành lập Đoàn thanh tra “đột xuất” bắt đầu ngày 7/11/2014 đến ngày 7/2/2015, kéo dài 64 ngày. Theo Đoàn thanh tra Bộ 4T cho biết là trong thời gian 2 năm 2013 – 2014, Bộ đã nhận rất nhiều thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến nội dung thông tin trên báo in và trang thông tin điện tử của báo Người cao tuổi. Nội dung trong các thư khiếu nại cho rằng báo Người cao tuổi đã thông tin sai sự thật, làm lộ bí mật nhà nước, gây hoang mang dư luận. Thời gian mà Bộ 4T nói rằng họ nhận nhiều thư khiếu nại, tố cáo chính là lúc mà báo Người cao tuổi bắt đầu phanh phui “biệt thự khủng” của nguyên thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền tại Bến Tre vào cuối năm 2013. Liên tục trong nhiều số báo năm 2014, báo Người cao tuổi đã tiếp tục phanh phui tài sản của gia đình ông Trần Văn Truyền gồm những căn biệt thự và nhà đất ở Bến Tre và thành phố Sài Gòn. Ngoài ra, tờ báo còn kê khai rằng trước khi về hưu, chỉ trong vòng 5 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2011, Trần Văn Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ và tương đương. Đương nhiên khi tin tức này được công bố, ông Truyền đã chối bỏ và lãnh đạo CSVN im lặng. Trong kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 13 vào ngày 12/6/2014, một số đại biểu đã chất vấn ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng thanh tra chính phủ hiện nay, về vụ việc ông Trần Văn Truyền, người tiền nhiệm của ông Phong, thì ông Tranh nói rằng: “khi còn đương nhiệm, ông Trần Văn Truyền đã kê khai tài sản đầy đủ và không có dấu hiệu thiếu trung thực”. Phát biểu của ông Huỳnh Phong Tranh đã như đổ dầu thêm vào lửa, khiến cho dư luận càng chú ý đến vụ tham ô của Trần Văn Truyền. Do đó mà ngày 24/7/2014, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã điều động cán bộ đến kiểm tra và xác minh tài sản của ông Trần Văn Truyền. Đoàn thanh tra làm việc kéo dài đến 3 tháng. Đến ngày 20/11/2014, Đoàn kiểm tra đưa ra kết luận thu hồi 6 căn nhà và đất tại Bến Tre và Sài Gòn mà ông Trần Văn Truyền đã chiếm; trong số nhà tịch thu này, không có “căn biệt thự khủng” mà báo Người cao tuổi phanh phui đầu tiên vì Ủy ban kiểm tra cho là của người con trai ông Truyền. Ngày 6/12/2014, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trì cuộc họp kiểm điểm ông Trần Văn Truyền. Đa số thành viên của Tỉnh ủy đều cho là "sai phạm của ông Truyền đã đến mức phải xử lý kỷ luật và báo cáo về Ủy ban kiểm tra trung ương". Ngày 30/12/2014, Ban bí thư đã ra thông báo về quyết định kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo ông Trần Văn Truyền. Vụ án “biệt thự khủng” của ông Trần Văn Truyền tưởng như đóng lại từ cuối năm 2014 sau khi Ban bí thư đưa ra kết luận; nhưng thực tế vẫn còn ầm ĩ . Thứ nhất, những người đứng sau báo Người cao tuổi không hài lòng quyết định kỷ luật “cảnh cáo” của Ban bí thư đối với ông Trần Văn Truyền. Đây là quyết định bao che theo kiểu ‘đánh chuột sợ vỡ bình” của Nguyễn Phú Trọng và coi thường công luận khi đảng giương cao ngọn cờ chống tham nhũng hiện nay. Thứ hai, những người đang nắm bộ máy đảng thấy khó chịu khi những cán bộ về hưu trong Hội Người cao tuổi đã dùng áp lực của dư luận - qua việc phanh phui các vụ án tham nhũng trên mạng internet - gây thanh thế và làm suy giảm tư thế lãnh đạo thượng tầng. Chính trong thế trận ầm ĩ đó, Ban bí thư đã phải dùng Bộ 4T để tìm cách đánh sập những người đứng đằng sau báo Người cao tuổi. Ai Đứng Sau Báo Người Cao Tuổi Báo Người cao tuổi là cơ quan thông tin của Hội người cao tuổi. Vì thế những thông tin, bài vở trên báo Người cao tuổi nằm trong sự chủ quản của Hội người cao tuổi. Đây không phải là một đoàn thể quần chúng bình thường. Nó là một đoàn thể ngoại vi của đảng CSVN nằm trong Mặt trận tổ quốc và có nhiệm vụ đoàn ngũ hóa những người lớn tuổi. Vì thế mà Hội có trụ sở riêng, có ngân sách riêng và nhất là có đảng ủy riêng để lèo lái các hoạt động của Hội. Hội người cao tuổi hiện được lãnh đạo bởi chủ tịch là bà Cù Thị Hậu, đại biểu quốc hội, anh hùng lao động và 3 phó chủ tịch là ông Đàm Hữu Đắc, Phạm Thị Sơn, Nguyễn Trọng Vinh cùng với một ban thường vụ gồm có 15 người. Điểm đặc biệt của Hội người cao tuổi là có một ban chấp hành trung ương rất hùng hậu. Ngoài danh sách các Chủ tịch Hội tại các Tỉnh, Thành trên cả nước, còn có sự tham dự của đại diện của một số đoàn thể lớn nằm trong Mặt trận tổ quốc như Trung tướng Nguyễn Song Phi, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam; Võ Văn Cận, Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam; Lưu Duy Dần, Hiệp Hội Làng nghề Việt Nam; Nguyễn Văn Đắc, Câu lạc bộ hưu trí Bộ Ngoại giao; Vũ Hoan, Hiệp Hội Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam; Linh mục Phan Khắc Từ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam; Võ Văn Trác, Hội Làm vườn Việt Nam; Trần Hữu Thăng (Hội Y học Việt Nam); Lê Thắng (Câu lạc bộ Sĩ quan Bộ Công an) vân, vân…. Ngoài ra Hội người cao tuổi còn là nơi quy tụ những thành phần cựu cán bộ cao cấp từng ở trong đảng, nhà nước, chính phủ tham gia sau khi về hưu. Thành phần “lão thành cách mạng” này không chỉ là những nhân tố giúp cho Hội người cao tuổi có tiếng nói và tư thế lớn đối với các đoàn thể khác, mà còn là nơi “lưu giữ” những thông tin nhạy cảm của các cán bộ cao cấp đã về hưu hay còn tại chức. Chính nhờ luồng thông tin nhạy cảm và chỗ dựa vững chắc này mà trong 5 năm qua, báo Người cao tuổi đã phanh phui hơn 1500 hồ sơ tham nhũng từ cấp địa phương lên đến cấp trung ương. Nhờ đặc điểm này mà báo Người cao tuổi đã qua mặt nhiều báo khác và có một vị trí đặc biệt trong làng báo Việt Nam hiện nay. Dùng Áp Lực Bên Ngoài Những diễn biến nói trên cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN đang có vấn đề rất lớn. Thay vì dùng quyền lực đảng để giải quyết, mỗi bên lại viện dẫn luật pháp để đổ tội sai phạm cho nhau và dùng dư luận bên ngoài để tạo áp lực bên trong. Bộ 4T đã dùng một số báo chí thân cận loan tải những nội dung bênh vực các lập luận của họ. Ngược lại bà Cù Thị Hậu, ông Kim Quốc Hoa tán phát ba bài chỉ trích những sai phạm của Bộ 4T lên mạng xã hội và kể cả báo in qua hệ thống của Hội ở các Tỉnh, Thành. Bà Cù Thị Hậu còn nhanh chóng lên tiếng phản bác những kết luận sai trái của Bộ 4T, cho rằng đoàn thanh tra có dấu hiệu quy chụp, thiếu dân chủ. Mấu chốt của những tố cáo “sai phạm” giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi hiện nay chính là vấn đề “xử lý” nạn tham nhũng. Trận chiến này đã được ông Nguyễn Phú Trọng tung ra từ cuối năm 2011 nhằm tấn công phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng, nhưng nay đã trở thành vấn nạn cho chính đảng CSVN, vì phe nào cũng nhân danh “chống” và “xử lý” tham nhũng để bôi nhau. Muốn bôi nhau hiệu quả hầu khuynh loát được quyền lực, các phe đã dùng “dự luận bên ngoài” để “gây áp lực bên trong” vì quá khứ cho thấy là những vụ điều tra, truy tố không mấy hiệu quả do hiện tượng bao che lẫn nhau. Sự ra đời của những trang Blog Quan Làm Báo và Tư Sang Nham Hiểm vào năm 2012 là đợt mở đầu “dùng dư luận bên ngoài” tấn công bên trong bằng cách tiết lộ một số thông tin nhạy cảm của Nguyễn Tấn Dũng hay Trương Tấn Sang. Gần đây là sự xuất hiện của Blog Chân Dung Quyền Lực ngay vào lúc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đảng 12 vào cuối năm 2014, phanh phui những tin tức nhạy cảm của gia đình Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Bá Thanh hay tấn công uy tín của Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang để khuấy động dư luận hầu tạo áp lực bên trong. Đây không phải là sáng kiến mới lạ mà hầu hết các phe nhóm trong những chế độ độc tài cộng sản đã xử dụng để tấn công lẫn nhau và nhất là để dồn trách nhiệm, trước khi hạ gục một đối thủ nào đó. Hai năm trước khi sụp đổ vào các năm 1986 và 1987, các phe nhóm trong những chế độ cộng sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cũng đã tung ra những tin tức tham nhũng, cuộc sống giàu sang, hưởng thụ của một số ủy viên Bộ chính trị qua truyền đơn, bài viết nặc danh để đòi hỏi đảng phải điều tra. Đương nhiên cấp lãnh đạo thì kết án những loại tin này là độc hại, ra lệnh ngăn chận, tẩy chay; nhưng điều tác hại khó lường của các diễn biến nói trên là nội bộ đảng không còn tin tuyệt đối vào cấp lãnh đạo và bắt đầu đòi hỏi mọi quyết định phải mang ra thảo luận và biểu quyết ở trung ương. Khi quyền lực tuyệt đối không còn nằm trong tay Tổng bí thư hay Bộ chính trị mà phải chuyển dần sang cho Trung ương đảng với nhiều phe nhóm chi phối, kể cả những thành phần lãnh đạo đã về hưu nhảy vào khuynh loát, sự lãnh đạo và các quyết định của đảng sẽ liên tục bị thay đổi và rơi vào thế lúng túng trước những áp lực đòi chấn chỉnh của người dân, trước khi sụp đổ. Tại hội nghị 10 của Trung ương đảng vào đầu tháng 1/2015, đảng CSVN đang rơi vào vết mòn của Đông Âu cách nay 28 năm. Đó là lần đầu tiên, Trung ương đảng CSVN bỏ phiếu đề cử 22 thành viên Bộ chính trị và Ban bí thư, cũng như 229 thành viên Trung ương đảng cho nhiệm kỳ 2016-2021 mà không chờ đến đại hội đảng 12 vào tháng 1/2016. Trước đây trách nhiệm tuyển chọn nhân sự thường nằm trong tay Tổng bí thư đảng và Bộ chính trị. Nay trách nhiệm này rơi vào tay Trung ương đảng cho thấy là hệ thống quyền lực của đảng CSVN thật sự đang rơi vào sự chi phối của nhiều nhóm ảnh hưởng, chứ không còn tập trung trong tay vài thành viên Bộ chính trị. Chính sự chuyển hóa quyền lực này đã và đang manh nha xuất hiện qua sự đối đầu giữa Bộ 4T và báo Người cao tuổi mà trước đây chưa hề xảy ra. Đây không đơn thuần là sự bất bình về cách làm việc giữa hai cơ quan, mà là sự đối đầu của hai nhóm người quyền lực muốn gia tăng ảnh hưởng bằng cách dùng áp lực bên ngoài để tranh giành thế chủ đạo của mình. * Cuối cùng có thể ông Kim Quốc Hoa sẽ phải rời trách nhiệm Tổng biên tập báo Người cao tuổi để tránh những tổn thương quyền lực của Bộ 4T, nơi mà CSVN đang cố giữ chặt để khống chế dư luận. Nhưng ông Kim Quốc Hoa và khối nhân sự từng nắm những thông tin nhạy cảm trong Hội người cao tuổi sẽ không chịu thua. Đây là lúc nhiều trang Blog phanh phui tham nhũng sẽ xuất hiện để dùng những áp lực bên ngoài thu hẹp dần khả năng kiểm soát của chế độ lên xã hội. Lý Thái Hùng Ngày 15/2/2015 Theo viettan.org
......

Việt Nam chỉ giả vờ thông qua những biện pháp bảo vệ Nhân quyền của LHQ

Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn, việc này được ca ngợi bởi Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền tại Bangkok là "một bước đi quan trọng nhằm bảo đảm việc phòng ngừa và ngăn cấm việc tra tấn." Nhưng bất chấp bao nhiêu điều ước quốc tế chế độ này đã ký kết, điều kiện nhân quyền trong nước vẫn không thay đổi và trong thực tế, việc phê chuẩn này chỉ được sử dụng như nước cờ tuyên truyền. Việt Nam đã ký kết gần như tất cả các công ước bảo vệ nhân quyền mà thế giới đã từng ban hành. Trong thực tế, việc hăng hái phê chuẩn các công ước của Liên Hợp Quốc không phải là điều gì mới. Khoảng năm 1982, Việt Nam trở thành thành viên của Công ước LHQ về các quyền Dân sự và Chính trị. Điều đó đã không thể dừng việc chà đạp nhân quyền của chính quyền này. Theo Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế, Việt Nam có số lượng tù nhân chính trị cao nhất - 212 - ở khu vực Đông Nam Á. Báo cáo Nhân quyền gần đây nhất của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu ra thực trạng đáng quan ngại, rằng "những vi phạm nhân quyền cụ thể bao gồm sự ngược đãi liên tục của công an đối với nghi phạm trong thời gian bắt giữ bao gồm cả việc sử dụng vũ lực gây chết người cũng như điều kiện nhà tù khắc khổ; bắt bớ và giam giữ tùy tiện vì các hoạt động chính trị; và từ chối quyền được xét xử công bằng và nhanh chóng. Bản chất chính trị, nạn tham nhũng trầm kha, và sự quản lý kém hiệu quả tiếp tục bóp méo đáng kể hệ thống tư pháp. "Chính quyền này giới hạn tự do ngôn luận và báo chí và đàn áp các nhà bất đồng chính kiến; ngày càng hạn chế tự do internet; tiếp tục dính líu vào các cuộc tấn công các website chỉ trích theo như các báo cáo; duy trì giám sát các nhà bất đồng chính kiến; và tiếp tục hạn chế các quyền riêng tư và các quyền tự do hội họp, lập hội và đi lại". Từ năm 1982 đến nay, không có con số chính thức những người tìm cách chạy trốn khỏi đất nước nhưng bị bắt, bị đánh đập, bỏ tù và thậm chí bị giết. Không có con số chính thức và chính xác của các nạn nhân đã bị bức hại vì đã bày tỏ sự bất mãn với chính quyền. Chúng tôi càng mù tịt về những vụ việc chính quyền và công an tra tấn người dân thường. Chỉ biết rằng một bầu không khí vô cùng ngột ngạt đối với đa số người dân Việt Nam vẫn còn tồn tại ngay cả sau khi Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị đã có hiệu lực. Không phải hoàn cảnh khốn cùng đẩy hàng trăm ngàn người dân vượt biển mà chính là chế độ áp bức và chà đạp Nhân quyền trắng trợn của những kẻ say men chiến thắng sau mùa xuân năm 1975. Không ngạc nhiên khi tổ chức Phóng viên Không Biên giới xếp Việt Nam là kẻ thù của Internet. Gần đây, Freedom House, một tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ, công bố bản Báo cáo "Tự do trên thế giới 2015", trong đó Việt Nam vẫn được xếp hạng là một đất nước không có tự do, điều này hiển nhiên đặt ra sự nghi ngờ là Việt Nam ký các công ước bảo vệ nhân quyền để làm gì. Mặc dù chính quyền tiếp tục vi phạm các công ước mà họ đã ký kết, Liên Hợp Quốc và các định chế nhân quyền của nó không có biện pháp thích hợp để đối phó, cho phép Việt Nam tiếp tục ký kết và vi phạm chúng. Không ai có lợi, ngoại trừ chế độ độc tài. Bằng chứng là, từ cuối năm 2013, khi Việt Nam đã trở thành một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, cho đến nay những người lên tiếng phản đối đã bị bắt và bị kết án, Facebook bị chặn, các trang web truyền thông tự do bị đặt tường lửa, các địa chỉ email bị hack và các blogger nổi tiếng từng người một bị bắt giữ. Rõ ràng, Cao ủy Nhân quyền LHQ đóng một vai trò rất khiêm tốn trong việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam. Ngày 23 tháng 10 năm 2014 khi ông Trương Tấn Sang gửi Công ước chống Tra tấn để Quốc hội phê chuẩn, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang nhấn mạnh rằng: "Chúng tôi không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam." Và Quốc hội bù nhìn đã không có việc gì để làm ngoài việc ủng hộ chính phủ, đó là truyền thống lâu đời của cái định chế lập pháp này. Như vậy, sau lưng của Liên Hợp Quốc, chính quyền Việt Nam đã tìm cách để vô hiệu hóa Công ước. Việc thực hiện Công ước một cách đầy đủ đòi hỏi sự hiện diện và sự kết hợp hoạt động của nhiều định chế: Công an, viên kiểm sát, tòa án, truyền thông tự do và xã hội dân sự. Dưới hệ thống độc đảng hiện nay, các định chế này được quản lý bởi Đảng Cộng sản. Công an phạm tội mà không bị trừng phạt. Đối với những người bất đồng chính kiến, công an luôn được lệnh phải theo dõi, bắt giữ, đánh đập và khủng bố tinh thần. Viện kiểm sát và tòa án chỉ là hai bông hoa giả để trang trí cho chế độ. Nếu không có một nền pháp trị và các cơ chế để ngăn chặn và trừng phạt những kẻ tra tấn không tồn tại, thử hỏi, lấy nền tảng nào để thực hiện Công ước chống Tra tấn. Đất nước này có tất cả các định chế mà một xã hội dân chủ có thể có, đặc biệt là xã hội dân sự. Nhưng tất cả đều là giả tạo, điều này gây khó khăn cho người dân để nhận thấy được sự cần thiết phải xây dựng những định chế thực sự. Nhà cầm quyền sử dụng những định chế giả để chuyển hướng sự chú ý quốc tế và tước đoạt của người dân sự tài trợ từ quốc tế. Theo nguyên tắc, khi tham gia vào sân chơi quốc tế, chấp nhận sự ràng buộc của các Công ước quốc tế, nước kí kết phải có những biện pháp minh bạch, công khai và có thể kiểm chứng được để tạo ra các định chế mới nhằm nâng đỡ cho việc thực hiện bản Công ước, đồng thời sửa đổi các văn bản luật pháp quốc gia sao cho phù hợp với nguyên tắc và quy chuẩn luật pháp quốc tế. Quyết định của chính phủ “không áp dụng trực tiếp quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam” không là gì khác ngoài một luận điệu mập mờ, nước đôi nhằm mở ra con đường khác tạo điều kiện cho họ tiếp tục sử dụng tra tấn như một công cụ đàn áp đối lập và ngăn chặn phong trào đòi dân chủ tự do tại Việt Nam. Ở Việt Nam, Hiến pháp không bằng các bộ luật, các bộ luật không bằng các sắc lệnh dưới luật… Một luật gia Việt Nam từng tuyên bố rằng: “Ở Việt Nam có cả một rừng luật nhưng chỉ sử dụng luật rừng” xuất phát từ bối cảnh đó. Ấy vậy thì một Công ước như Công ước chống Tra tấn liệu có nghĩa lý gì?! Không lẽ Liên hiệp quốc đổ tiền của, nhân lực và thời gian ra để soạn thảo một văn bản luật quốc tế công phu như vậy chỉ để làm vật trang trí cho các chế độ độc tài như Việt Nam ?! Việt Nam là quê hương của hơn 90 triệu con người. Chúng tôi, những người hoạt động nhân quyền vẫn sẽ tiếp tục dấn thân tranh đấu cho Nhân quyền , Nhân phẩm và Tự do cho người dân chúng tôi bất chấp có các công ước bảo vệ nhân quyền hay không, bất chấp có nhân được sự quan tâm của Liên hiệp quốc và các định chế nhân quyền của nó hay không. Thế nhưng, tại sao Liên Hiệp Quốc lại chỉ đóng một vai trò mờ nhạt như thế trong lịch sử nhân loại? Phải chăng, nó không là gì hơn ngoài việc là một định chế bảo tồn cái nguyên trạng thế giới hậu đệ nhị thế chiến? Huỳnh Thục Vy Buôn Hô, tháng 2 năm 2015 Thục Vy xin chia sẻ với niềm vui nho nhỏ của mình nhân ngày cuối năm. Bài viết của Thục Vy về việc Việt Nam tuyên bố không áp dụng trực tiếp Công ước chống Tra Tấn của Liên hiệp quốc đã đăng trên trang tiếng Anh Asia Sentinel. http://www.asiasentinel.com/…/vietnam-passes-sham-un-right…/ Theo FB Viettan  
......

Blogger Đoan Trang chọn con đường gai góc mà đi

Blogger Đoan Trang: Cô gái thách thức những thử thách Nếu được sang Mỹ sinh sống, học tập và có cơ hội tạo dựng tương lai ở đây, ít có bạn trẻ nào lại quyết định từ bỏ để quay về nước. Nhưng đó lại lại sự lựa chọn của một ngòi bút trẻ từng làm việc cho truyền thông nhà nước nhưng rồi bị xem là thành phần ‘chống phá’ và trở thành mục tiêu của những vụ sách nhiễu, bắt bớ kể từ khi cô công khai dấn thân vào các hoạt động cổ xúy dân chủ-nhân quyền trong nước. Blogger Phạm Đoan Trang Photo Cô gái ấy là nhà báo tự do-blogger Phạm Đoan Trang, một trong những thành viên tích cực của Mạng Lưới Blogger Việt Nam, người được quốc tế biết đến qua các chuyến đi vận động từ Châu Á, Châu Âu sang tới Châu Mỹ, gặp gỡ chính giới các nước và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế để kêu gọi ủng hộ cho xã hội dân sự ở Việt Nam, đặc biệt là chuyến vận động hủy bỏ điều luật 258 mà Hà Nội thường dùng để trấn áp các ngòi bút bất đồng quan điểm với nhà nước. Blogger Phạm Đoan Trang và các bạn. Ảnh chụp ở San Diego, California Tại chặng dừng ở Mỹ trong cuộc hành trình, cô vinh dự nhận được suất học bổng nghiên cứu của Đại học Nam California và là một trong số 17 ngòi bút bênh vực nhân quyền trong năm 2014 được tài trợ chỗ ở tại Villa Aurora, tòa nhà sang trọng ở Los Angeles chuyên tiếp đón những nghệ sĩ tài hoa trên thế giới. Hoàn tất khóa học, cựu phóng viên chuyên trang Tuần Việt Nam của VietnamNet đã quay về nước vào cuối tháng rồi và gặp rắc rối ngay tại cổng vào Việt Nam, với buổi làm việc kéo dài 15 giờ đồng hồ với lực lượng an ninh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Vì sao một cây bút trẻ tài năng lại từ bỏ cơ hội gầy dựng một tương lai tốt đẹp hơn, một cuộc sống an toàn hơn ở nước ngoài để trở về đối mặt với những rủi ro, đe dọa? Trang về nước để làm gì và cô dự định con đường sắp tới của mình ra sao? Tạp chí Thanh Niên VOA mời quý vị cùng chia sẻ những tâm tình của cô gái đã đánh đổi công việc ổn định của một phóng viên nhà nước để được làm một ngòi bút tự do về tư tưởng và rời bỏ một môi trường viết không bị kèm kẹp để trở lại nơi ‘hứa hẹn’ đầy những thử thách, chông gai. Đoan Trang: Mỹ là môi trường dễ sống cho mọi người nên nhiều người đến Mỹ không muốn ra khỏi nước Mỹ, đặc biệt là những người đến từ các nước đang phát triển. Đã đến được Mỹ, đa số muốn ở lại để có cuộc sống thoải mái hơn, không bị đe dọa, ức chế. Em trước khi quyết định về Việt Nam cũng đã suy nghĩ rất nhiều. Đây là một quyết định khó khăn, dằn vặt. Ở các nước đang phát triển, cuộc sống người dân càng khó khăn, nhất là tình trạng vi phạm nhân quyền như Việt Nam. Thế nhưng, với một người viết, ở xã hội càng như vậy càng có nhiều chuyện đề viết, từ chuyện Biển Đông đến quan hệ Việt-Trung, Việt-Mỹ, đến vấn đề mất đất của dân oan, chuyện chà đạp nhân quyền trong lĩnh vực như tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được xét xử công bằng. Bọn em luôn cảm thấy muốn chứng kiến, muốn ghi lại, ‘sống để kể lại.’ Văn hóa chính trị Việt Nam là một văn hóa chính trị tồi tệ. Nó coi hoạt động của các đảng phái là cực kỳ nguy hiểm và xấu xa, chỉ mỗi đảng cộng sản là long lanh, đẹp đẽ thôi. Tất cả suy nghĩ lệch lạc như vậy từ thượng tầng đã lệch lạc rồi. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Vấn đề của xã hội Việt Nam không phải do dân tộc tính. Không dân tộc nào đẻ ra là xấu xa, mà nó xuất phát từ thể chế, từ văn hóa chính trị. Em tin là nếu có một thể chế khác, chắc chắn những thói hư tật xấu của người Việt Nam sẽ được sửa đổi rất nhanh. Blogger Phạm Đoan Trang Trà Mi: Tuy nhiên, để viết về Việt Nam không nhất thiết phải sống trong  nước mới viết được vì thực tế chứng minh là trong suốt thời gian ra khỏi nước, Trang không hề dừng bút. Thế thì, viết ở một nơi thoải mái hay ở một nơi gò bó, nên chọn nơi nào để được tự do thể hiện mình nhất? Đoan Trang: Những suy nghĩ, hiểu biết của em góp nhặt, chắp vá ở trong nước khi ra nước ngoài được hệ thống hóa. Mình làm việc có phương pháp, bài bản hơn. Thế nhưng thiếu một cái là ‘hơi thở cuộc sống’, mình không cảm nhận được trực tiếp. Có những vấn đề mình phải cảm nhận trực tiếp, chứng kiến tận mắt mới viết được. Phương pháp tốt nhưng không bằng kinh nghiệm thực tế, trải nghiệm. Trà Mi: Nhưng vấn đề là về nước có viết được hay không, Trang nghĩ thế nào? Đoan Trang: So với thời ‘Nhân văn Giai phẩm’ thì không gian tự do ngôn luận của người Việt Nam bây giờ đã mở rộng rất nhiều, không phải là do đảng cộng sản nhân hậu hơn hay tôn trọng nhân quyền hơn, mà là vì đó là xu thế tất yếu của thời đại. Thời hội nhập có internet, có mạng xã hội thì người dân chủ động mở rộng được tự do của họ hơn. Những tác phẩm nào không đăng được trên báo chính thống của nhà nước thì có thể đăng trên mạng. Cho nên, em nghĩ không hẳn là không có lối thoát. Tất nhiên, đã về nước thì chấp nhận phải có rủi ro. Nếu mình viết đi quá lằn ranh mơ hồ nào đó là họ đàn áp, bắt bớ như đã xảy ra với Anhbasam, blogger Hồng Lê Thọ, và blogger Bọ Lập. Chuyện đó xảy ra thì phải chấp nhận thôi, vì đó là cái giá phải trả cho việc thúc đẩy tự do ngôn luận. Trà Mi: Trang từng nói muốn về nước để chung sức xây dựng. Nhưng quay về chắc gì xây dựng được hay bị phí phạm tiềm năng, hoặc thậm chí vùi chôn khả năng, tương lai của chính mình khi bị kiềm hãm bằng mọi cách. Chi bằng ở bên ngoài mà còn đóng góp được chút gì, Trang cân nhắc lợi hại ra sao? Đoan Trang: Cái đó là cái giá, mình trở về nghĩa là mình chấp nhận cái đó. Nếu chúng ta cứ lo lắng sợ không bình yên, sợ trả giá thì cũng không đáng. Đời người sung sức nhất chỉ có giai đoạn tuổi trẻ thôi. Cứ chấp nhận rủi ro một chút. Trà Mi: Cũng có người nghĩ ngược lại rằng tuổi trẻ không bao lâu mà mình lao đầu vào nơi rủi ro nhất thì sẽ không làm được gì nhiều hơn. Đoan Trang: Tùy mình đánh giá kết quả mình đạt được cái gì.  Có thể về nước em không làm gì được nữa thật, chuyện đó có khả năng xảy ra. Em phải cố gắng giảm thiểu khả năng không làm được gì cả. Không làm được gì cả thì đúng là thà ở nước ngoài còn hơn. Trà Mi: Khi về nước, Trang có nói rằng sẽ cố gắng sống bình thường như mọi người bình thường. Hai chữ ‘bình thường’ ở đây nên được hiểu thế nào? Đoan Trang: Em rất muốn mọi người nhìn nhận công việc của người viết hay người đấu tranh dân chủ là chuyện bình thường, không có gì là khác người hay dũng cảm. Em mong muốn được nhìn nhận như vậy. Bình thường ở đây là vậy, chứ không có nghĩa là bỏ cuộc hay gì.  Trà Mi: Một Đoan Trang trước khi rời Việt Nam và sau khi trở về có gì khác? Đoan Trang: Em không thấy có gì khác cả, hoàn toàn vẫn thế. Trà Mi: Người ta nói đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Về nước lần này, hành trang bạn mang theo gồm có những gì? Đoan Trang: Em học được nhiều, cách suy nghĩ mọi thứ có hệ thống hơn chứ không chắp vá như trước. Em trải nghiệm về đời sống của cộng đồng người Việt bên Mỹ và của xã hội Mỹ. Em chứng kiến sự quan tâm của bà con người Việt hải ngoại quan tâm đến đất nước. Rất cảm động khi thấy bà con đi xa hàng chục năm, sống trong xã hội phồn vinh-thịnh vượng như vậy mà vẫn rất có lòng đối với đất nước. Trà Mi: Sau chuyến đi mở mang hiểu biết tại Mỹ_ quốc gia từng là cựu thù của Việt Nam, điểm khác biệt tiêu biểu nhất giữa hai nơi này, theo nhận xét của Trang, là gì? Đoan Trang: Xã hội Mỹ tiến bộ, tôn trọng nhân quyền, có nền tư pháp tuyệt vời, thật sự là một nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý-nhân quyền. Còn Việt Nam là một xã hội bất bình thường, giờ có thay đổi thì thật sự chỉ là để trở thành một xã hội bình thường mà thôi. Hiện ở Việt Nam có rất nhiều cái bất bình thường, vô lý. Ví dụ như ở Việt Nam, người tốt và thật thà rất khó sống. Trà Mi: Nguyên do vì sao có sự bất thường đó, theo hiểu biết của Trang, một người trẻ đã đi ra nhiều nước từ Châu Á tới Hoa Kỳ? Đoan Trang: Tất cả là do ý thức, mà ý thức đó xuất phát từ thể chế. Đại đa số vấn đề ở Việt Nam hiện nay có thể giải quyết bằng một thể chế khác, một văn hóa chính trị khác. Văn hóa chính trị Việt Nam là một văn hóa chính trị tồi tệ. Nó coi hoạt động của các đảng phái là cực kỳ nguy hiểm và xấu xa, chỉ mỗi đảng cộng sản là long lanh, đẹp đẽ thôi. Tất cả suy nghĩ lệch lạc như vậy từ thượng tầng đã lệch lạc rồi. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Vấn đề của xã hội Việt Nam không phải do dân tộc tính. Không dân tộc nào đẻ ra là xấu xa, mà nó xuất phát từ thể chế, từ văn hóa chính trị. Em tin là nếu có một thể chế khác, chắc chắn những thói hư tật xấu của người Việt Nam sẽ được sửa đổi rất nhanh. Trà Mi: Về Việt Nam, Trang dự định sẽ xoay sở thế nào trong môi trường mà những người không theo lề đảng, nếu không bị tù tội thì cũng khó mưu sinh vì những áp lực đối với một ngòi bút bị cho là ‘chống đối’? Trang chuẩn bị con đường phía trước về cả vật chất lẫn tinh thần thế nào? Đoan Trang: Hiện em viết cho trang web Luật khoa, một tờ báo mạng về luật pháp mà em và một số bạn khác thành lập, viết về kiến thức pháp luật cho những người bình dân. Trà Mi: ‘Có thực mới vực được đạo’, đời sống người cầm bút phải được đảm bảo thì sức viết của họ mới sung mãn và đóng góp những bài viết hay hơn, thiết thực hơn cho đời. Trong môi trường mà mình khó kiếm được công việc vững chải để đảm bảo đời sống, Trang xoay sở thế nào? Đoan Trang: Cái đó bọn em cũng quen rồi. Những nhà báo như em cố gắng sống ‘lây lắt’. Em may mắn có vốn tiếng Anh, em có thể tham gia dịch sách báo, cũng đỡ phần nào khó khăn trong đời sống. Nhưng vẫn biết là khó khăn lắm. Trà Mi: Ngay từ khi bước chân về sân bay, Trang đã gặp khó khăn với chính quyền sau nhiều giờ bị cầm giữ ở sân bay. Đoan Trang: Thời gian làm việc với họ là 15 tiếng. Trà Mi: Có những đề nghị, yêu cầu cần giải quyết giữa đôi bên thế nào mà thời gian làm việc kéo dài như thế? Đoan Trang: An ninh muốn em về nước phải ‘ngoan’. Trà Mi: Họ đưa ra yêu cầu như thế, Trang có đáp ứng không? Đoan Trang: Em nói không thể hứa hẹn điều gì. Với hệ thống luật pháp Việt Nam đầy những điều mơ hồ, người viết và các nhà hoạt động rất khó mà không vi phạm pháp luật. Cho nên, em nói thành thật với họ là em không hứa hẹn điều gì. Trà Mi: Có người cho rằng được trở về an lành sau thành tích ‘chống phá’ nhà nước, không lọai trừ khả năng có sự ‘thành khẩn với chính quyền’ . Phản hồi của Trang ra sao? Đoan Trang: Không có ‘thành khẩn’ gì cả, em giữ đúng thái độ của một nhà báo thôi, không nói điều gì mình không biết, không liên quan, không bình luận về người thứ ba. Em chỉ làm đúng như thế. Trà Mi: Trong thời gian tới, nếu có chuyện gì xảy ra, Trang có phương pháp tự vệ nào không? Đoan Trang: Em nghĩ sẽ không có chuyện gì xảy ra vì em không phải là một nhân vật quá quan trọng hay quá nguy hiểm hay quá có ảnh hưởng để họ đưa vào danh sách hạn chế. Em nghĩ sẽ không có vấn đề gì xảy ra nên cũng không chuẩn bị gì. Trà Mi: Một blogger được nhiều người biết đến và bị ‘để ý’ như Trang, ra nước ngoài rồi lại quyết định trở về, Trang muốn nói gì với những người trẻ Việt Nam? Đoan Trang: Em luôn muốn khuyến khích những người viết tới Việt Nam để trải nghiệm, chứng kiến, viết, tham gia vào những hoạt động bảo vệ công lý ở Việt Nam, thúc đẩy nhân quyền cho Việt Nam. Như vậy càng có nhiều vốn sống hơn cho người viết. Em cảm thấy ở Việt Nam giờ có tâm lý ‘rã đám và bỏ cuộc’. Những chuyện chướng tai gai mắt, sai trái trong xã hội, họ lờ đi. Họ chỉ lo làm ăn, tìm cách du học và ở lại nước ngoài để đổi đời. Về góc độ xã hội, một nước có tâm lý như vậy phổ biến thì Việt Nam sẽ mãi mãi như thế. Trong khi đó, việc đáng làm hơn là ở lại để tìm giải pháp thay đổi tình hình thì không ai làm cả. Đó là tâm lý có hại cho sự phát triển xã hội. Nếu ai đó có thể chia sẻ được suy nghĩ này thì em rất mừng. Trà Mi: Cảm ơn Trang đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này. Theo voatiengviet.com
......

Cảnh báo của Einstein về công nghệ đã thành sự thật?

(VNC-TH) Rất lâu trước thời đại của điện thoại di động, Albert Einstein, một trong các bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại thế kỷ 20, từng tuyên bố: "Tôi sợ một ngày nào đó, công nghệ sẽ lấn át sự tương tác của con người chúng ta. Thế giới sẽ có một thế hệ những kẻ ngốc". Một số nhà sử học từng phản bác quan điểm trên của Einstein, nhưng những gì đang diễn ra hiện nay dường như cho thấy phỏng đoán của nhà khoa học lỗi lạc có thể đang thành hiện thực. Hãy nhìn ra xung quanh bạn! Ở bất kỳ đâu, bất cứ khi đang làm gì, người ta cũng dán chặt mắt vào điện thoại của họ như những bức ảnh dưới đây: Cuộc khảo sát do một công ty marketing số hóa cho thấy, chỉ tính riêng ở Anh, một người trung bình dùng smartphone tới 221 lần/ngày, để nhắn tin, xử lý thư điện tử và sử dụng các dạng truyền thông xã hội. Thông thường, mọi người bắt đầu dùng máy từ 7h31 sáng và đến tận 23h21 tối mới ngưng chạm vào chiếc điện thoại di động của họ. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng, tới 70% chúng ta trông cậy vào chiếc điện thoại của họ khi một mình trong đám đông, khiến bản thân họ trông bận rộn hơn. 60% số người được hỏi thú nhận đã nhắn tin cho một người bạn ở cùng tòa nhà, thay vì đi bộ vài chục mét để gặp gỡ họ. Theo các nhà nghiên cứu, 2/3 người trong chúng ta bản thân giống như thây ma sống, sử dụng smartphone của mình như một phản xạ mà thực sự không biết lí do tại sao. Nếu phải tách rời điện thoại di động, 80% mọi người có cảm giác bị mất mát hay đi lạc đường. Với trung bình 3,5 tiếng đồng hồ mỗi ngày dán chặt vào điện thoại, khoảng thời gian này chúng ta gần như mù tịt về thế giới xung quanh. Hậu quả cuối cùng có thể là sự vô nhân đạo. "Chúng ta đang ngày càng ít giao tiếp mặt đối mặt hơn. Nếu chúng ta không trò chuyện với nhau, sẽ rất khó để tạo lập sự cảm thông", nhà khoa học đáng kính Baroness Susan Greenfield, tác giả cuốn "Mind Change", nhấn mạnh. Tuấn Anh (Theo Daily Mail)
......

Dân oan 15 tuổi bị côn an siết cổ bất tỉnh

Chiều 10 tháng 2 năm 2015, tại chợ huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An, côn an đã dùng dây siết cổ bé trai 15 tuổi Nguyễn Mai Trung Tuấn tới bất tỉnh. Em là con của dân oan Mai Thị Kim Hương. Sau nhiều năm làm dân oan từ năm 2009, phương tiện sinh sống hiện nay của gia đình 4 người là một chiếc xe đẩy bán nước mía, trên một nơi chỉ rộng  10 mét vuông trong khu chợ. Nguồn thu nhập duy nhất của gia đình Tuấn mỗi ngày là khoảng 15 ly nước mía được bán với giá 5,000đ một ly (25 cent). Côn an đến giăng dây cô lập khu vực 10 mét vuông  đó để cấm gia đình buôn bán. Em Nguyễn Mai Trung Tuấn đã bảo vệ mẹ và chỗ bán. Em cầm sợi dây và tròng vào cổ, nói với lực lượng côn an rằng, muốn giết thì cứ giết em, đừng hủy hoại nguồn sống duy nhất của gia đình em. Tên côn an giật sợi dây trên tay em và siết cổ em đến ngất lịm. Hiện em đang được điều trị tại nhà bởi không có phương tiện đi bệnh viện. Ở khắp mọi nơi trên đất nước hiện nay, chỗ nào có cái gọi là trụ sở tiếp công dân đều thấy tụ tập hàng chục, hàng trăm dân oan. Họ ăn chực nằm chờ, năm này qua tháng kia, họ căng lều, căn bạt, người màn trời chiếu đất để nhất quyết đòi chính quyền giải quyết những nỗi oan khiên của họ.  Thật là tội nghiệp cho người dân thấp cổ bé miệng, bất lực trước cường quyền. Đi đòi công lý ở nơi không hề có công lý thì bao giờ đòi cho được!   https://www.facebook.com/video.php?v=646709672108109
......

Người Công giáo tốt là người biết tham gia chính trị

Trang nhà xin được gửi đến các quý vị bài viết của anh Gioan Lê Quang Vinh đăng trên Website  Dòng Chúa Cứu Thế để hiểu rõ thêm về giáo huấn của giáo hội CG mà nhiều người đã hiểu sai lạc, nhất là một số bạn trẻ CG. =========  KHÁI NIỆM Chính trị, hiểu đơn giản nhất là việc trị nước hay lo việc chung cho toàn xã hội. Làm chính trị là thuật ngữ để chỉ tất cả những hoạt động có liên quan đến việc trị nước giúp đời, xưa gọi là kinh bang tế thế. Theo nghĩa hẹp, làm chính trị là tham gia vào các thể chế phục vụ đất nước trong hệ thống chính quyền. Ở những xã hội mà nhà cầm quyền không muốn người dân quan tâm đến việc trị nước của họ, do bản chất độc tài toàn trị hay do yếu kém về nội lực, thì chính trị được hiểu như là việc thay đổi hệ thống cai trị. Và do đó, những hành động đóng góp xây dựng công ích đều bị gán cho từ “chính trị”, coi như hành động đen tối và đáng lên án. Trong bối cảnh đó, các khái niệm bị đánh tráo, và người dân chỉ muốn an thân làm ăn (dù làm không an và thân không có ăn). Nghe những từ “chính trị”, “làm chính trị”, thì người dân sợ hãi. Họ quên mất rằng mỗi người công dân có bổn phận xây dựng quê hương, góp phần đem lại công lý hòa bình thật sự cho xã hội. Hài hước nhất và cũng bi đát nhất là việc những người dám lên tiếng thực hành điều Giáo huấn Xã hội Công giáo dạy là “lên tiếng tố cáo bất công” liền bị gán cho từ “phản động”. Từ này nghĩa gốc là chống lại sự tiến bộ. Nhưng trong xã hội độc tài toàn trị, nó được gán cho những người yêu quê hương đất nước, muốn thúc đẩy xã hội tiến bộ. Có những người tự nhận mình là trí thức, nhưng khi thấy ai có tâm huyết lo việc xã hội thì cũng gọi người ta là phản động. Trên các mạng xã hội, người ta đọc thấy những comment chê trách các linh mục rằng “tu hành thì lo việc nhà thờ, đừng dây vào chính trị”, khi các linh mục này lên tiếng cho công lý hòa bình. Sự ngu dốt và hèn hạ ấy làm cho đất nước thiệt thòi rất nhiều, đồng thời làm bàn đạp cho sự tàn ác nẩy mầm và vươn cao. Một trong những khí cụ mà xã hội này dùng để kết án con người là cắt xén. Vầng trăng có thể xẻ làm đôi, nhưng một câu nói hay một đoạn văn, nhất là một định nghĩa thì không thể cắt xén được. Mọi cắt xén để phục vụ cho những ý đồ sai trái là tội ác, hay ít ra là trái ngược với liêm sỉ trí thức. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã “bị cắt xén” một cách thô bạo và bây giờ toàn thể lương tri nhân loại đã nhìn thấy sự thật. Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị cắt rời câu nói “một người Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt” không theo kiểu người ta cắt xén Đức Tổng Giuse, nhưng bị cắt theo kiểu định nghĩa sai lạc. Gần đây nhất, trong vụ việc tại Mỹ Luông, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp và các vị chủ chăn của giáo phận Vinh cũng bị cắt xén cách này cách khác. Vậy thế nào là một người Công giáo tốt theo đúng ý nghĩa mà Chúa Giêsu là Hiền Thê của Người là Hội Thánh giảng dạy? Và bổn phận người Công giáo đối với “chính sự” ra sao? Nhân đây xin chú ý một nguyên tắc: người ngoài một tổ chức không có tư cách để quy định bất cứ điều gì về thành viên của tổ chức đó, dù họ có thể nhận xét hay phê bình. Chẳng hạn một người đi đường không thể vào một trường học để quy định: giáo viên tốt của trường phải là một giáo viên biết nhảy đầm (!). Cũng tương tự như thế, không có một con người hay tổ chức nào của thế gian u tối có quyền quy định tư cách “công dân Nước Trời”. Anh không thể là một người vừa chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội, vừa lên mặt định nghĩa “người Công giáo tốt”. Vậy chúng ta phải hiểu “Người Công giáo tốt là một người công dân tốt” như thế nào? Người Công giáo tốt là người công dân tốt Người Công Giáo tốt trước hết là người yêu mến Chúa và luôn tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật yêu thương. Lý tưởng của người Công giáo là nên thánh, nên trọn hảo như Chúa Giêsu truyền dạy (cf. Mt. 5,48). Và khi chu toàn luật mến Chúa yêu người, người Công giáo tái hiện cuộc sống và Lời giảng dạy của Chúa Giêsu để làm chứng cho Người giữa thế gian. Chính việc làm chứng tá theo lệnh truyền của Thầy mình, người Công giáo thể hiện mối tương quan của mình đối với xã hội trần thế. Nói khác đi, một người Công giáo tốt là người thực hiện trọn vẹn bổn phận của mình xét như thành phần của xã hội. Ngày 27/6/2009, khi tiếp kiến các Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong diễn từ của mình đã khích lệ người Công Giáo Việt Nam hãy thể hiện qua cuộc sống hàng ngày tình bác ái, sự chân thật và tình yêu mãnh liệt của họ cho thiện ích chung của xã hội để mọi người nhận ra chân lý rằng “Người Công Giáo tốt là người công dân tốt”. Ở đây cần phải nói rằng cái khẩu hiệu “tốt Đạo đẹp đời” được giăng mắc ở một số nơi trên đất nước này, nhất là cái trong thời thông tin bị chặn nhiều năm trước là khẩu hiệu rỗng tuếch và mị dân, được phổ biến do cái tờ báo rau xanh có cái tên rất kêu “Công giáo và Dân tộc” cùng với ông tổ của nó là “nhóm đàn két” đặt ra. Cái loại đẹp đời theo kiểu hùa theo và hưởng thụ ấy không khác là bao so với kiểu bà Eva một đàng muốn sống tốt như một sinh linh được Thiên Chúa tạo thành, đàng khác lại muốn “đẹp cuộc đời” con rắn. Bao nhiêu bi luỵ và khốn khổ cũng từ việc đẹp mặt thế gian ấy mà ra. Phải hiểu rằng “đẹp đời” trong cái khẩu hiệu đó không phải là làm đẹp cho cuộc sống mà là đẹp lòng đời, đẹp lòng thế gian. Trong cái não trạng ấy thì câu nói của Đức Thánh Cha Benedicto XVI được đón nhận và giải thích một cách rất trần tục, thiếu sót và thậm chí sai lạc nữa. Người ta cố tình giải thích rằng người công dân tốt là người sẵn sàng chấp nhận mọi mệnh lệnh và luật lệ trần thế, bất kể mệnh lệnh luật lệ ấy có trái ngược luật Chúa hay không. Một người mẹ sắp sinh đứa con thứ ba sẵn sàng giết chết đứa con trong bụng mình là một người “công dân tốt” của nước xã hội chủ nghĩa vì thực hành luật về kế hoạch hoá gia đình! Một thanh niên cúi mặt khoanh tay khi đồng loại của mình bị áp bức là người “công dân tốt” vì biết “giữ gìn an ninh trật tự” theo định hướng này định hướng kia! Một linh mục hay tu sĩ không lên tiếng cho công lý là người “công dân tốt” vì biết an phận, lo cho phần rỗi chính mình là đủ mà không cần biết rằng Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo dạy phải chăm lo cho cả phần xác của đàn chiên! Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa và trong lòng Hội Thánh, những con người sống như thế lại không phải là người Công giáo tốt, trước hết vì họ không sống cho tình yêu, hoặc ghê gớm hơn nữa, họ là kẻ giết người hay đồng loã với những kẻ đàn áp con người. Mà có tôn giáo nào coi kẻ sát sinh là tín đồ tốt đâu. Trong những xã hội coi trọng văn minh sự sống thì những con người ấy vẫn không thể là công dân tốt. Dù là thầy tư tế hay người tự nhận là ngoan đạo thì vẫn bị lên án nếu họ đi ngang qua một người bị lâm nạn mà lại rẽ đường khác, không sẵn sàng cứu giúp nạn nhân như người Samaritanô nhân hậu. Người Công giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị Ngay từ thời Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn được Người khuyến khích xây dựng trần thế theo những cách thức phù hợp. Các ông cùng với Người chăm sóc cho người đau yếu, bệnh tật và nghèo túng. Các ông cũng quan tâm đến các vấn đề xã hội như việc đóng thuế chẳng hạn. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng sau khi Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ bị lãnh đạo thời bấy giờ cấm rao giảng Tin Mừng và bị họ hành xích, bách hại. Thánh Tông đồ Phêrô đã cương quyết trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. Khi Đức Thánh Cha nói “một người Công giáo tốt là một người công dân tốt” là ngài muốn nói đến ý nghĩa khách quan và phổ quát của từ ngữ người “công dân tốt”, ấy là người biết góp phần xây dựng xã hội trên nguyên tắc công bằng, yêu thương và tôn trọng nhân phẩm. Điều này lại ngược với tiêu chí “công dân tốt” theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa. Người ta cố ý cắt xén và hiểu sai lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa, và do vậy một số người, kể cả người Công giáo, tưởng rằng là người Công giáo tốt là người thụ động, cam chịu bất công và tuân theo luật đời bất chấp luân thường đạo lý. Mà khi sống đúng tinh thần Kytô giáo, theo đúng giáo lý, lề luật, Kinh Thánh và Giáo huấn xã hội Công giáo, thì người môn đệ Chúa Giêsu góp phần làm thăng tiến xã hội trần thế. Khi đóng góp cho xã hội trần thế như vậy, thì người Công giáo làm chính trị. Làm chính trị theo nghĩa rộng là quan tâm đến các vấn đề xã hội, tìm cách loại bỏ những gian tà và ác độc để hướng xã hội đi lên theo con đường yêu thương, con đường tự do, con đường tôn trọng và bảo vệ công lý và sự thật. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ thư của Thánh Phaolô gửi Timôthê để nói về trách nhiệm của nhà cầm quyền lãnh đạo và lời mời gọi tín hữu cầu nguyện cho họ. Ngài nói như sau: “Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”, tham gia và đóng góp nhiều điều tốt nhất có thể như: “ý tưởng, kiến nghị, nhưng trên hết là lời cầu nguyện” cho những viên chức chính quyền, để họ biết yêu thương người dân, khiêm nhường, lắng nghe những ý kiến khác nhau của người dân để chọn ra phương cách tốt nhất. Đài phát thanh Vatican dẫn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Những nhà cầm quyền “phải yêu thương người dân của họ” bởi vì “một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được. Họ có thể cầm trong tay kỷ luật, họ có thể chi phối an ninh trật tự, nhưng họ không thể quản trị.” Ví dụ như vua David, “ông rất yêu thương dân của mình”, mặc dù ông lỗi phạm rất nhiều nhưng ông vẫn cầu xin Chúa đừng trừng phạt người dân mà hãy trừng phạt ông. Vì thế, hai nhân đức của một nhà lãnh đạo là biết yêu thương người dân và có sự khiêm nhường.” Trong bài giảng lễ ngày 16 tháng 9, 2013 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Giáo hoàng Phanxicô bác bỏ ý kiến cho rằng “một người Công giáo tốt không can thiệp vào các vấn về chính trị”. Ngài nói Người Công Giáo không nên thờ ơ với chính trị, nhưng cần đưa ra các đề nghị, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết phục vụ lợi ích chung trong khiêm nhường và lòng mến. Ngay cả hàng giáo sĩ trong Giáo Hội dù không được làm chính trị theo nghĩa hẹp là tham gia vào công việc chính quyền, nhưng các ngài vẫn phải lên tiếng cho người nghèo, cho những người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội và cho tất cả mọi con người đau khổ. Mới đây tại Ukraina, Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo đã trả lời với nhà cầm quyền trong vụ việc các linh mục dâng lễ nơi có biến loạn như sau: “Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn khi các tín hữu yêu cầu được chăm sóc tinh thần. Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật bất chấp tất cả các mối đe dọa và sẽ làm như vậy vì đó là sứ mệnh đã được Chúa Cứu Thế trao phó. Chúng tôi nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó”. GIÁO HUẤN HỘI THÁNH VỀ CHÍNH TRỊ Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước hết họ là công dân của Nước Trời. Được sinh ra và định cư trong một vùng đất nhất định của trần thế này, họ cũng là công dân của một đất nước trên thế giới. Nhưng cuộc sống của người Công giáo được điều khiển và chi phối bởi lề luật của Vương quốc Thiên Chúa. Và họ hiểu rằng lề luật ấy là tuyệt đối và bất biến. Trong cuộc lữ hành giữa trần gian, người Công giáo với tư cách là công dân một đất nước, cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó. Nhưng có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: ấy là khi luật lệ trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Hội Thánh, thì người Công giáo trung thành với lề luật mà Thiên Chúa thiết định. Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Luật Chúa dạy là không được giết người. Các nước xã hội chủ nghĩa quy định gia đình tốt chỉ có từ một đến hai con, ai có thai đứa con thứ ba thì phải giết từ trong bụng mẹ, hay là phá thai, dùng từ hoa mỹ thì gọi là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Và như vậy một người Công giáo tốt không thể là công dân tốt trong trường hợp linh tinh này, như chúng ta phân tích ở đoạn trên. Cũng tương tự như thế, một số nhà nước độc tài không muốn công dân của mình tham gia vào các hoạt động chính trị theo nghĩa dám nói lên sự thật và tình thương. Những nhà nước đó chỉ muốn người dân làm chính trị theo nghĩa cộng tác vào những đoàn hội do họ lập ra, nói tiếng nói mà họ viết sẵn lời, tham gia những trò mà họ điều khiển. Nhưng Hội Thánh là Mẹ hiền của chúng ta luôn có cái nhìn xa rộng và nhân ái. Hội Thánh muốn con cái mình làm chứng cho Tin Mừng bằng việc thực thi huấn lệnh của Đức Kytô là Thầy và là Chúa. Trong thời cận đại, Đức Giáo Hoàng Leo XIII, một nhà thông thái, một chính trị gia lỗi lạc và là một chủ chăn thánh thiện, trong triều đại của mình đã hết lòng vì một xã hội trần thế hoà bình và công bằng. Ngài dạy rằng mọi cơ chế triều đại của thế gian cần phải được thay đổi để nên tốt hơn. Ngài viết: “Chỉ có Giáo hội Kitô đã và sẽ đang bảo tồn chắc chắn hình thái cai trị của mình. Vì được thiết lập trên nền tảng là Đấng đã có, đang có và vẫn có đời đời, Giáo hội ngay từ đầu đã nhận được những gì cần thiết để theo đuổi sứ mạng thần linh ngay giữa dòng lưu chuyển của vạn vật nhân trần. Còn đối với các xã hội thuần túy nhân loại, thì thời gian là yếu tố biến đổi vĩ đại cho mọi sự trần gian, như một sự kiện đã ghi khắc cả trăm lần trong lịch sử, tạo nên những thay đổi sâu xa về cơ chế chính trị…” (Thông điệp “Giữa Muôn Điều Lo Ngại”, 1892). Nhưng nổi bật hơn cả, thông điệp “Rerum Novarum’ (Tân Sự) năm 1891 của ngài đã thúc giục con cái của Hội Thánh lên tiếng về mọi vấn đề trong xã hội. Thông điệp lừng danh này đã đặt nền móng cho Giáo huấn Xã hội Công giáo mà sau này Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có công tóm lược thành hệ thống. Sau này Thánh Công Đồng Vatican II và các vị Giáo hoàng sau đó cũng lên tiếng về các vấn đề chính trị xã hội một cách rõ ràng và dứt khoát. Chẳng hạn Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Thánh Công Đồng giới thiệu khuôn mặt của một Giáo Hội “thấy mình thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại”. Xin trích lại số 96 của bản Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo: “Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống các chủ đề về văn hoá, về đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội. Mọi sự đều được xem xét bắt đầu từ con người và hướng tới con người, “thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”. Xã hội, cơ cấu và sự phát triển xã hội phải được hướng tới chỗ giúp “con người tiến bộ”. Lần đầu tiên, Huấn Quyền Giáo Hội, ở cấp cao nhất, nói nhiều về các khía cạnh thế trần khác nhau của đời sống Kitô hữu: “Phải công nhận rằng sự quan tâm của Hiến chế đối với những sự thay đổi về xã hội, tâm lý, chính trị, kinh tế, luân lý và tôn giáo càng ngày càng thúc đẩy… mối  quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với các vấn đề của con người và việc đối thoại với thế giới”. (HTXHCG, 96) Ngày hôm nay Giáo Hội vẫn lên tiếng trước các vấn nạn của con người: việc đàn áp, hạn chế tự do, phá thai, sông vô luân, tệ nạn xã hội, tham nhũng, các vấn đề hôn nhân v.v… Giáo Hội không làm chính trị và Giáo Hội cũng cấm hàng giáo sĩ làm chính trị nghĩa hẹp là tranh giành quyền lực, tham gia các chính đảng hay tham gia công quyền. Nhưng nếu xét chính trị theo nghĩa thăng tiến phẩm giá con người và trả lại cho con người quyền tự do mà Thiên Chúa phú ban như bản chất của con người, thì Giáo Hội đang thực hiện một cách hoàn hảo. Ở đây cũng cần mở ngoặc để giải thích thêm rằng những linh mục tham gia vào các tổ chức chính trị như ủy ban đoàn kết mà người dân hay gọi là đàn két, là làm sai luật Giáo Hội. Cũng có linh mục nói: “Tôi vào cho có chứ tôi làm gì đâu ngoài chuyện đi họp”. Ông linh mục ấy nói thế còn thiếu một điều quan trọng: nói không làm gì là sai, vì có làm gương xấu! Việc tham gia vào các thể chế trần thế trong lãnh vực của mình là bổn phận của người tín hữu giáo dân. Cần phải lưu ý ngay là Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhắc nhở: “Đức Giêsu – vị Mêsia được hứa trước – đã phản đối và đã vượt thắng sự cám dỗ của chủ nghĩa cứu thế bằng chính trị, mà điển hình là bắt các dân tộc chịu khuất phục mình (x. Mt 4,8-11; Lc 4,5-8). Người là Con Người xuất hiện “để phục vụ và để hy sinh tính mạng mình” Điều này có thể làm cho một số người lầm tưởng rằng phải yêu thương kẻ thù, nghĩa là chấp nhận mọi thua thiệt để cứu rỗi họ. Nhưng vấn đề là yêu thương và đồng lõa là hai khái niệm khác biệt. Không bắt người khác khuất phục mình, không có nghĩa là mình phải chịu khuất phục để làm theo những điều sai lạc. Tham gia chính trị trước hết là “Xem con người là nền tảng và mục tiêu của cộng đồng chính trị”. Điều này có nghĩa là trước hết phải nỗ lực làm cho phẩm giá con người được nhìn nhận và tôn trọng, bằng cách bênh vực và phát huy các quyền căn bản và không thể tước đoạt của con người. (HTXHCG 388). Từ việc nhìn nhận nhân phầm con người và tôn trọng con người, việc tham gia chính trị sẽ thúc đẩy phát triển xã hội và làm cho xã hội thành cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa mong muốn. Việc tham gia chính trị còn là “Không được cộng tác, dù chỉ là hình thức, vào những việc ngược với luật Chúa, dù đã được luật pháp dân sự cho phép, đó là một nghĩa vụ quan trọng của lương tâm”. Không những người Công giáo phải tố cáo và lên án điều trái với lương tâm, với luật Chúa, mà còn phải phản kháng khi có thể. Có người cho rằng phải phản kháng ôn hòa trong mọi trường hợp. Thưa không. Giáo Hội dạy: “Phản kháng bằng vũ khí trước sự đàn áp của chính quyền là điều không chính đáng, trừ khi thoả mãn được các điều kiện sau đây: 1/ có sự xâm phạm các quyền căn bản của con người cách chắc chắn, nghiêm trọng và kéo dài; 2/ đã sử dụng hết mọi phương thế khác để sửa đổi mà không kết quả; 3/ phản kháng như thế sẽ không gây ra những bất ổn tệ hại hơn; 4/ có hy vọng thành công với những lý do vững chắc; 5/ theo lý trí, không thể dự kiến một giải pháp nào hay hơn”(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 2243). Ngoài ra, “sử dụng vũ khí được coi như giải pháp sau cùng để chấm dứt “một chế độ độc tài công khai và kéo dài, gây thiệt hại lớn cho các quyền căn bản của con người và làm tổn thất nghiêm trọng cho lợi ích chung của đất nước”(Thông điệp Populorum Progressio, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI). Tạm kết luận Chúng ta vừa đi lướt qua những nét chính trong Giáo Huấn của Hội Thánh về một lãnh vực rất quan trọng và cũng thật tế nhị. Như chúng ta vừa điểm lại, rõ ràng những cách nói “yêu thương” bâng quơ, Giáo Hội phải đứng bên lề chính trị, người Công Giáo không được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào… tất cả đều trái ngược Giáo Lý Công Giáo và trái với quan điểm của Giáo Hội. Thật ra tất cả những kiểu nói đó thường là do tâm lý cầu an, muốn “bảo vệ vị thế của mình hơn là muốn thế mình để bảo vệ nhân vị”. Không những Giáo Hội khuyến khích con cái mình tham gia vào chính trị để làm cho cuộc sống thêm đẹp hơn, mà Giáo Hội còn xem chính trị là việc thực hành đức ái. Chính trị là một hình thức “tận tụy vì thiện ích chung” và như thế, là “một sự biểu hiện của bác ái” Đó là những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Tổng Gám Mục giáo phận Gênôva. Trong Tông Huấn “Niềm Vui Của Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”. Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực: Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”. (số 182) Trong số 205, Đức Thánh Cha viết: “Chính trị, dù thường bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao quí nhất của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích chung”. Vâng, khi dân Chúa, nhất là mục tử, dấn thân cho công lý, cho người nghèo, thì vẫn “thường bị chê bai”, nhưng con cái Chúa phải dấn thân, vì đó là “ơn gọi cao cả” và “một trong những hình thức cao quý nhất của bác ái”, Đức Thánh Cha của chúng ta đã khẳng định điều ấy. Gioan Lê Quang Vinh, VRNs Theo chuacuuthe.com
......

Duyệt lại sự thật lịch sử

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống - Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9. 1969. Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3. 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động võ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đã đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau. Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản. Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương: - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954) - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đấu tranh bạo động võ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt Nam. Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á. Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc. Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu: Độc lập năm 1946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp. Độc lập năm 1947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh. Độc lập năm 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh. Độc lập năm 1949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan. Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền. CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến  lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Tại Pháp, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lãnh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ). Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ. Cũng trong năm 1949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản. Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia. Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đã trình bầy, Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam. CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC Năm 1975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm 1949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949. Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống). Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975. Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ. Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh võ trang, Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước! Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào. CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU Muốn có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu. Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đã đấu tranh võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu. 1946: Phi Luật Tân độc lập Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi. Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm vì lý do chiến cuộc). Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động tình báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation). 1946: Syrie và Liban độc lập. Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa. Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline). 1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập. Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp. Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ. Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xã hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Ấn Độ đã giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm. 1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập. Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật... Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập. Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh. 1949: Nam Dương độc lập. Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học. Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan. Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2) STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu. Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương. Cũng vì vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị. Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp. Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì "hết xăng". Đây là một nguyên nhân hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt. Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên). Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp. Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm. Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp). Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương. Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày 19-12-1946. Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet. Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất. Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập. Như vậy từ năm 1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.) Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia. Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947. Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện. Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh. Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương. Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị. Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989). Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc. Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS. Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement). Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh. Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đã ký cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện. Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào Hiệp Định Genève. Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ. Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945). Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956. Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước: Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí] Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ. Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật rừng xanh. KẾT LUẬN Nói tóm lại: 1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ròng rã 40 năm. 2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée. 3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất. 4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa. 5) Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi.
......

Tình trạng phức tạp về dầu mỏ Việt Nam

1* Mở bài Tình trạng xăng dầu Việt Nam hiện nay rất phức tạp. Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nhưng lại nhập khẩu dầu thô cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Dự án xây nhà máy lọc dầu Dung Quất gây nhiều tranh cãi về vị trí xây cất vì không phù hợp với nguyên tắc kinh doanh quốc tế. Dự án kéo dài 9 năm mới hoàn thành. Các quan tham nhũng. Công nhân ăn cắp vật liệu, người dân địa phương chôm chỉa, cuối cùng vốn đầu tư 1 tỷ rưởi USD tăng lên thành 3.5 tỷ USD. Sau 2 năm hoạt động của một nhà máy hiện đại, “niềm tự hào của thế kỷ 21”, Dung Quất được rao bán phân nửa phần hùng để sửa chữa và nâng cấp nhưng không ai mua. Việt Nam nhập cảng 96% xăng dầu cho thị trường tiêu thụ toàn quốc, giá xăng dầu tăng lên ngày một. Giá xăng dầu của Dung Quất lại cao hơn xăng nhập cảng. Trữ lượng các mỏ dầu VN bắt đầu giảm, các nhà đầu tư ngoại quốc bỏ chạy. Vùng biển thuộc chủ quyền VN có tiềm năng dầu khí mà không được thăm dò tìm kiếm, vì Trung Cộng ngăn chặn. Có dầu mà phải vác tiền đi mua dầu, thật đúng là nổi đau bị mất dầu. Mỏ dầu sắp cạn, đầu tư ngoại quốc bỏ chạy, việc sản xuất dầu trong nước, làm ăn ạch đuội bữa đực bữa cái do có quá nhiều “sự cố” và kiến thức quản lý, vận hành và sản xuất ở tầm thấp của thời đại, là nội dung của bài viết nầy. 2* Những cuộc tháo chạy vì cạn dầu 2.1. ConocoPhillips tháo chạy Ngày 19-5-2011, một sự kiện gây nhiều chú ý là tập đoàn dầu khí lớn thứ ba Hoa Kỳ là ConocoPhillips rao bán tổng số tài sản ở Việt Nam là 1.5 tỷ USD. Chiều ngày 5-7-2011, tại cuộc họp báo, ông Phùng Đình Trực, Tổng Giám Đốc Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (Petro Vietnam-PVN) cho biết, ConocoPhillips đã lên kế hoạch bán cổ phần của họ. Theo hãng tin Bloomberg (Mỹ) thì tập đoàn Mỹ đã chiếm một nhóm gồm 5 mỏ đang khai thác ở VN. Nguyên nhân đưa đến quyết định bán tài sản là hoạt động của ConocoPhillips ở VN khá hạn chế, họ muốn đầu tư vào những dự án lớn hơn, nói rõ ra là dầu ở VN không đủ số lượng mà họ mong muốn, tức là quá ít vì đã cạn dần. Bản chất của ngành dầu khí là nguyên tắc bù trừ. Ví dụ như khi khai thác 100 thùng dầu thô, thì công ty đó phải tìm và nắm được một số lượng tương đương, bảo đảm cho việc làm ăn được tiếp tục lâu dài, có nghĩa là phải biết trữ lượng những mỏ đang khai thác còn nhiều, hoặc đã tìm được những mỏ mới có đủ dầu để khai thác thương mại. Nếu không nắm được con số ước tính đó, thì tương lai mù mịt, không biết đóng cửa ngày nào, vì hết dầu. Một nhà phân tích dầu khí nêu nhận xét, số lượng dầu thô của VN không còn tương xứng với số lượng mà Conoco mong muốn, cho nên nếu đổ thêm tiền vào, thì tỷ lệ rủi ro về lợi nhuận rất cao, lỗ vốn là cái chắc. Tóm lại, dầu mỏ ở VN sắp cạn kiệt hay còn quá ít. Quyết định của Conoco cho thấy trữ lượng dầu của VN không phải là dồi dào. Mục tiêu khai thác của Petro Vietnam (PVN) trong 4 tháng đầu năm 2011 là 15 triệu tấn dầu thô, nhưng chỉ đạt được có 7.97 triệu tấn. Trong khi đó, việc phát hiện những mỏ dầu mới có khả năng khai thác thương mại thì không có, và trữ lượng các mỏ đang khai thác cũng giảm dần. Petro Vietnam đã có những dự án mua các mỏ dầu ở các nước ngoài, nhưng chưa mua được mỏ nào cả. Một nguồn tin giấu tên cho biết, Trung Cộng muốn mua lại tài sản của ConocoPhillips, nhưng phải chờ sự đồng ý của chính quyền VN. Nguồn tin trên tiết lộ, trữ lượng mà Conoco đang khai thác đã đạt tới điểm đỉnh, và sẽ tuột xuống trong một tương lai không xa. Bên cạnh đó, nếu muốn tìm mỏ mới thì phải khoan thăm dò ở ngoài khơi xa hơn, đó là khu vực hình lưỡi bò đang tranh chấp với Trung Cộng. ConocoPhillips tháo chạy vì cạn dầu và không thể thăm dò ở vùng biển hình Lưỡi Bờ, thế nhưng Trung Cộng muốn nhảy vào, vì cho rằng sẽ không có gì trở ngại trong việc dò tìm và khai thác ở vùng đang tranh chấp nầy. Thực hiện hợp tác khai thác chung tài nguyên của VN là chủ trương của Trung Cộng. Nếu CSVN đồng ý cho Trung Cộng mua tài sản của công ty Mỹ, tức là đồng ý giao các mỏ dầu của VN ở Biển Đông cho bọn Tàu khựa. Lúc đó Bắc Kinh sẽ dùng trăm mưu ngàn kế ma giáo để công khai và hợp pháp chiếm tài nguyên của VN, mà VN không có khả năng kiểm soát hoặc không dám kiểm soát. 2.2. British Petroleum tháo chạy British Petroleum (BP) đã rút ra khỏi VN vì một số lý do. BP có 3 mảng hoạt động tại VN:     Downsdtream (Hạ nguồn), gồm: lọc dầu, cung cấp, mua bán, vận chuyển, sản xuất, tiếp thị.     Midsdtream (Trung nguồn), gồm: các đường ống dẫn khí đốt từ nam Côn Sơn.     Upstream (Thượng nguồn), gồm: tìm kiếm, thu hồi dầu và khí thiên nhiên. Tháng 10 năm 2010, BP đã rao bán cổ phần đường ống Côn Sơn, Petro VN muốn mua lại, nhưng không thành công. Tổng sản lượng BP ở VN là 15,000 thùng dầu mỗi ngày. 1 thùng (Barrel) = 158.987 lít 7 thùng dầu thô = 1 tấn=1,113 lít BP đã rút lui khỏi VN sau khi đã bán tài sản cho một công ty Petróleos de Venezuela SA của Venezuela với số tiền 1.8 tỷ USD. 2.3. Công ty Shell cuốn gói Tập đoàn dầu khí nước ngoài đầu tiên ở VN là công ty Shell của Hoà Lan. Sau khi CSVN ban hành luật đầu tư nước ngoài, Shell đăng ký thăm dò tìm mỏ dầu ở ngoài khơi Đà Nẳng và Vủng Tàu. Dù đã bỏ ra 150 triệu USD, nhưng Shell không tìm được mỏ dầu nào có khả năng khai thác thương mại, nên đã cuốn gói ra đi, kể như mất toi 150 triệu USD. Hiện tại, chỉ còn ExxonMobil (Mỹ), Chevron (Mỹ) và một số tập đoàn khác như Talisman (Canada) có đầu tư nhưng không lớn. 3* Dầu khí Việt Nam sắp cạn 3.1. Sản lượng bắt đầu giảm Trên thực tế, sản lượng dầu thô VN đã bắt đầu giảm. Năm 2004: 430,000 thùng/ngày Năm 2005: 370,000 thùng/ngày. 3.2. Giảm dầu tại mỏ Bạch Hổ 3.2.1. Tổng quát về mỏ Bạch Hổ Bạch Hổ là tên mỏ dầu lớn nhất, là nguồn cung cấp dầu chủ yếu cho VN hiện nay, nằm phía đông nam, cách bờ biển Vủng Tàu 145Km. Dầu thô Bạch Hổ thuộc loại phẩm chất tốt, dễ lọc, gọi là “dầu ngọt”, vì nó chứa ít chất lưu huỳnh, tác hại mài mòn dụng cụ rất thấp, giá bán rất cao trên thị trường quốc tế. 3.2.2. Trữ lượng dầu mỏ Bạch Hổ sắp cạn. Theo thống kê, trữ lượng dầu của mỏ Bạch Hổ là 300 triệu tấn, sau 25 năm khai thác, sản lượng dầu thô Bạch Hổ đang giảm mạnh. Năm 2009: 5.4 triệu tấn/năm* – 2010: 4.82 triệu tấn* – 2011: 4.26 triệu tấn * – 2012: 3.81 triệu tấn - 2013: 3.43 triệu tấn * – 2014: 3.11 triệu tấn * – 2015: 2.78 triệu tấn/năm. Theo thống kê, sản lượng khai thác của Việt Nam hiện đang giảm mạnh, nhất là các loại dầu thô đã khai thác từ trước như Bạch Hổ, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng… (Nguồn: Factbook, 2007)                     2009  2010 2011 2012 2013 2014 2015 Bạch Hổ        5.45  4.82  4.26  3.81  3.43  3.11  2.78 Rồng             0.84  1.21  1.03  0.87  0.74  0.63  0.54 Sư Tử Đen    1.49  1.12  0.84  0.63  0.47  0.35  0.27 Sư tử Vàng   3.29  2.80  2.24  1.79  1.43  1.15  0.92 Cá ngừ vàng  0.57  0.34  0.21  0.12  0.07  0.04  0.03 Rạng Đông    1.17  0.88  0.66  0.5    0.37  0.28  0.21 Bảng: Danh sách sản lượng các loại dầu thô Việt Nam (Đơn vị: triệu tấn/năm) Giàn khoan mỏ Bạch Hổ Giàn khoan mỏ Sư Tử Vàng Giàn khoan mỏ Sư Tử Đen 3.2.3. Nhà máy Dung Quất nhập cảng dầu thô Ngày 11-8-2010, nhà máy Dung Quất đã tiếp nhận lô dầu thô đầu tiên do công ty dầu khí Socar (Azerbaijian) cung cấp, với số lượng 400,000 thùng (Tương đương với 65,000 m3. Socar sẽ tiếp tục cung cấp 65,000 m3 vào cuối năm 2010. 3.2.4. Việt Nam sẽ mua mỏ dầu ngoại quốc Lãnh đạo Petro Vietnam (PVN) cho biết, PVN đang làm thủ tục để mua các mỏ dầu tại Azerbaijian, Algeria và nhiều khu vực khác. PVN tuyên bố, họ sẽ mua những mỏ dầu đã được thăm dò, để có thể đưa vào nhà máy lọc ngay, vì thời gian thăm dò có thể kéo dài từ 5 đến 8 năm. Đó mới chỉ là dự tính. Nếu giai doạn đàm phán thuận lợi, thì VN sẽ liên doanh với các nước nầy để mua dầu thô về lọc, cung ứng cho thị trường VN. Hiện tại, VN phải nhập cảng 96% xăng dầu. Chính phủ cho phép 10 doanh nghiệp được nhập cảng xăng dầu để đáp ứng nhu cầu cho cả nước là 15 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, xăng dầu trong nước chỉ chiếm 4%. 3.2.5. Một thử thách đối với Việt Nam Ngày 25-10-2011, tờ Wall Street Journal loan tin Tập Đoàn ExxonMobil đã tìm được dầu khí ở lô 119 ngoài khơi Đà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam. Thông tin nầy mang tầm quan trọng đặc biệt, không những trong lãnh vực kinh tế, mà còn trong việc khẳng định chủ quyền của VN, vì lô 119 nằm ngoài thềm lục địa của VN, (Thềm lục địa cách bờ biển 350 hải lý.) đồng thời, nó nằm sát đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) của Trung Cộng. Sự việc cho thấy thái độ mạnh dạn của công ty HK trong việc làm ăn với VN. Trước kia, Tập đoàn ExxonMobil đã bị Trung Cộng gây áp lực, đã im hơi lặng tiếng, nay nhờ chính phủ HK ủng hộ, nên tiếp tục thăm dò. Hiện chưa biết trữ lượng dầu là bao nhiêu. VN đang đứng trức thách thức, là liệu CSVN có can đảm hợp tác với ExxonMobil hay không? 4* Nhà máy lọc dầu Dung Quất Một góc của nhà máy lọc dầu Dung Quất Nhà máy lọc dầu Dung Quất Việt Nam, được coi là một dự án kinh tế lớn, trọng điểm của quốc gia trong giai đoạn đầu thế kỷ 21, đã hoàn tất sau 13 năm xây dựng mà nay được cho là bị lỗ 120 triệu mỗi năm. Dự án Dung Quất bị các nhà đầu tư ngoại quốc xa lánh, bỏ chạy bởi vì nó ở một vùng cô lập, xa các nguồn dự trữ là các mỏ đầu ở miền Nam nên không có hiệu quả kinh tế. Số vốn ban đầu là 1.5 tỷ USD, nhưng qua một thời gian gập ghềnh ạch đuội, tổng chi phí lên tới 3.5 tỷ USD. Giá thành sản phẩm của Dung Quất (DQ) hiện tại cao hơn giá xăng dầu nhập cảng. Lỗ to, đã rao bán suốt một năm mà chẳng có ai mua. 4.1. Nhà máy Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất (DQ) được xây dựng ở xã Bình Trị, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, chiếm diện tích 345 hecta mặt đất, và 471 hecta mặt biển. (1 hecta=10,000m2). Công suất tối đa là lọc 6.5 triệu tấn dầu thô mỗi năm, tương đương với 148,000 thùng mỗi ngày. (1 thùng (barrel) = 158.9873 lít) Nhà máy lọc dầu của mỏ Bạch Hổ, sản xuất xăng A92, A95, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, dầu diesel và những sản phẩm phụ. Có 14 phân xưởng chế biến công nghệ. Tổng số vốn đầu tư là 3.5 tỷ USD. Chủ đầu tư là Tập Đoàn Dầu Khí VN (Petro Vietnam-PVN). Hợp đồng xây dựng nhà máy là Technip (Pháp), Technip Malaysia, JGC (Nhật) và Technicas Reunidas (Tây Ban Nha). Lễ động thổ: 8-1-1998 Lễ khánh thành: 6-1-2011 4.2. Công nghệ lọc dầu Công nghệ lọc dầu là một quá trình chưng cất dầu thô. Chưng cất là tách rời một dung dịch bằng cách đun sôi nó lên, rồi cho ngưng tụ hơi bay ra để được 2 thành phần, một phần nhẹ là Distillat, có nhiệt độ sôi thấp, chứa chất dễ sôi, phần nặng còn lại là cặn chưng cất. Nhà máy lọc dầu Dung Quất dùng điện để đun sôi dầu thô. 5* Con đường gập ghềnh của Dung Quất Ngày 25-8-1998. Việt Nam và Nga thống nhất hợp tác liên doanh, Petro Vietnam và Zarubezhneft cùng làm chủ đầu tư với cổ phần 50/50. Ngày 28-12-1998. Ủy Ban Vietross được thành lập để trực tiếp quản lý, xây dựng nhà máy và điều hành NMLD/DQ trong 25 năm. Mức đầu tư dự án là 1.297 tỷ USD.(50/50) Năm 1998 Hợp đồng Việt Nga tan vở. Nga rút lui vì bất đồng ý kiến về địa điểm xây nhà máy. Thế là VN gánh trọn gói, tự đầu tư. Đây là nguyên nhân tạo ra những khó khăn, phí tổn vô ích, kéo dài con đường gập ghềnh và cuối cùng đưa đến dự án không có hiệu quả kinh tế, tức là làm ăn lỗ lã. Sau vụ tan rả, VN tập trung vào việc giải quyết các vấn đề pháp lý của các hợp đồng, có liên quan đến tiền bạc, kỹ thuật, thông qua những đàm phán, nhất là về luật đầu tư quốc tế của ngành dầu khí, mà VN không có kiến thức và kinh nghiệm. Một VN chưa có kinh nghiệm mà phải gánh một dự án quá lớn, cho nên không tránh được những lượm thượm phát sinh do những sai lầm. Tiền bạc thất thoát do chi phí vô ích, do tham ô, do vật liệu bị đánh cắp, nên cuối cùng dự án tăng lên tới 3.5 tỷ USD, đưa đến kinh doanh không có hiệu quả kinh tế. Tháng 11 năm 1996, chính phủ phê chuẩn dự án. Năm 1997 thủ tướng Võ Văn Kiệt ra Quyết Định 514/QĐ/TTg ngày 10-7-1997 chính thức đưa dự án ra thực hiện. Năm 2003, Ban Quản Lý Dự Án (QLDA) Nhà Máy Lọc Dầu (NMLD) Dung Quất được thành lập để tiến hành dự án. Ngày 22-9-2009, NMLD/DQ cho ra sản phẩm đầu tiên. Ngày 30-5-2010, nhà máy được nhà thầu xây dựng chính thức bàn giao lại cho Petro Vietnam. 6* Những chỉ trích về dự án xây nhà máy Dung Quất Năm 1992, chính phủ Võ Văn Kiệt mời các đối tác nước ngoài làm liên doanh đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, gồm có: Tập đoàn Total SA (Pháp) và 2 công ty Đài Loan là CPC (Chinese Petroleum Corp) và CIDC (Chinese Investment Development). Trong quá trình thiết lập dự án, Total SA (Pháp) đề nghị xây NMLD tại Long Sơn thuộc Bà Rịa-Vủng Tàu. Ngày 19-9-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra QĐ chọn Dung Quất làm địa điểm xây NMLD, nên Pháp rút lui. Dự án NMLD/DQ bị quốc tế chỉ trích, chủ yếu là về địa đểm xây cất mang tính cách chính trị trong chiến lược phát triển kinh tế của CSVN, nên không có hiệu quả kinh tế, mà VN gọi tắt là “không kinh tế”. Tháng 9 năm 1995. Tập Đoàn Total chấm dứt thương lượng đầu tư, cho rằng nhà máy đặt ở miền Trung, cách xa các mỏ dầu ở miền Nam, phí tổn vận chuyển cao, nên không có hiệu quả kinh tế. Năm 1997. Ngân Hàng Thế Giới (World Bank-WB) cho biết, dự án “không có hiệu quả kinh tế”. Năm 1998. Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) cho biết, giá trị dự án “đáng nghi ngờ”. Hai cơ quan tài chánh quốc tế nầy giữ vai trò cho vay tiền để thực hiện dự án. Năm 1998. Mặc dù đã ký hợp đồng, nhưng tập đoàn Zarubezhnift (Nga) cho rằng “Dung Quất là một địa điểm xấu” và bỏ dự án vào năm 2002. Năm 2003. Liên Hiệp Quốc nhắc nhở VN, cho rằng “nên tránh những đầu tư thu nhập thấp”. - 7,000 hộ gia đình bị đuổi ra khỏi DQ lo ngại về đời sống khó khăn ở những nơi mới đến. - Ngư dân Quảng Ngãi lo ngại, vì tiếng ồn của nhà máy làm cho cá tránh đi nơi khác hoặc ra xa ngoài biển. 7* Những sai lầm của dự án Dung Quất Hầu hết những chỉ trích quốc tế cho rằng dự án Dung Quất là một sai lầm, chỉ có đảng CSVN khẳng định nó là một dự án ưu việt mang tính trí tuệ của thế kỷ 21. Sai lầm lớn nhất là địa điểm xây nhà máy. Quyết định độc đoán và sai lầm của đảng CSVN phát sinh những sai lầm và những khó khăn đưa nhà máy lọc dầu DQ đến việc làm ăn lỗ lã, “không kinh tế”. Thi công nền móng Nhà máy lọc dầu Dung Quất 7.1. Sai lầm về địa điểm xây nhà máy Dầu thô từ các mỏ ở miền Nam được chuyên chở khoảng 1,000km ra NMLD/DQ, rồi lại chở chuyên 1,000km từ DQ về Sài Gòn hoặc ra Hà Nội để phân phối ra thị trường. Bao nhiêu tàu bè, xe bồn chạy tới, chạy lui, nhân công, nhất là hao tốn tiền xăng dầu trước khi thu được tiền sản xuất ra xăng dầu. Công ty Total cho rằng lý do địa lý sẽ làm tăng giá thành sản phẩm lên tới 500 triệu USD mỗi năm. 7.2. Sai lầm về kỹ thuật Nhà máy Dung Quất được thiết kế để chế biến 100% dầu ngọt của mỏ dầu Bạch Hổ. Dầu ngọt phẩm chất cao, dễ lọc vì chứa ít chất lưu huỳnh nên tác động mài mòn dụng cụ kém hơn dầu chua, là dầu chứa nhiều lưu huỳnh, sinh ra acid làm hư hao máy móc nhiều hơn dầu ngọt. Thế nhưng, mỏ Bạch Hổ hiện nay đang cạn kiệt, không cung cấp đủ dầu ngọt để cho nhà máy lọc chạy hết công suất, cho nên VN phải nhập dầu chua pha trộn với dầu ngọt ở Dung Quất. Dầu chua mài mòn thiết bị bên trong, đó là lý do khiến cho nhà máy mới chạy chỉ có hai năm mà phải đóng cửa 2 tháng để sửa chữa và thay thế phụ tùng là những cái van (valve), máy bơm, bù lon bên trong đã bị phá hủy. Những bộ phận đó không phải là loại thông thường, mà là những phụ tùng rất quan trọng, như van PV-1501, bù lon B-6 có sức chịu đựng nhiệt độ cao ở 650 độ C, do Ý sản xuất và chỉ có thể mua ở Singapore, chớ ở VN không có. 7.3. Dung Quất ngừng hoạt động để sửa chữa Nhà thầu xây dựng là Technip. Nhà thầu giám sát của Nhật đã phát hiện 173,635 điểm sai sót kỹ thuật, dụng cụ hư hỏng do bị mài mòn. Technip đã sửa chữa 164,442 điểm hư hại, còn lại 9,193 điểm hư hại nặng, như van PV-1501 và bù lon B-6 bị mài mòn ở phân xưởng chính yếu tên là Cracking. Nhà máy ngưng hoạt động 2 tháng. 60 chuyên viên Pháp, Hàn Quốc và hơn 1,000 kỹ sư và nhân viên VN phải tăng ca làm việc, tham gia sửa chữa lớn. 8* Những thiệt hại do Việt Nam làm chủ đầu tư 100% Hiện nay, Petro Vietnam làm chủ 100% nhà máy lọc dầu DQ, đã gây ra những thiệt hại, mà có thể tránh được, nếu có sự tham gia của chủ đầu tư ngoại quốc, như Total của Pháp chẳng hạn. 8.1. Việt Nam không có phụ tùng cho việc xây dựng và bảo trì nhà máy. Từ con bù lon, ốc vít cho đến tất cả mọi thứ đều phải nhập cảng 100%. Tạo ra thêm nhiều thủ tục hành chánh, gọi thầu cung cấp, tài chánh, tốn kém tiền bạc và mất nhiều thì giờ. Nếu như Total của Pháp có cổ phần lớn, thì những khoản nói trên không cần thiết phải đặt ra và không bị mất tiền vô ích. 8.2. Trình độ khoa học kỹ thuật về dầu khí kém Trường hợp nếu có các công ty dầu khí nước ngoài tham gia đầu tư, thì họ đã có sẵn một đội ngũ chuyên viên rành nghề, có nhiều kinh nghiệm, điều động nhanh chóng. Trái lại, VN phải thuê nhiều chuyên viên ngoại quốc vào dạy cho kỹ sư và công nhân kỹ thuật. Năm 2006, 180 kỹ sư được huấn luyện cấp tốc ở Vủng Tàu, gồm các môn căn bản, trước hết là học Anh văn, kiến thức về công dụng và xử dụng các trang thiết bị, quy trình lọc dầu…đồng thời, 450 lao động cũng được huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật của ngành dầu khí. Tóm lại, họ chưa có khả năng và kinh nghiêm thực tế trong công việc, vì chỉ học lý thuyết trong khi chưa có nhà máy để nhìn tận mắt… Trên công trường hiện nay, có 3,500 kỹ sư, cán bộ và công nhân kỹ thuật, đến năm cuối 2007 có 15,000 người. Số chuyên viên nước ngoài là 141 người. 8.3. Tham nhũng và những chi phí vô ích Một nhân viên trong dự án cho biết, việc tham nhũng rất kinh hoàng. Các chuyên viên ngoại quốc làm việc ở công trường phải ở nhà của cán bộ cho thuê, hoặc cán bộ làm trung gian môi giới ăn huê hồng. Số tiền thuê nhà cao của họ đưa đến việc tiền lương phải tăng và các khoản chi tiêu tầm bậy khác được cộng vào chi phí của dự án, biến 1.5 tỷ USD thành 3.5 tỷ. Xuyên qua thời gian trên 10 năm chấm mút, ăn theo đã lên tới 2 tỷ. Số tiền 2 tỷ USD nầy được gọi là tiền đầu tư ảo, do vật liệu bị mất cắp, tiền chạy vào túi riêng và những khoản chi tiêu vô bổ. Để trả lời những câu hỏi về tham nhũng trong dự án, ông Đinh La Thăng, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Petro VN cho biết: “Lẻ ra nhà nước phải kiểm toán ngay từ năm 2010, nhưng lúc đó, chính phủ “chưa bố trí kế hoạch”, nên mãi tới tháng 3 năm 2011, việc kiểm toán chi tiêu mới bắt đầu, và hiện đang làm việc nên chưa có kết quả. Những nơi bị kiểm tra là Tập đoàn Vietsovpetro và Petro Vietnam. 8.4. Sản phẩm Dung Quất không tiêu thụ được Theo Petro VN, cuối năm 2009, nhà máy trục trặc, vận hành gián đọan, bữa đực bữa cái, cho nên các công ty nhập khẩu xăng dầu đã ký những hợp đồng với nước ngoài, nhập khẩu xăng dầu cung ứng kịp thời cho nhu cầu cấp bách trong nước. Vì thế, xăng dầu của Dung Quất không có nơi tiêu thụ, mà kho của nhà máy chỉ chứa được số lượng sản xuất trong 18 ngày (20,000m3). Nếu không giải tỏa thì không có chỗ chứa, nhà máy phải ngừng hoạt động. Xăng dầu do DQ sản xuất giá còn cao hơn giá xăng dầu nhập cảng, và phẩm chất không tốt, nên Hàng không VN không xử dụng xăng của DQ, mà vẫn mua xăng của Singapore. 9.Nạn ăn cắp vật liệu 9.1. Thưởng 5 triệu đồng cho người tố cáo Công trường xây nhà máy DQ khổ sở vì nạn ăn cắp vật liệu. Việc thi công bữa đực bữa cái, chập chờn khi nắng khi mưa, vật liệu tràn lan nằm ngổn ngang ngoài trời nhiều tháng đến rỉ sét là mồi ngon cho bọn ăn cắp để bán rẻ như phế liệu. Ăn cắp, đủ mọi thành phần, từ công nhân của công trường, bảo vệ công trường đến người dân địa phương. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ra chỉ thị: “Các nhà thầu phải cam kết, công nhân nào phát hiện và tố cáo người ăn cắp, thì được thưởng 5 triệu đồng. Số tiền thưởng nầy do công ty chủ của công nhân ăn cắp phải trả”. 9.2. Khối lượng vật liệu xây dựng nhà máy Dung Quất     Tổng số tài liệu, giấy tờ chất đầy 100 xe tải.     150,000 tấn vật liệu     Trên 5 triệu mét dây dẫn điện     17,000 tấn thép đủ loại. (Đủ xây 2 cái tháp Eiffel của Pháp)     Một nhà máy điện 100 Megawatts. (Đủ dùng cho cả thành phố Quảng Ngãi).     1,046 kỹ sư và nhân viên Dây tiếp địa tại nhà máy bị cắt 9.3. Những biện pháp chống ăn cắp Theo Ban Quản Lý Dự Án (QLDA) thì tình trạng ăn cắp xảy ra rất phức tạp, đặc biệt là ăn cắp sắt thép, dây dẫn điện và phụ tùng, để bán phế liệu. Trong 2 tháng, đã phát hiện hơn 30 vụ ăn cắp. Các nhà đầu tư đã thuê 500 vệ sĩ từ các công ty vệ sĩ, nhưng nhiều khi vệ sĩ bó tay nên phải nhờ đến công an địa phương trợ giúp. Công an địa phương được chỉ thị là phải kiểm tra các cửa hàng thu mua phế liệu, những thứ nào không chứng minh được nguồn gốc thì tịch thu. Phải đưa hệ thống Camera vào nhà máy để kiểm soát. Công khai công bố tên tuổi của người ăn cắp và xử lý cấp thời. Lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị chính phủ tăng cường lực lượng công an đến bảo vệ công trường. Đồng thời, đưa công trường Dung Quất vào danh sách an ninh quốc gia, để mạnh tay xử lý trộm cắp, phá hoại tài sản vào tội xâm phạm an ninh quốc gia. 9.4. Trộm cắp lộng hành   Những cuộn dây điện bị đánh cắp Bộ phận an ninh trật tự trên “đại công trình” chịu bó tay trước nạn ăn cắp vật liệu. Chính nhân viên của công ty Bảo Vệ Thiên Long, thay vì bảo vệ tài sản nhưng lại thông đồng để cho kẻ cắp công khai đem xe cần cẩu đưa những cuộn dây điện chở ra Đà Nẵng tiêu thụ. Một vụ trộm cắp lớn gây thiệt hại nghiêm trọng trị giá 70,000USD. Đồng thời làm cho các chuyên gia và công  nhân phải đình trệ công tác nhiều ngày. Ngày 3-8-2007, 5 tấn vật liệu gồm sắt thép còn nguyên, phụ tùng chưa xử dụng, bị khám phá ở một nhà mua phế liệu của ông Nguyễn Thiện. Công an đang điều tra. Ngày 16-4-2008, hai đối tượng tên Tâm và Công dùng thuyền thúng chở 608 kg sắt trộm ở công trường Dung Quất. Ngày 19-4-2008, công an bắt 5 bảo vệ về hành vi tổ chức trộm thiết bị tại kho của nhà thầu Technip. Lúc 1 giờ sáng, những tên trộm dùng xe gắn máy kéo 16 ống tuýp đặc chủng, đường kính 0.6m dài 6 m. Người giữ kho tên Văn đã mở cửa kho để cả bọn và khiêng ra ngoài. Ngày 22-4-2008, 2 nhân viên bảo vệ bị một nhóm 10 người, đi xe gắn máy, mang mã tấu, gậy gộc xông vào tấn công. Hai bảo vệ bị trọng thương, một người bị đâm một dao vào xương sườn, người kia bị chấn thương sọ não. Đó là nhóm côn đồ được thuê đánh bảo vệ để trả thù vụ bắt trộm trước đó. Ngày 1-5-2008, một nhóm 20 tên, đội mủ an toàn, một số bịt mặt, mang gươm, mã tấu xông vào tấn một nhân viên công trường DQ, để trả thù vụ tố cáo ăn cắp vừa qua. Ngày 18-3-2011, công nhân Đỗ Tấn, người được tin cậy cho vào làm khu bảo dưỡng của bộ phận quan trọng, đã trèo tường đến lầu ba, dùng kềm bấm cắt dây điện, ruột bằng đồng, dùng làm dây trung tính nối xuống đất (grounded wire) cở 35mm2 ruột 18 sợi dây đồng, làm lệch pha dòng điện khiến cho 23 máy vi tính, hàng chục máy lạnh, máy in, máy fax, máy photocopy…thiệt hại 60,000 USD. Dây nối đất rất quan trọng, để bảo vệ con người không bị điện giật khi dòng điện bị chập. Tấn bị ghép tội phá hủy công trình quan trọng, về an ninh quốc gia. Ngày 18-9-2007, 30 công nhân, xử dụng dao, ống sắt, gậy gộc vây đánh lực lượng bảo vệ. Họ đập phá tủ đựng tài liệu, điện thoại bàn, đập bể kiếng xe ôtô. 8 công nhân bị bắt giữ. Nguyên do. Vì bảo vệ làm việc chặt chẽ, các công nhân không đánh cắp được nên gây sự đánh nhau. 10. Kết luận Theo dự đoán thì dầu mỏ ở khu vực quần đảo Trường Sa là 105 tỷ thùng (1 thùng=158.987 lít), nếu khai thác 18.5 triệu tấn mỗi năm, thì có thể kéo dài từ 15 đến 20 năm. Theo Công Ước QT về Luật Biển, thì tài nguyên trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone-EEZ) 200 hải lý (1 hải lý=1km 852) thuộc quyền khai thác của VN. Tuy chưa xác định được trữ lượng là bao nhiêu, nhưng hứa hẹn là có nhiều. Trong tình trạng dầu mỏ của VN cạn dần, các nhà đầu tư ngoại quốc cuốn gói rút lui, nhà nước VN đang tìm mua mỏ dầu nước ngoài, nhập cảng dầu thô để lọc, VN có tiềm năng dầu to lớn ở Biển Đông mà không được quyền khai thác, phải vác tiền đi mua, thì quả thật là một cảnh đau lòng của dân tộc. Càng nhức nhối hơn nữa, kẻ cướp chính là hảo bằng hữu, là người đồng chí tốt của đảng CSVN. Trúc Giang Minnesota ngày 6-2-2015
......

Người Trung Quốc thống trị thủ đô thời trang của Ý

FLORENCE, Ý (NV) - Ngành kỹ nghệ dệt may nổi tiếng của Ý đang đổi thay thấy rõ khi hàng ngàn người Trung Quốc lũ lượt kéo đến định cư tại thị trấn Prato, nằm gần thành phố Florence. Theo MarketPlace.org, họ mua lại các doanh nghiệp của người địa phương để bắt đầu sản xuất hàng đóng nhãn “Made in Italy.” Người Trung Quốc làm việc trong ngành thời trang ở Prato, Ý. (Hình: Fabio Muzzi/AFP/Getty Images) Khoảng 4,000 xưởng may của người Trung Quốc tại Prato đang sản xuất chừng 1 triệu áo quần mỗi ngày. Nhu cầu sản xuất hàng loạt với gia công giá rẻ gọi là “thời trang nhanh,” khiến các công nhân làm việc chen chúc trong các xưởng may phải cố chạy theo cho kịp. Ông Xu Lin, chủ xí nghiệp may người Trung Quốc đóng trụ lâu năm ở Prato, nói không có người Trung Quốc vào đây tình hình sẽ tệ hại hơn nhiều. Ông Lin tiếp: “Người Trung Quốc mua len của Ý từ các công ty tại đây. Người Trung Quốc cũng tạo việc làm cho người Ý một khi ngành thời trang nhanh tăng trưởng mạnh.” Sự kiện này có thể gây tổn thương đến niềm kiêu hãnh của người dân địa phương khi người Trung Quốc sản xuất đồ thời trang nhanh hơn người Ý. Hậu quả, giá thành bị kéo xuống thấp hơn chỉ mới là một phần của vấn đề, áo quần do người Trung Quốc sản xuất tại đây đóng nhãn “Made in Italy” dễ đánh lận con đen với hàng thời trang truyền thống của Ý. Cô Lu Chen, người mẫu sống lâu năm ở Milan, nói rằng về phương diện thiết kế thời trang thì hiện thời người Trung Quốc thiếu óc sáng tạo, mà chỉ sở trường về bắt chước. Cô Chen nói cô không nghĩ họ có khả năng như người Ý để thăng tiến hơn về thời trang. (TP) Theo nguoi-viet.com
......

Ly cà phê trên tường

Tôi ngồi cùng người bạn trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice - Ý Đại Lợi, thành phố của ánh sáng và nước. Khi chúng tôi thưởng thức cà phê, một người đàn ông bước vào và ngồi xuống chiếc bàn trống bên cạnh chúng tôi. Anh gọi người phục vụ và nói: - Hai ly cà phê, một ly trên bức tường kia. Chúng tôi khá quan tâm khi nghe gọi thức uống như thế và quan sát thấy người đàn ông được phục vụ một ly cà phê nhưng trả tiền cho 2 ly. Khi anh đi khỏi, người phục vụ dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”. Trong lúc chúng tôi còn ngồi đó, hai người đàn ông khác vào quán và gọi 3 ly cà phê, 2 ly trên bàn và 1 ly trên tường. Họ uống 2 ly cà phê nhưng trả tiền cho 3 ly và rời đi. Lần này cũng vậy, người phục vụ làm tương tự, anh dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”. Có điều gì đó làm chúng tôi thấy lạ và khó hiểu. Chúng tôi uống hết cà phê, trả tiền rồi rời đi. Vài ngày sau, chúng tôi có dịp quay lại quán cà phê này. Trong lúc chúng tôi đang thưởng thức cà phê, một người đàn ông ăn mặc tồi tàn bước vào. Khi anh ngồi xuống ghế, anh nhìn lên tường và nói: - Một ly cà phê trên tường. Người phục vụ mang cà phê đến cho anh với sự tôn trọng như thường lệ. Người đàn ông uống cà phê và đi khỏi mà không trả tiền. Chúng tôi ngạc nhiên chứng kiến tất cả sự việc, lúc người phục vụ tháo một mảnh giấy trên tường và bỏ nó vào thùng rác. Giờ thì chúng tôi không còn ngạc nhiên nữa – sự việc đã rất rõ ràng. Sự tôn trọng tuyệt vời dành cho người nghèo được thể hiện bởi các cư dân ở thị trấn này đã làm đôi mắt chúng tôi đẫm lệ. Hãy suy ngẫm những điều người đàn ông này mong muốn. Anh bước vào quán cà phê mà không phải hạ thấp lòng tự trọng… Anh không cần xin một ly cà phê miễn phí… không cần hỏi hay biết về người đang cho anh ly cà phê này… anh chỉ nhìn vào bức tường, gọi thức uống, thưởng thức ly cà phê của mình và rời khỏi quán. Một ý nghĩ thật sự đẹp. Có lẽ đây là bức tường đẹp nhất mà chúng tôi từng nhìn thấy. Theo thoidihoc.net
......

CHIẾN TRANH và TỴ NẠN

Thời tiết mùa đông lạnh buốt, những cánh tuyết rơi trắng lấp cỏ cây, tôi ngồi ở phòng khách có sưởi ấm xem Tivi thật thoả mái, ấm áp... Nghe phần tin tức tường thuật về các trận chiến ở Syria, những đoàn người chạy giặc phần lớn là đàn bà trẻ em …đã gợi tôi nhớ lại thân phận người Việt Nam chúng ta cũng đã trải qua cuộc chiến tương tàn khoái lửa đốt cháy quê hương cách đây 40 năm... Từ năm 1965, những vùng quê hẻo lánh ở miền Trung cách xa quận lỵ hay thành phố bị „Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam„ chiếm bắt thanh thiếu niên, phụ nữ vào du kích, đi dân công, đào địa đạo, vót chông, đóng thuế nuôi quân và những người VC nghi ngờ thân Quốc gia bị bắt đi không bao giờ trở lại…Phần lớn dân quê bỏ nhà cửa ruộng vườn, về thành phố hay quận lỵ thuộc vùng Quốc gia để sống gọi là tỵ nạn CS. Được chính quyền VNCH giúp đỡ cấp tôn, cây gỗ để làm nhà, trợ cấp thực phẩm để sống trong thời gian đầu như ngoại ô Hội An có: Xóm Mới, Cẩm Hà, Khổng Miếu, trại Nông là những khu đất trống hay những bãi cát vàng bỏ hoang được lập thành trại tị nạn. Ở Đà Nẵng vùng ngoại ô như: Phước Tường, Hoà Khánh, Đò Xu, Cẩm Lệ, ngã ba Cây Lan, biển Thanh Bình, An Hải (biển Mỹ khê) là những nơi người tị nạn về sinh sống, an toàn không sợ bom đạn hay bị VC bắt giết chụp mũ tay sai phản động...Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam giửa hai chế độ Quốc Gia và Cộng Sản hơn 20 năm khoái lửa điêu linh, đại lộ kinh hoàng từ Quảng trị vào Huế đẩm máu của người dân vô tội bỏ chạy lánh nạn CS, nhưng không có người dân nào bỏ nước ra đi. Sau 30.04.1975 chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước dù không còn nghe tiếng súng, nhưng đời sống dân VN trở nên khủng khiếp, tàn nhẩn hơn với chính sách tập trung cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền, đuổi người đi vùng kinh tế mới…Từ đó phát sinh làn sóng người vượt biên bằng đường bộ, vượt biển đi tìm tự do. Chúng ta đánh đổi mạng sống của mình trên biển với phong ba, bảo tố, hải tặc… Các Quốc gia vùng Đông Nam Á chấp nhận cho người Việt Nam trôi dạt vào bờ vào đảo, sống chen chúc trong những khu riêng dành cho người tị nạn ở Galang, Pulau Bidong (Indonesia), Songkla (TháiLan), Palawang (Philippines), Malaysia, Singapor, Hongkong... Được Cao Uỷ Tị Nạn (Office of the United Nations High Commissioner for Refugees (UNHCR), giúp đỡ lương thực sống qua ngày, các nước tự do trên thế giới mở vòng tay nhân ái đón nhận người Việt đi định cư. Hơn 35 năm qua đời sống người Việt khắp nơi trên thế giới hội nhập tốt đẹp, ngày xưa CSVN gọi người tị nạn bỏ nước ra đi là „bọn lưu manh, đỉ điếm, kinh tế, tay sai…“. Chính những người Việt tỵ nạn nầy hàng năm gởi về nước trên 10 tỷ USD giúp thân nhân, từ thiện, nhà cầm quyền CSVN có một số ngoại tệ lớn. Riêng ở Đức tiến sĩ Rupert Neudeck cựu chủ tịch Cap Anamur, đã vớt 11 ngàn người Việt trên biển Đông định cư ở Đức, ông rất hảnh diện về sự thành công của người Việt Nam ông từng tuyên bố „tôi là người Việt Nam“ trong dịp kỷ niệm 35 năm Cap Anamur (1979-1914) cứu người Việt Nam trên biển Đông. Trong những năm qua xảy ra nội chiến ở Trung Đông, Phi Châu, Syrien,..Làng sóng người vượt biển Hồng Hải đến các nước ở Âu Châu tị nạn chiến tranh hàng triệu người đủ các dân tộc ở Phi Châu, Syria, Iraq, libya, Nigeria… phần đông họ theo đạo Hồi Giáo các phái Shiite-Sunni. Hàng năm, các Quốc gia Âu Châu có chương trình giúp đỡ Thế Giới Thứ III cho 18 triệu người nghèo đói Phi Châu, theo các nhận định của giới truyền thông số người tỵ nạn sẽ lên tới 50 triệu người muốn di dân đến Âu Châu vì lý do kinh tế. Năm 2014 chính phủ Đức nhận 200 ngàn người tị nạn, số tiền trung bình của các tiểu bang cho mỗi đầu người trong một năm 6.700€  (bản tính theo Focus), nhiều tiểu bang giàu cấp khoảng 12.500€ cho mỗi người chưa tính tiền bảo hiểm sức khoẻ. Theo thống kê phân chia số người tỵ nạn đến 10 quốc gia Âu Châu. Đức và Thụy Điển (Schweden) phải nhận 50%! Đời sống Âu Châu cũng không tránh khỏi khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp tăng như: Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp…Nước Đức được xem là vững mạnh nhất về kinh tế, nhưng số người thất nghiệp khoảng 3 triệu người (phần lớn người dân thuộc Đông Đức cũ). Tiền lương hàng tháng mỗi người đi làm vẫn còn bị trừ khoảng tiền „Đoàn kết/ Solidaritätszuschlagt“ giúp xây dựng phiá Đông (dù đã thống nhất hơn 25 năm). Bởi vậy làng sóng người tỵ nạn đến trong giai đoạn nầy không được như xưa. Trong những tháng vừa qua phong trào Pegida bộc phát từ Dresden hàng chục ngàn người xuống đường biểu tình chống người Hồi Giáo di cư, “Islamisierung“. Ở Paris nhóm theo Hồi giáo bắn chết các ký giả và nhân viên tại văn phòng báo Charlie Hebdo, sự dã man trong vụ thảm sát đó làm tổn thương tự do ngôn luận, khi sự thịnh nộ đang xâm chiếm và đè nặng tâm hồn của con người trong thế giới tự do. Đã làm cho nhiều người với con mắt không thân thiện mất cảm tình với người theo đạo Hồi. Những người tỵ nạn trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, đáng thương họ bị ngấm ngầm kỳ thị. Đời sống mới ở Âu Châu không còn đói khổ, nhưng bị kỳ thị là một nỗi đau thương của người dân rời bỏ quê hương! Với trình trạng càng ngày càng nhiều người Đức ít sinh con, đối với làng sóng di cư đến Đức như hiện nay thì khoảng 50 năm sau, không còn là một xứ Đức theo Thiên Chúa, mà sẽ trở thành một đất nước Đức mới bị Hồi giáo hoá. Gia đình người theo đạo Hồi di cư tới Đức sinh con nhiều, mỗi gia đình ít nhất 4 con, đàn ông nhiều vợ thì số con càng tăng hơn. Nhìn chung những Quốc gia theo đạo Hồi chậm tiến, nghèo đói, nhiều phần tử cuồng tín lợi dụng danh từ Thánh Chiến/  Dischihadisten gây nên nội chiến chém giết nhau… (mời xem lịch sử Hồi Giáo) http://bit.ly/1v81Fq6. Thăm dò dư luận, có thể người Đức ghét những người tị nạn mới vì lo ngại trước hiện tượng Hồi giáo hóa. Những gia đình theo đạo Hổi ở lâu năm ở Đức, nhưng khó hội nhập, dù thế hệ thứ 2 sinh ở Đức, đã có 500 người mang quốc tịch Đức, đến Thổ Nhĩ Kỳ rồi sang Syria theo nhóm IS (Nhà nước Hồi giáo). Một số trở lại Đức bị theo dõi và bị bắt giữ tránh trường hợp „nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà“ khủng bố xảy ra như ở các Quốc gia: Bỉ, Úc (Sydney), Pháp… Làn sóng biểu tình lên cao, Thủ tướng Merkel khuyên công dân Đức không nên tham gia các phong trào có tính cách hận thù, phân biệt chủng tộc tôn giáo. Cấm báo chí không được khiêu khích, nhạo bán đức tin mạ lỵ tín ngưỡng người khác. Năm Ất Mùi cầu mong cho thế giới hòa bình, kinh tế ổn định, để nhân loại bớt khổ đau và hận thù. Nếu chiến tranh chấm dứt thì không còn người tị nạn. Hy vọng dân tộc Việt Nam có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Nguyễn Quý Đại 2015 Hình tài liệu của Tuần báo Focus
......

Vậy là còn 365 ngày sầu nơi chốn này

Sáng nay tôi lại đến trụ sở ủy ban nhân dân phường trình diện theo định kỳ hàng tháng. Sau thủ tục chào hỏi thông thường, đại diện chính quyền địa phương xuất hiện, nhưng lại là một anh Phó Chủ tịch phường. Bắt tay anh mà mắt tôi cứ nhìn ra ngoài cửa phòng như tìm ai khác. Ngoài phố một màu trắng xóa, không thấy ai. Bỗng tôi nhớ mấy câu trong bản nhạc bất hủ của nhạc sĩ Trường Sa: “Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi …” Rồi tự nhủ, “lời nào gian dối cũng xin qua rồi!” Quay trở về thực tại …, trước mặt tôi là 8 người đàn ông, 2 dân sự và 6 công an. Khi tôi đưa ra bản “Báo cáo chấp hành án tháng 1/2015” theo thường lệ, bầu không khí của căn phòng trở nên căng thẳng, vì lời lẽ tôi viết như sau chăng (?): “Vào ngày 22/1/2015, từ 23g15 đến 23g45, công an khu vực thuộc phường Tân Phú đã đến kiểm tra việc “chấp hành án quản chế” của tôi tại nhà riêng một cách vô lối mà không dựa trên bất kỳ văn bản pháp lý nào. Thêm vào đó công an khu vực lại tự ý lập biên bản và mời tôi lên trụ sở công an phường làm việc một cách không cần thiết vào sáng ngày 26/1/2015. Theo tôi đó là sự lạm quyền và cần phải chấm dứt.” Hầu như suốt buổi làm việc, tôi và các anh công an tranh luận về cách diễn giải luật. Tôi mang theo hai văn bản luật pháp về cư trú và quản chế để “nói có sách mách có chứng”, nhưng các anh lại hiểu theo cách khác mà tôi không đồng ý. Vì các anh không nêu ra được văn bản luật biện minh cho cách hiểu của mình, nên chúng tôi đành kết thúc tranh luận và tôi nói rõ: “Tôi ghi nhận ý kiến của các anh, nhưng trừ phi các anh đưa ra quy định luật pháp nào nêu cụ thể cách diễn giải đó thì tôi chấp hành, bằng không tôi sẽ làm theo văn bản luật tôi có!” Các anh đáp lại rằng: “Chúng tôi chỉ có ý nhắc nhở, chứ không phạt anh, từ “xử lý” không có nghĩa là “xử phạt” nên anh không cần nhạy cảm như thế (!)” Tôi trình bày, “tôi là công dân và không thích công an khám nhà mình vào ban đêm, nên trừ phi có bằng chứng tôi vi phạm pháp luật, các anh không nên làm như vậy.” Một anh an ninh ở Bộ Công an cùng dự khán, tỏ vẻ giận dữ rằng: “Anh viết như vậy khác nào chửi chúng tôi!” Tôi ngạc nhiên, “câu nào trong bản báo cáo đó được hiểu là “chửi” thế?” Anh ấy đáp, “anh có chửi hay không tự anh hiểu!” Tôi nói một cách thẳng thắn rằng: “Thứ nhất, không câu nào hàm ý chửi các anh. Thứ hai, rõ ràng các anh không quen nghe lời góp ý thẳng của dân, nên ai nói như vậy đều hiểu ngay là chửi.” Anh ấy đề nghị tôi viết lại bản báo cáo và bỏ đoạn nêu trên, tôi hơi cao giọng: “Tôi không việc gì phải viết lại, nhận hay không là chuyện của các anh. Nó thể hiện thái độ của tôi, chứ không phải là sự khiếu nại để có thể tách ra thành một văn bản khác.” Một anh an ninh ở quận chuyển sang đề tài khác, hỏi rằng: “Trong một lần bình luận câu nói của Tổng thống Obama về Bắc Triều Tiên trên facebook, anh bảo các chế độ độc tài rồi sẽ sụp đổ. Ý anh là gì?” Tôi đáp, “mọi chế độ độc tài trên thế giới đều sẽ phải thay đổi, kể cả Việt Nam.” Anh ấy nói, “vậy chế độ ở Việt Nam sẽ thay đổi hay sụp đổ?” Tôi giải thích, “sụp đổ là một trong hai hình thức của thay đổi, nếu chuyển đổi như Myanma thì đó là sự thay đổi tốt đẹp, còn sụp đổ như các nước Đông Âu lại là sự thay đổi tệ hại.” Anh an ninh ở Bộ Công an gật gù, “tôi đồng ý với anh rằng sụp đổ là một hình thức của thay đổi, nhưng tùy theo cách nhìn của mỗi người mà nó tốt hay xấu thôi.” Tôi quay sang cám ơn anh vì đã hiểu đúng ý tôi muốn nói. Một anh an ninh ở Sở Công an hỏi: “Nhóm 8406 kêu gọi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, anh nghĩ sao?” Tôi trả lời ngay rằng tôi hoàn toàn ủng hộ lời kêu gọi đó. Anh ấy hỏi lại, “tức là anh cũng muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng?” Tôi giải thích, “Điều 4 duy trì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, bỏ Điều 4 là xóa sự độc quyền đó, chứ không phải xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản; trong một thể chế đa đảng nếu tranh cử công bằng và nhận được sự tín nhiệm của toàn dân thì Đảng Cộng Sản hoàn toàn có thể cầm quyền và tôi sẽ ủng hộ điều đó bởi tôi cổ súy một nền dân chủ thật sự.” Các anh an ninh hỏi tại sao tôi ca ngợi tuyên ngôn của nhóm Rapper Nah-Sơn, tôi đáp rằng tôi mong giới trẻ ngày nay nhìn nhận đa chiều các vấn đề xã hội, chứ không chỉ một chiều theo lời tuyên truyền của nhà nước, bởi lẽ thời đại ngày nay đã khác mươi năm trước, thông tin nhiều hơn, những giáo điều không còn phù hợp với thực tiễn của một nền kinh tế đang phát triển, tuổi trẻ dễ và cần tiếp nhận cái mới để góp phần phát triển đất nước. Các anh an ninh tỏ vẻ khó chịu khi nhắc đến việc tôi tham gia hội luận trên mạng truyền thông của BBC vào ngày 22/1/2015, rồi giả vờ hỏi tôi đã nói gì trên đó. Tôi đáp khi được phóng viên BBC hỏi về các video clip “nhận tội” trong quá trình điều tra vụ án năm 2009, tôi đã nêu rõ rằng các đoạn chiếu trên truyền hình không phản ánh chính xác toàn bộ nội dung và mạch ý tưởng trong phần tường trình của tôi với cơ quan điều tra, vì đã bị cắt dán với mục đích tuyên truyền. Các anh giải thích rằng, “cắt dán là bình thường, giống như anh viết trên facebook vậy thôi (?)” Tôi không đồng ý và trả lời, “biên tập các bài viết trên facebook khác với việc tường thuật sai lệch có chủ đích.” “Hơn nữa, tôi nói tiếp, lúc tôi phản đối việc đặt camera trong quá trình thẩm vấn, điều tra viên đã giải thích rằng việc thu hình là để báo cáo cấp trên chứ không nhằm chiếu trên phương tiện truyền thông đại chúng, nên tôi chấp nhận, nhưng cuối cùng các video clip đó vẫn xuất hiện mà tôi không biết.” “Đó là sự man trá không thể chấp nhận,” tôi kết thúc. Anh an ninh ở Bộ Công an bảo, “quay phim lúc điều tra là bình thường.” Tôi đành bật cười, chẳng lẽ tôi phải giải thích với anh rằng quay phim là bình thường thật, nhưng tiết lộ các thước phim ấy trong quá trình điều tra vụ án chính là sự tiết lộ hồ sơ vụ án, một hành vi vi phạm luật tố tụng hình sự rõ ràng và công nhiên của cơ quan điều tra. Sau này, tôi còn biết, một nhà ngoại giao châu Âu, sau khi xem video clip về tôi năm 2009, từng bày tỏ quan ngại rằng hành động đó đã vượt khỏi các chuẩn mực văn minh và quan niệm pháp lý được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Làm sao giải thích cho các anh hiểu đây? Tôi thầm cầu Chúa ban phép mầu giúp tôi. Buổi làm việc kéo dài từ 9 giờ đến quá 11 giờ mới kết thúc. Tôi bước ra khỏi cổng đến nơi đỗ xe và chợt nghe văng vẳng một giọng hát não nề từ đĩa nhạc phát to của quán cà phê phía đối diện: “Đời là vạn ngày sầu, biết tìm vui chốn nào?” Ái chà, tôi bỗng nhẩm đếm, còn đúng một năm nữa mới hết thời gian quản chế. Vậy là còn 365 ngày sầu nơi chốn này! Theo FB Lê Công Định
......

Những gia đình không có Tết

Những ngày cuối cùng của năm Giáp Ngọ đang dần khép lại và năm mới Ất Mùi đang sửa soạn gỏ cửa từng nhà. Thế nhưng, vẫn còn đó rất nhiều gia đình không có Tết. Trong cái lạnh mưa phùn ngày gần Tết những người dân oan không còn nhà vẫn đợi chờ sự công bằng của chính quyền.Photo Tết của những người mất nhà mất đất Trong không khí rộn ràng của mùa xuân vào những ngày giáp Tết, âm thanh cuộc sống có vẻ rộn ràng hơn, đâu đâu cũng tấp nập người qua lại. Thế nhưng, những khu vực có hàng ngàn dân oan thường tập trung ở Hà Nội như ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng lại thưa vắng hơn. Nhiều người trong số dân oan đi khiếu kiện không còn đất, không còn nhà để trở về thắp nén nhang trên bàn thờ trong giờ đón giao thừa, nhưng dù vậy họ cũng cố gắng đặt chân đến mảnh đất, đến trước căn nhà từng thuộc về sở hữu của mình nơi cố hương trong giờ phút giao mùa của đất trời. Một dân oan bị mất nhà ở Hải Phòng, khiếu kiện ở Hà Nội 20 năm chia sẻ: “Rất nhiều năm chẳng có Tết gì cả, 20 năm rồi. Tết có về nhưng không có nhà để về. Về chỉ để thăm mộ ông bà thôi. Về đi qua cái nhà mình bị mất rồi thì toàn ngồi hàng, ngồi quán, ngồi kiểu không có nhà rồi lại đi thôi”. Một dân oan Đối với gia đình tử tù Nguyễn Văn Chưởng đã đúng tròn 8 năm không có Tết và Tết Ất Mùi năm nay là một cái Tết sầu thảm nhất đến với gia đình. Trao đổi với Hòa Ái qua điện thoại, thân phụ anh Nguyễn Văn Chưởng, ông Nguyễn Trường Chinh tâm sự: “8 năm qua làm gì có Tết, không có cái Tết nào hết. Con như thế làm gì có Tết. Hiện nay gia cảnh thì bần hàn. Ruộng đất, đất vườn hết rồi. Nhà cầm hết rồi. Bố mẹ đi kêu oan cho con ở Hà Nội cũng nhờ sự tài trợ của dân oan, những người ở trong nước và ngoài nước giúp đỡ tiền ăn tiền gạo hàng ngày. Bản thân gia đình chúng tôi không còn gì để lo nỗi nữa. Tài sản có còn gì đâu…Tan nát hết rồi”. Ông Nguyễn Trường Chinh cho biết thêm gia đình vui mừng khi đón nhận thông tin đăng tải trên báo chí rằng lệnh thi hành án tử đối với anh Nguyễn Văn Chưởng được hoãn lại để điều tra. Tuy nhiên cho đến nay, gia đình vẫn chưa nhận được một thông báo chính thức nào mà thậm chí bản thân tử tù Nguyễn Văn Chưởng không còn được phép gửi thư ra ngoài để kêu oan kể từ tháng 12 năm 2014. Gia đình anh Chưởng thật sự hoang mang vì trước nay anh Chưởng được viết thư kêu oan gửi ra ngoài bằng đường bưu điện hay nhờ người nhà mang thư đi một tháng một lần. Đây chính là nguyên nhân khiến cho gia đình tử tù Nguyễn Văn Chưởng lo lắng đến tột cùng, như đang ngồi trên lửa trong thời tiết lạnh giá của mùa xuân. Ông Nguyễn Trường Chinh vẫn trụ lại ở Hà Nội trong mấy ngày Tết để kêu oan cho con trai mình. Ông Chinh nói: “Tôi vẫn ở đây kêu oan. Nếu như chưa đòi được văn bản chính thức trả lời cho gia đình như thế nào thì tôi vẫn ở đây để kêu oan cho con, đấu tranh để giành sự sống cho nó. Mong ước vượt bậc của chúng tôi hiện nay là mau chóng nhận được phán quyết đúng đắn của Tòa và của Chủ tịch nước VN. Chúng tôi mong muốn họ trả lời cho tử tù Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải để chúng tôi có được cái Tết an lành, Tết đỡ lo sợ”. Trong khi đó, ở Bình Phước, bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, 11 tuổi, phải đi kêu oan cho cha mẹ, sửa soạn chút quà Tết trong chuyến thăm gặp cả cha lẫn mẹ ở trong tù. Bé Hiếu bộc bạch vài lời ngắn gọn về cái Tết thứ 2 không có cha mẹ ở nhà: “Dạ thưa cô, con sẽ đi mang vào bánh kẹo, bánh chưng. Trước kia có ba mẹ thì mẹ mua cho con đồ Tết và ba mẹ chở con đi chơi. Con thưa cô là hồi năm ngoái Tết buồn lắm. Mong cho ba mẹ năm nay được về Tết”. Mùa xuân là mùa của ước mong, của hy vọng. Hàng ngàn dân oan trên khắp mọi miền đất nước VN đều có cùng ước muốn duy nhất rằng những khuất tất của họ sẽ được giải oan trước thềm năm mới. Tuy nhiên nhiều người đã phải đón Tết trong thân phận tha phương cầu thực qua nhiều năm và niềm ao ước của họ dần phai nhạt khi mỗi độ xuân về. Nhưng không vì thế mà họ bỏ cuộc trên hành trình đi tìm công lý. Họ chịu đựng, họ nhẫn nại, họ vẫn vững niềm tin vì còn đó những tấm lòng dành cho họ. Các nhóm xã hội dân sự độc lập đến với dân oan Trước tình cảnh gánh nặng mưu sinh hằng ngày của bà con dân oan để tiếp tục đi khiếu kiện ở Hà Nội, nhiều nhóm xã hội dân sự độc lập được thành lập để giúp đỡ cho họ. Tận mắt chứng kiến rất nhiều bà con dân oan, kể cả những đứa bé, phải đi nhặt phế liệu, đi làm các công việc khác nhau như bán vé số, rửa bát thuê…để trang trải cho bữa cơm hàng ngày của họ, bạn trẻ Lý Quang Sơn cho đài ACTD biết anh cùng một số bạn bè thành lập nhóm “Cơm cho Dân oan” hồi tháng 9 năm ngoái để hỗ trợ cho bà con dân oan. Anh Lý Quang Sơn chia sẻ: “Nhóm em là nhóm duy nhất làm cơm cho dân oan. Thường thì bọn em làm từ 150 đến hơn 200 suất. Bọn em đem cho dân Dương Nội đi tuần hành hoặc là bọn em mang đến Số 1-Ngô Thì Nhậm, Hà Đông. Thường 200 suất như vậy là đủ. Nếu làm bánh mì thì tụi em làm từ 150 đến 300 suất. Có những người ăn 1 cái, có những người ăn 2 cái. Nói chung bọn em làm đầy đủ cho bà con. Bọn em còn dự định tối 30, hay tối 28,29 gì đó, bọn em sẽ mang bánh chưng đến cho bà con còn ở lại Hà Nội này”. Ngoài nhóm “Cơm cho Dân oan” còn có các nhóm khác hỗ trợ cho dân oan như nhóm “Cứu trợ Dân oan” và nhóm “Cứu lấy Dân oan”. Hai nhóm “Cứu trợ Dân oan” và “Cứu lấy Dân oan” hỗ trợ 1 triệu 200 ngàn đồng 1 tuần cho nhóm “Cơm cho Dân oan” giúp buổi ăn trưa trong mỗi tuần của bà con dân oan ở Hà Nội. Các nhóm xã hội dân sự độc lập này mong muốn có thêm tài chính, có thêm con người, có thêm nhiều sự ủng hộ khác từ mọi người để có thể giúp đỡ bà con dân oan nhiều hơn. Những ngày giáp Tết Ất Mùi dưới thời tiết giá rét, nhiều bà con dân oan không còn tiền để thuê chổ ngủ, phải dựng lều bạt trú tạm trên vỉa hè tại số 1 Ngô Thì Nhậm-Hà Đông. Thế nhưng, các lều bạt này bị côn đồ giật xuống cũng như bị ném mắm tôm vào những đêm mưa phùn. Bà con dân oan cho rằng chính quyền địa phương mượn tay côn đồ quấy phá không cho họ trụ lại những ngày Tết để kêu oan. Bà con dân oan nhờ qua làn sóng phát thanh của đài ACTD để lên tiếng về tình cảnh bị sách nhiễu của họ, đồng thời cũng gửi lời tri ân đến những tấm lòng nhớ đến họ trong mấy ngày Tết với một vài cân gạo và cả những chiếc áo bông dành cho các cháu nhỏ không may mắn, phải chịu cảnh dân oan khi mới chào đời. Theo rfa.org/vietnamese
......

Không có đường về nhà!

Những ngày này đi ngang qua Bến xe miền Đông thấy rất nhiều người chen lấn tìm một chiếc vé về quê ăn tết, thấy dân mình khổ quá. Nhưng những người phần lớn là công nhân tha phương cầu thực đó, dù sao cũng còn một mái nhà để về thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên, tạm quên đi những cơ cực hằng ngày tại một xưởng may hay một cty nào đó! Có những người đã không có đường về nhà. Đó là những người dân bị mất đất đang vạ vật tại "vườn hoa" ngoài Hà Nội để hằng ngày dương biểu ngữ kêu oan mà nỗi oan không ai chịu giải. Họ mới là những người bất hạnh nhất bởi từng có đất, có nhà, giờ đã trắng tay! Tôi chắc chắn rằng những người dân hiền lành, ít học này không biết gì đến chính trị. Họ đi kêu oan là còn tin tưởng vào nhà cầm quyền, vậy sao các vị không giải oan cho họ? Bao nhiêu tờ báo, bài báo của nhà nước đã viết về vấn đề này, những cuộc họp chính phủ, thanh tra... cũng khẳng định điều này là thật dù chưa dám nói trắng ra. Nhưng tôi biết và ai cũng biết nó tương tự thế này: Tại các tỉnh thành, nhiều nhất là phía nam, từ thành phố, thị trấn, huyện cho đến cả khu vực xã, nếu lỡ người dân có một miếng đất địa thế "ngon ăn", gần đường lớn, gần trung tâm hành chính là bị "quy hoạch" ngay. Sau đó các "quan chức" sẽ đền bù bằng một giá cực kỳ thấp và rất nhiều nơi nhanh chóng bị phân lô, bán nền cho cán bộ, bà con cán bộ và giới giàu có thân cận với chính quyền và sau đó nữa, giá trị những lô đất bị đầu cơ đó tăng lên bằng hằng trăm, thậm chí hằng ngàn giá trị đền bù. Nói riêng tại các tỉnh Nam bộ bây giờ, tất cả các cán bộ đương chức đều rất giàu có so với người dân. Họ giàu từ đâu? Trong khi đó người có đất nếu bị giải tỏa đã không thể mua lại chính đất của mình. Họ trở nên trắng tay! Và rất ít trong số họ lên đường đi kêu oan, thành dân oan, còn phần lớn là nuốt hận! Mới đây, ông Tổng bí thư đảng CS còn khẳng định "Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích người dân", vậy sao quí vị không giải quyết những trường hợp này? Có gì khó đâu? Tôi chỉ cách cho nè: Ngay lập tức nhận hồ sơ kêu oan, ngay lập tức về địa phương đó, điều tra các cán bộ tỉnh, huyện, xã... thử xem họ lộng hành ức hiếp dân nghèo ra sao, "ăn đất" ra sao, họ giàu có từ sự cướp đất thế nào. Truy tố họ, tịch thu gia sản của bọn này trả lại người dân. Chỉ đơn giản vậy thôi, dân lại sẽ gọi quí vị là muôn năm! Liệu quí vị có dám làm như vậy để trả lại con đường về nhà cho bao số phận? Theo FB Nguyễn Đình Bổn
......

Cuộc đời khốn khó của Marx ở London

Nhân có một người bạn sang thăm London chụp lại hình Bảo tàng Anh Quốc với dấu tích ông tổ của chủ nghĩa cộng sản Karl Marx tôi mới nhớ ra rằng vẫn có người Việt Nam quan tâm đến ông. Cũng để các bạn khác biết thêm về cuộc sống khốn khó ở Anh của nhà sáng lập ra Tuyên ngôn Cộng sản, tôi viết ra đây những chuyện đã biết và tìm lại chút tài liệu về thời Marx ở London. Tượng Marx được đặt vào nghĩa địa Highgate năm 1956 Photo Hồi sang Anh năm 1999, tôi ở trọ nhà Rafael, một anh bạn Ba Lan tại khu Camden, nằm về phía Bắc của trung tâm London. Vì cùng học khoa luật Đại học Tổng hợp Warsava và cùng quan tâm lịch sử, anh bạn tôi nói ông Marx cũng từng sống ở Camden và rủ tôi đi xem mộ ông tại nghĩa trang Highgate. Từ đó, tôi bỏ công tìm hiểu và biết rằng ở London còn có 'Tuyến đường của Marx' (Karl Marx The Walking Tour). Nếu đến London, lấy khu Westminster có Tháp đồng hồ Big Ben và Quảng trường Trafalgar làm trung tâm thì bạn chỉ đi bộ là đến phố Tàu tức Chinatown. Ngay rìa khu này, Dean Street, Soho là nơi Marx từng trú ngụ hồi mới sang Anh. Soho nay vẫn là một nơi ăn chơi 'phóng túng' nhất London và gần đây có thêm mấy quán bán phở hay món ăn Việt Nam. Nhưng khi đó, đây là khu nghèo, nổi tiếng với các nhà hát, tiệm ăn bình dân, các quán đèn đỏ và vào năm 1854 bệnh dịch tả nổ ra ở ngay Broad Street làm hơn 600 người chết. Mãi sang thế kỷ 20, chính quyền Anh mới cho người Hoa dọn từ Limehouse, gần khu Đảo Chó (Isle of Dogs) ở Đông London về đây xây Chinatown, ít nhiều tạo ra không khí làm ăn nhộn nhịp. Bước trở lại phía Đông tới khu Covent Garden trên các con đường vẫn thoảng mùi vịt quay hoặc bánh bao bán tới nửa đêm với giá chỉ 2 bảng, bạn tới phố Long Acre là nơi có St Martin’s Hall, chỗ Marx từng diễn thuyết cho Hội Ái hữu Công nhân Quốc tế hồi thế kỷ 19. Vòng lại phía Tây Bắc chỉ mất thêm 10 phút đi bộ kể cả khi đi chậm, bạn tới British Museum có phòng đọc Reading Room là nơi Marx hàng ngày đến ngồi nghiên cứu. Khu Camden, phía Bắc London là nơi Marx sống trong nhiều năm Đây cũng là nơi ông ‘tỵ nạn’ lúc trời đông vì ở nhà không có sưởi và viết ra các tác phẩm nổi tiếng. Từ khi này, đi lên phía Bắc không xa là Công viên Regent Park rất rộng và ngay mạn Bắc của công viên, trên bờ khu kênh đào chính là Camden, nơi Marx cũng từng sống ở nhà số 41 Regents Park Road. Đi lên phía trạm xe điện ngầm Chalk Farm, tới số 1 Modena Villas rồi 44 Maitland Park Road và số 9 Grafton Terrace (nay là số 36), bạn đã qua tất cả các địa chỉ ông Marx đã từng sống tại London. Từ đó, bạn có thể lên xe bus hoặc xuống xe điện ngầm (Tube) ở Kentish Town vẫn tiếp tục về hướng Bắc tới ga Archway (gần hơn ga Highgate) đi bộ vào nghĩa địa Highgate, nơi có mộ và bức tượng Marx. Đi theo ‘con đường của Marx’ (www.Marxwalks.com) mà chỉ nhìn thấy Marx thì quả là một thiếu sót lớn. Lần đến nghĩa trang Highgate, Rafael chỉ cho tôi thấy ngay đối diện mộ ông Marx là nhiều hàng bia mộ của các quân nhân Ba Lan phải lưu lại Anh sau Thế Chiến 2 vì tổ quốc của họ bị Liên Xô chiếm và nhiều người ngây thơ trở về đã bị chế độ mới đầy đọa. Cũng trong tinh thần nhìn lịch sử phải công bằng với mọi bên như vậy, tôi muốn mô tả lại cho các bạn cuộc sống của ông Marx như một người lưu vong rất đáng thương, được nhiều người cưu mang. Ông cũng không hề làm gì nguy hiểm vì chỉ viết sách, có đi biểu tình ở Hyde Park và diễn thuyết bằng tiếng Đức cho kiều dân Đức vì không giỏi tiếng Anh chứ không phải ‘khủng bố’. Sống mòn ở London Sang Anh năm 1849 vì bị đuổi khỏi Pháp và bị Đức coi là mối đe dọa, Marx sống trong cảnh nghèo khó như hàng nghìn hàng vạn trí thức nhập cư vào đảo quốc từ châu Âu. London luôn là nơi cởi mở hơn các thủ đô bên lục địa và đã từng đón người Pháp, Do Thái, Nga, Ba Lan, Trung Đông, chạy loạn qua nhiều thế kỷ nên có thêm một cây bút từ Đức cũng chẳng sao cả. Trên thực tế, tác phẩm quan trọng nhất về mặt cách mạng của ông là Tuyên ngôn Cộng sản thì đã ra mắt ở Brussels năm 1848 và Anh Quốc chỉ là nơi ông làm báo, soạn cuốn Das Kapital về kinh tế học. Tôi nghĩ cuộc sống khốn khó tại Anh hẳn đã có tác động đến cái nhìn phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản. Bảo tàng Anh Quốc từng có phòng đọc sách là nơi Marx đến nghiên cứu Khi sang Anh, Marx còn khá trẻ, mới chỉ ngoài 30 tuổi, nhà đông con lại có vợ quý tộc Đức, Jenny thuộc dòng von Westphalen, không biết lao động, buôn bán gì, cả hai không biết một câu tiếng Anh Bản thân ông lại làm một nghề ít tiền là viết báo (cho tờ New York Daily Tribune) nên cuộc sống ở Anh khổ tới mức trong bảy con thì chết bốn, chỉ có ba người sống đến tuổi thành niên. Một số nhà nghiên cứu còn tin rằng rạn nứt trong phong trào cánh tả châu Âu còn đến từ sự thù ghét của Marx với Ferdinand Lassalle (1825-1864), một lãnh tụ cách mạng Đức khi ông này sang London tiêu pha xả láng. Các tài liệu để lại cho thấy Marx đã phải viết thư xin vay Lassalle khoản tiền 30 bảng Anh vì thiếu tiền quá. Marx cũng viết cho bạn thân Friedrich Engels, phỉ báng Lassalle (sinh ở Breslau, nay là Wroclaw, Ba Lan) với lời lẽ phân biệt chủng tộc rằng ‘y hẳn phải là mọi đen’ dù ông kia cũng gốc Do Thái như Marx. Nhưng viết về Marx không thể không kể đến tình bạn tuyệt vời của Engels thì quả không được. Trong khi Marx sống trong túng quẫn triền miên ở London thì Engels, vốn được thừa kế nhà máy tại Manchester, trung tâm công nghiệp Anh khi đó, đã làm nghề ông chủ tư bản bóc lột công nhân. Không chỉ như vậy, Engels còn quan hệ cùng lúc với hai chị em Lizzy và Mary Burns theo một cuốn sách gần đây nêu lại. Nhưng Engels không quên ông bạn gốc từ Đức sang Anh cùng mình. Sau khi bán nhà máy ở Manchester được 12 nghìn bảng Anh (bằng tiền triệu hiện nay), ông giúp bạn chuyển từ địa chỉ khốn khổ ở mấy căn phòng thuê tại Dean Street, nơi ba con của Karl Marx và Jenny chết, sang căn nhà khác ở 36 Grafton Terrace. Có nguồn nói vợ chồng Marx rời khỏi Dean Street là nhờ tiền thừa kế mẹ Jenny để lại nhưng điều chắc chắn là Engels đã giúp họ nhiều về tài chính và còn đứng ra giúp in ấn các tác phẩm của Jenny viết bằng tiếng Đức về kịch Shakespeare và các sách của Marx. Tiền thuê nhà khi đó ở Grafton Terrace chỉ có 65 bảng Anh một năm và với gia đình Marx, đây là sự đổi đời. Họ có thể ra picnic ở các công viên vùng Bắc London và có nhà riêng để đón khách. Nhưng bản thân Engels mới thật sự là sống giàu. Biệt thự ở 122 Regent’s Park Road gần công viên lớn bậc nhất London, và tới nay vẫn cũng là khu của các dinh thự, đại sứ quán. Marx đã sống những ngày đen tối nhất ở khu Soho bên cạnh chỗ nay là Chinatown Điều thú vị và cũng là nghịch lý là Engels đã dùng tiền từ các thương vụ tư bản để bỏ tiền ra nghiên cứu phong trào công nhân. Và tuy phê phán cay nghiệt chủ nghĩa tư bản, Marx cũng cố gắng kiếm tiền bằng cách chơi cổ phiếu. Trong một lá thư gửi về Đức cho Lion Philips, ông vui mừng khoe đã ‘đầu cơ’ thành công trên thị trường chứng khoán và kiếm được 400 bảng Anh, một khoản khá to vào thời đó. Chết vô tổ quốc Cuộc đời Marx kết thúc tại số 44 Maitland Park Road, nơi vợ ông qua đời trước ông, vào ngày 2/12 năm 1881. Khi đó, Marx đã trải qua nhiều năm bị bệnh gan, bệnh phổi và yếu tới mức bác sỹ cấm ông không được đưa tang vợ vào ngày mùa đông lạnh giá. Lúc chết (14/3/1883), Karl Marx bị coi là ‘vô tổ quốc’. Thực ra, các biến động lớn ở đang diễn ra khắp nơi: Nga hoàng bị ám sát, đế quốc Ottoman bắt đầu rối loạn, Pháp đánh Việt Nam, Anh đưa quân đến Sudan, Đức chiếm thuộc địa ở châu Phi...nên không ai để ý đến một ông già di dân qua đời tại London. Trong đám tang chỉ có các con gái, hai con rể người Pháp, một số bạn bè là đảng viên cộng sản tham dự. Engels đọc lời điếu trang trọng, gọi Marx là “một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời đại”. Ông được chôn cạnh mộ của vợ và chỉ mãi về sau này hài cốt mới được đưa về chỗ hiện nay trong nghĩa địa Highgate . Friedrich Engels quyết định không cho xây tượng Marx. Marx và con gái trong một bộ phim về cuộc đời ông Nhưng trái với ý nguyện của người bạn thân nhất đời Karl Marx, Đảng Cộng sản Anh sau đã cho đặt bức tượng ông bằng đồng của Lawrence Bradshaw vào chỗ hiện nay năm 1956. Nhiều tượng khác của ông được xây trên khắp thế giới. Nhưng đó là chuyện về những người thích dựng tượng ông cho mục tiêu của họ mà tôi không tin họ hiểu được tâm trạng của ông lúc sống và lúc chết ở London. Ở Anh ngày nay, người ta coi ông là một triết gia mà các ý tưởng về tương lai bị biến hóa gây ra những hậu quả khủng khiếp nhưng Anh vẫn coi trọng sự phê phán của ông với kinh tế tư bản chủ nghĩa . Nói ngắn gọn thì ông sai hoàn toàn về chủ nghĩa cộng sản tuy vẫn có điểm đúng về chủ nghĩa tư bản. Nhưng tôi nghĩ chính cuộc đời ông tôi mới là bài học đáng nhớ nhất. Cái nôi của chủ nghĩa tư bản dù sao cũng đã bao dung ông, thậm chí còn cho dựng tượng tôn kính ông trong khi chính ông lại chẳng làm được gì cho chính mình và gia đình. Con gái sinh ra tại Anh của Karl và Jenny Marx là Eleanor (1855-1898) cũng là một ví dụ khác về cuộc đời sống vì lý tưởng nhưng kết thúc bất hạnh. Eleanor 'Tussy' Marx yêu đảng viên Marxist người Anh, Edward Aveling và sống với ông ta bằng một tình yêu cùng tình đồng chí. Khi phát hiện ra Aveling phản bội bà và bí mật cưới một nữ diễn viên, Eleanor đã tự sát chết bằng thuốc độc khi mới 43 tuổi . Tuy thế, đến năm 2014 vừa rồi Rachel Holmes ra sách về bà, ghi nhận tài năng và công lao của Eleanor Marx cho phong trào nữ quyền Anh. Một cây bút nữ khác, Mary Gabriel gần đây cũng ra sách về Jenny (Love and Capital: Karl and Jenny Marx and the Birth of a Revolution), viết rằng cuộc đời chìm nổi nhưng kiêu hãnh của bà đã có tác động lớn đến suy nghĩ của Marx về xã hội. Ân nhân, người bạn, người đồng chí của Marx là Engels sau đó cũng qua đời ở London và được đưa xuống một nhà thiêu ở Woking để hỏa táng. Một nhóm bạn, những di dân và cũng là những tên tuổi trong ‘làng trí thức cánh tả châu Âu’ gồm cả Eduard Bernstein và Karl Kautsky là những người cuối cùng đưa tiễn Engels. Họ đã đi tàu từ ga Waterloo tới Eastbourne, quận Sussex, chèo thuyền ra biển trải tro xuống nước, hướng về phía Đông là quê hương Engels ở lục địa châu Âu. Friedrich Engels và một tác phẩm nghệ thuật 'râu của ông' Karl Kautsky (sinh tại Prague, nay là CH Czech), một trí thức Marxist đứng đắn, sau đi vào sử sách của các nước cộng sản như 'tên phản bội ' vì Lenin đã dùng lời lẽ nanh nọc chửi rủa ông bởi vì ông nói đấu tranh nghị trường sẽ tốt cho công nhân hơn là nổi dậy. Phong trào cánh tả và cộng sản như thế ngay từ những thập niên đầu đã chia rẽ, hiềm khích nhau khủng khiếp, báo hiệu những bão tố chia rẽ, sát phạt và triệt hạ nhau bằng máu về sau này ở nhiều xứ sở. London là nơi ghi nhớ tất cả những chuyện vui buồn đó quanh cuộc đời Marx và gia đình, bạn bè của ông và một số chuyện về sau. Theo bbc.co.uk/vietnamese
......

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài. Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism). Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm. Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp. Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước. Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới. Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay. Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có. Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ. Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền. Theo voatiengviet.com
......

Nga Trung Cộng liên minh được hay không?

Ông Vladimir Putin đang dễ thở hơn mấy hôm nay, vì giá dầu thô trên thế giới đã tăng. Nhờ thế đồng tiền Nga ngưng xuống giá. Kể từ khi ông chiếm bán đảo Crimea của Ukraine, đồng rúp đã mất gần nửa (45%) giá trị so với đô la Mỹ; lao xuống nhanh nhất so với tiền 174 quốc gia khác. Kinh tế Nga sẽ suy thoái trong năm nay, và tỷ lệ lạm phát đã lên tới hơn 11%. Alexei Kudrin, cựu bộ trưởng tài chánh, một người của Putin hiện vẫn ngồi trong Ủy Ban Kinh Tế Phủ Tổng Thống, mới báo động Nga đang bước vào một cuộc “khủng hoảng toàn diện” nếu tiếp tục bị Mỹ và các nước Châu Âu cấm vận. Phó Thủ Tướng Igor Shuvalov cũng tiên đoán cuộc khủng hoảng lần này sẽ kéo dài hơn lần trước, năm 2008 khi kinh tế cả thế giới đều xuống. Ông Shuvalov cũng mới tuyên bố ở Davos, Thụy Sĩ rằng, “Khi bị nước ngoài làm áp lực, dân Nga chúng tôi không bao giờ bỏ rơi lãnh tụ! Không bao giờ! Chúng tôi sẽ chịu đựng mọi khó khăn, sẽ bớt ăn, sẽ dùng bớt điện!” Ðây là một “chính sách kinh tế” bát chước lối Việt Cộng ngày xưa! Ngay sau đó, người ta thấy trên các trang mạng ở Nga trưng ra hình ảnh những biệt thự huy hoàng của ông Shuvalov ở Moskba, ở London bên Anh và ở nước Áo. Chính ông Shuvalov sẽ không phải nhịn ăn, không phải bớt dùng điện. Trong khi đó, ông Putin không thể lùi bước ở Ukraine. Ông đã kích thích tự ái dân tộc, đổ hết tội cho Mỹ, nên vẫn được 85% dân Nga ủng hộ. Ðằng nào dân cũng phải bớt ăn, nhưng trong lòng họ được an ủi là nước Nga của họ lại lên hàng cường quốc, dám đối đầu với Mỹ. Nếu Putin nhượng bộ ở Ukraine, dân chúng sẽ tự hỏi tại sao họ phải bớt ăn, bớt mặc! Putin đang cưỡi trên lưng cọp, không biết làm sao xuống, đành cứ thế hô hào, “Tiến lên, ta cứ tiến lên hàng đầu! Hàng đầu rồi tiến đi đâu?” Cho nên, ông Putin muốn cho dân Nga thấy một tia sáng lóe ở cuối đường hầm: Liên minh với Cộng Sản Trung Quốc. Dân Nga có thể nuôi hy vọng vào nước cờ mới này. Nước Nga có thể quay mặt với thế giới tư bản, bỏ khối người da trắng, đi đôi với dân da vàng. Vì Nga và Trung Cộng đã từng là đồng minh, khi hai nước Cộng Sản lớn nhất cùng đối đầu với kinh tế tư bản! Ðây cũng là giấc mộng của các ông Nguyễn Văn Linh và Lê Khả Phiêu ở Việt Nam một thời. Hai ông tổng bí thư từng sang Trung Quốc cầu xin tái lập một “khối xã hội chủ nghĩa.” Bây giờ Nga vẫn còn “hơi hơi xã hội chủ nghĩa;” vì nhà nước vẫn tập trung quyền chỉ huy kinh tế. Trong thực tế cả Nga và Trung Cộng đều theo con đường “tư bản quả đầu,” nhà nước bảo trợ các nhà tư bản tay chân, dựa dẫm vào nhau hai bên cùng có lợi. Liệu ông Putin có thể liên kết với Trung Cộng hay không? Liên minh Nga Trung Cộng trong thế kỷ 20 chỉ là một ảo tưởng, đối với những người đứng ngoài, kể cả các chính phủ Mỹ. Từ năm 1949 cho tới 1968 giới lãnh đạo Mỹ vẫn tính toán chiến lược toàn cầu dựa trên một giả thiết, là Nga và Trung Cộng liên kết làm một khối thuần nhất. Với giả thiết đó, Mỹ đã hành động theo lý thuyết Domino: Tìm cách ngăn chặn bước tiến của khối Nga-Hoa trong vùng Ðông Nam Á, mà quân domino dễ bị đổ nhất là Việt Nam. Nhưng thực ra Nga và Trung Cộng chỉ liên minh được với nhau trong vòng mươi năm. Khi thấy Mao Trạch Ðông có ý đóng vai lãnh tụ của đám đàn em các đảng cộng sản Á Châu, Phi Châu; Stalin đã lập tức chấm dứt viện trợ và rút các cố vấn kinh tế, kỹ thuật về. Khi Tổng Thống Mỹ Nixon nhìn thấy vết rạn nứt rõ rệt trước cảnh quân Nga và quân Tàu bắn nhau ở Hắc Long Giang, ông ta đã bắt tay Mao Trạch Ðông. Mỹ lợi dụng Trung Cộng, Trung Cộng cũng lợi dụng Mỹ, cả hai cùng muốn kiềm chế Nga. Mối liên kết Mỹ-Trung Cộng chấm dứt năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ. Trong “trật tự thế giới mới” này, Trung Cộng tìm lại gặp Nga để tạo thế thăng bằng mới. Năm 1992, hai nước tuyên bố bắt đầu một cuộc “hợp tác xây dựng” (constructive partnership). Năm 2001, khi ông Putin đã làm tổng thống Nga, việc hợp tác được đẩy lên cao hơn, hai bên ký một “Hiệp ước Hữu nghị và Cộng tác” (friendship and cooperation). Cả Nga và Trung Cộng đã xây dựng những liên minh mới để tạo thêm vây cánh. Họ họp lại với Brazil, Ấn Ðộ, sau thêm Nam Phi, lập thành khối BRICS. Nga và Trung Cộng liên kết qua “Tổ chức Hợp tác Thượng Hải” (Shanghai Cooperation Organization), gồm cả các nước Trung Á nằm giữa Nga và Tàu, là Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Nga với Tàu còn họp thường xuyên với Diễn đàn Kinh tế các nước Á Ðông và với các nước ASEAN. Khi Putin bị Âu Mỹ cấm vận vì tấn công Ukraine, ông đã bay sang Bắc Kinh kết nghĩa Vườn Ðào thêm chặt chẽ. Tháng Năm năm 2014, Nga công bố sẽ bán cho Trung Cộng 38 tỷ mét khối hơi đốt, trong 3 năm kể từ năm 2019, với giá định sẵn, qua một ống dẫn dài 2,500 dậm (hơn 4,000 cây số). Ống dẫn dầu khí đi qua Hắc Long Giang, thuộc vùng biên giới Ðông Bắc nước Tàu, nơi quân hai nước đã chạm súng năm 1969. Sáu tháng sau, Nga lại thỏa thuận sẽ cung cấp một số lượng tương đương cho vùng Tân Cương, phía Tây Bắc Trung Quốc. Trong cuộc trao đổi này Trung Cộng đã chiếm thế thượng phong; không khác gì cuộc giao thương giữa Trung Cộng với Việt Nam, hay giữa một nước lớn với chư hầu. Nga cung cấp nguyên liệu cho Trung Quốc trong khi nhập cảng hàng chế hóa từ Trung Quốc bán sang; đóng vai một nước thuộc địa nghèo. Bán dầu, khí cho Trung Cộng để bù lại tình trạng bị cấm vận, Nga cũng sẽ bị mất thị trường Châu Âu, mất luôn mối giao hảo với các công ty năng lượng Âu Mỹ nhờ đó đã được cung cấp những kỹ thuật tân tiến. Thiếu các kỹ thuật khai thác mới nhất, việc khai thác dầu khí ở vùng địa cực của Nga sẽ bị chậm lại mấy chục năm. Dân Nga sẽ dần dần nhìn ra việc Putin liên kết với Trung Cộng là bất lợi, là biến nước Nga thành một cây xăng của Trung Cộng, trong khi đáng lẽ họ phải là một cường quốc về năng lượng. Chưa kể mối nguy vùng giao dịch ở biên giới sẽ bị tràn ngập với “họa da vàng.” Ở phía Ðông vùng Siberia, chỉ có sáu triệu dân Nga sinh sống, bên kia biên giới là 120 triệu người dân Trung Quốc! Lịch sử nước Nga bắt đầu sau khi những đạo quân của Batu Khan và Subutai, con cháu Thành Cát Tư Hãn, tràn qua sông Volga rồi tiến chiếm Vladimir và Moskba, vào thế kỷ thứ 14. Cứ coi cách người Nga đối xử với di dân gốc Việt và gốc Trung Hoa, ngay từ thời còn Cộng Sản, thì biết họ nghĩ gì về giống da vàng. Trong khi đó, Nga và Trung Cộng vẫn giành giựt ảnh hưởng trên các nước Trung Á, mà Nga đang tìm cách thu lại vào trong vòng ảnh hưởng chặt chẽ hơn. Chín năm sau khi lên cầm quyền, Vladimir Putin đã công bố một chủ thuyết quân sự mới: Nước Nga giành quyền dùng vũ khí nguyên tử trước, dù không bị tấn công bằng vũ khí loại này. Quyền sử dụng trước vũ khí hạt nhân (right to first use of nuclear weapons) chỉ được nêu ra nếu một quốc gia biết lực lượng qui ước của mình có thể bị bên địch tràn ngập. Putin nhắm vào quốc gia nào khi đưa ra chủ thuyết này? Chúng ta có thể biết chắc đó là Trung Cộng. Về phía Trung Cộng, họ sẽ được lợi gì nếu liên kết với ông Putin? Chỉ có một mối lợi “tinh thần” rất nhỏ, thứ lợi lộc không thể đem nấu cháo ăn được. Ðó là chứng tỏ Bắc Kinh độc lập với Mỹ. Nhưng Trung Cộng không thể trông cậy vào Nga. Giới lãnh đạo Bắc Kinh biết rằng sự phát triển của nước họ từ hơn 30 năm nay là nhờ được tiếp cận với thị trường nước Mỹ, nhờ vốn tư bản cùng kỹ thuật sản xuất và tiếp thị do Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cung cấp. Kinh tế Nga đang sa lầy, không phải chỉ vì bị cấm vận mà lý do chính là vì ông Putin dốt nát về kinh tế. Với một quốc gia đông gần 150 triệu người, trong đó bao nhiêu người tài trí, với tài nguyên thiên nhiên giàu có, đáng lẽ kinh tế Nga không thể chậm lụt như hiện nay. Nhưng ông Putin đã không chấp nhận cải tổ cơ cấu nền kinh tế do thời Cộng Sản để lại, làm phí phạm tất cả những tài nguyên, người cũng như của cải. Cho nên, chỉ những người quá ngây thơ mới tin rằng ông Putin có thể liên minh với Trung Cộng để chống lại các nước Âu Mỹ. Giá dầu lửa nhích lên được mấy đô la một thùng có thể cho ông Putin nhận được học một bài về kinh tế: Luật cung cầu. Giá dầu lên sau khi các công ty như Exxon (Mỹ), Shell (Anh), Total (Pháp), và ngày hôm qua là BP (Anh) tuyên bố giảm bớt việc khai thác dầu khí trong mấy năm tới, mỗi công ty cắt số đầu tư khoảng 4, 5 tỷ đô la. Họ cắt đầu tư vì tiên đoán giá dầu sẽ còn thấp trong tương lai khá lâu, khai thác không có lợi. Khi họ giảm bớt đầu tư, tự nhiên cả thế giới cũng nhìn ra là trong tương lai số cung dầu lửa không tăng như trước nữa trong khi số cầu có thể tăng. Có nghĩa là giá dầu đã “chạm đáy.” Nhưng trong khi Mỹ và các nước OPEC còn tiếp tục hút dầu lên để giữ thị trường cho mình, dù lợi thấp hơn thì giá dầu sẽ khó lên cao nữa. Ông Putin có thể suy nghĩ về bài học kinh tế đó trong khi có vài ngày dễ thở. Nguồn: nguoi-viet.com
......

85 năm ngày thành lập đảng CSVN. Họ đã làm gì? Hậu quả?

......

Diễn giải lếu láo trắng trợn

Cùng một số liệu, hai cách diễn giải (TP.HCM lọt top 50 thành phố an toàn nhất?) Đúng là chuyện xấu thành tốt! TP Hồ Chí Minh được/bị Tạp chí The Economist xếp vào nhóm các thành phố kém an toàn nhất trên thế giới. Ấy thế mà ít nhất 2 tờ báo Việt Nam, phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt, lại giật cái tít rằng TP HCM lọt vào danh sách các thành phố an toàn nhất thế giới. Chuyện khó tin nhưng hoàn toàn có thật, và trên giấy trắng mực đen! Báo Tuổi Trẻ phiên bản tiếng Anh chạy cái tít hấp dẫn rằng TP Hồ Chí Minh là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới: "Ho Chi Minh City among world's safest: British magazine" (1). Còn báo trực tuyến Khám Phá thì chạy cái tít tiếng Việt có nghĩa tương tự "TP.HCM lọt top 50 thành phố du lịch an toàn nhất 2015" (2). Báo Dân Trí cũng viết " thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam được đánh khá cao trên nhiều chỉ số an toàn và trở thành một trong những điểm đến an toàn nhất trong năm 2015" (3). Tất cả các báo này đều không cho đường link mà chỉ nói nguồn chung chung là từ "The Economist Intelligence Unit ".   Thế nhưng trong thực tế thì không phải như thế. Lần dò theo The Economist Intelligence Unit, tôi có thể truy cập vào nguồn thông tin trên tạp chí The Economist (4). Đó là một báo cáo phân tích và xếp hạng có tên là "Safe Cities Index 2015". Cách họ xếp hạng mức độ an toàn của 50 thành phố trên thế giới, trong đó có TP Hồ Chí Minh. Cách họ đánh giá an toàn là dựa vào 40 chỉ số mang tính định lượng và định tính, và 40 chỉ số này giảm thành 4 nhóm: ·       an toàn về mạng internet và viễn thông: chỉ số này đo lường an toàn mạng, và tần số bị đánh cắp nhân dạng trên mạng (identity theft); ·       an toàn sức khoẻ: tỉ số giường bệnh trên dân số và tuổi thọ trung bình; ·       an toàn cơ sở vật chất: phẩm chất đường xá, số ca tử vong vì tai nạn, v.v.;   ·       an toàn cá nhân: mức độ tội phạm, hành động phi pháp, sự hiện diện của cảnh sát, v.v. Dựa vào 4 nhóm chỉ số trên, TPHCM được xếp hạng 48/50, tức áp chót về mức độ an toàn. Nói cách khác, TPHCM được đánh giá là một trong 5 thành phố bất an nhất hay nguy hiểm nhất trong số 50 thành phố trên thế giới được đánh giá. Đội sổ danh sách là Jakarta (Nam Dương), và trên Jakarta là Tehran (Iran), hạng 49. Trên Tehran là TPHCM, Johannesburg, Riyadh, Mexico, Mumbai, Moscow. Thành phố được đánh giá là an toàn nhất thế giới là Tokyo, với điểm 85.63 trên 100. Theo sau Tokyo là 9 thành phố khác phần lớn là từ các nước tiên tiến: Singapore, Osaka, Stockholm, Amsterdam, Sydney, Zurich, Toronto, Melbourne, New York. TPHCM bị đánh giá là 1 trong 5 thành phố thiếu an toàn nhất thế giới do yếu tố nào? Nhìn qua bảng phân tích (5) thì TPHCM đứng chót bảng (50/50) về an toàn cơ sở vật chất, và hạng 48/50 về an toàn sức khoẻ. Tuy nhiên, về an toàn mạng và viễn thông, TPHCM đứng hạng 42/50, tức vẫn nằm trong nhóm 10 thành phố thiếu an toàn nhất. Tuy nhiên, về thứ hạng an toàn cá nhân thì TPHCM đứng hạng 34/50, dù là dưới trung bình, nhưng vẫn cao hơn Moscow, Jakarta, Tehran, Rome, Riyadh, Bắc Kinh, Quảng Đông. Báo Tuổi Trẻ cũng có bài cho biết chỉ trong tháng 1/2015, có đến 2171 tai nạn giao thông gây tử vong cho 781 người và thương tích cho 2047 người (6). Tính trung bình, nói theo một chuyên gia về an toàn giao thông, mỗi ngày có 26 người lên xe đi đường và không về nhà. Nhìn qua giao thông và nạn trộm cướp, cộng với 19 ngàn người nghiện ma tuý ở TPHCM, mà vẫn còn đứng hạng 34/50 làm tôi ngạc nhiên. Nói tóm lại, cùng một số liệu, mà 2 cách diễn giải khác nhau. Được xếp hạng 48/50 về an toàn, vậy mà vài tờ báo ở VN lại giật cái tít là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới, nhưng trong thực tế TPHCM là một trong 5 thành phố kém an toàn nhất thế giới. Bài học ở đây là bất cứ một bản tin nào quá tốt trên hệ thống truyền thông VN thì người tiếp nhận cần phải kiểm tra vì thực tế có thể ngược lại những gì được tuyên truyền. ===== (1) http://tuoitrenews.vn/lifestyle/25770/ho-chi-minh-city-among-worlds-safe... (2) http://khampha.vn/tin-nhanh/tphcm-lot-top-50-thanh-pho-du-lich-an-toan-n... (3) http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/tp-hcm-la-mot-trong-nhung-diem-den-a... (4) http://safecities.economist.com/whitepapers/safe-cities-index-white-paper/ (5) http://safecities.economist.com/wp-content/uploads/2015/01/EIU_Safe_Citi... (6) http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150131/3000-nguoi-di-bo-vi-an-t... Nguồn: tuanvannguyen.blogspot.com.au
......

Sứ Mệnh Lịch Sử Là Cái Gì?

“Sứ mệnh lịch sử đầu tiên và sau cùng là đầu độc lịch sử” (ĐTL). Còn ở khoảng giữa, đó là hàng tá nỗ lực đầu độc toàn phương vị: Sứ Mệnh Đầu độc Xã hội: Bằng giấc mơ chủ nghĩa cộng sản; bằng chính cái “sứ mệnh lịch sử” đang nói tới này; bằng điều 4 hiến pháp; bằng phương thức mất dạy nâng khống mối quan hệ đảng-dân thành tương quan cha mẹ-con cái; bằng tập quán “ơn đảng-ơn chính phủ”; bằng nỗ lực bình thường hoá hành vi ăn cắp; bằng chủ nghĩa makeno; bằng quán tính “đã có đảng lo”; bằng quy trình sản xuất dân oan khắp nước.   Sứ Mệnh Đầu độc Kinh tế: Bằng kinh tế tập trung/hợp tác xã/hệ tem phiếu… biến tướng thành đổi tiền/tận diệt tư thương/kinh tế mới/ngăn sông cấm chợ; bằng cái đuôi định hướng với các tập đoàn kinh tế quả đấm bùn nhằm vơ vét và huỷ diệt tài nguyên đất nước; bằng độc quyền kinh tế/dự án/xuất nhập khẩu; bằng chính sách hoá giá biệt thự; bằng quyền ban phát ưu tiên đấu thầu; bằng liên minh ảo thuật giữa các nhóm lợi ích; bằng Cty ma; bằng các hệ rửa tiền; bằng quy trình kinh tế gia tộc; bằng các đế chế ngân hàng; bằng kế toán/kiểm toán tuỳ nghi; bằng ngoại hối của kiều bào; bằng chính sách quy hoạch/cưỡng chế đất đai; bằng mánh khoé thương mãi đầu cơ của TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Dân tộc: Bằng phân chia giai cấp; bằng cải cách ruộng đất; bằng khẩu hiệu “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”; bằng khả năng đấu tố trong gia đình; bằng tuyên truyền gây chiến, tạo hận thù hai miền; bằng tù cải tạo; bằng biện pháp truy đuổi người Việt; bằng cách thâu tiền bán bãi vượt biên; bằng cách sửa hiến pháp/sửa sách sử cho phù hợp với ý thích giai đoạn của kẻ thù; bằng chà đạp nhân quyền; bằng sự sợ hãi; bằng nỗ lực triệt tiêu tính-tình người; bằng tập quán hối lộ cho được việc; bằng cả đồ dùng và thức ăn độc hại nhập từ TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Tuổi trẻ: Bằng danh hiệu Thiếu niên Tiền Phong; bằng hoạt động Thanh niên Xung Phong; bằng thi đua tải đạn/tải lương/tải thương; bằng hình xâm “sinh bắc tử nam”; bằng nghĩa vụ quân sự; bằng “Nghĩa vụ Quốc tế”; bằng đơn xin nhập ngũ viết bằng máu; bằng những bài tụng ca các cuộc chia ly màu đỏ; bằng nạng gỗ khua rổ mặt đường làng; bằng giấy báo tử bay đầy mái rạ; bằng các cuộc vui thuỷ lợi xa nhà; bằng đua xe cổ vũ bóng đá; bằng sao Hàn…. Sứ Mệnh Đầu độc Văn hoá: Bằng chủ nghĩa thần tượng; bằng tự thân ca tụng chính mình; bằng bệ thờ “cha già dân tộc”; bằng phương pháp tạo hiệu ứng bưng bô; bằng phương pháp dựng án “Nhân văn-Giai phẩm”; bằng các trại sáng tác; bằng các ống đu đủ thần đồng; bằng tấm thẻ hội nhà văn; bằng giấy khen nghệ danh ưu tú hay nhân dân; bằng phong trào khoe nhau chữ “nhẫn”; bằng những khẩu hiệu/bài nhạc Sáng mắt sáng lòng/Đảng là cuộc sống; bằng những bài thơ ca tụng Stalin và khuyến khích giết người; bằng phim bộ TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Ngoại giao: Bằng chiến dịch tận diệt “xét lại-chống đảng”; bằng công hàm chính thức; bằng hạ tầng công tác bộ trưởng ngoại giao; bằng thanh trừng UV/BCT; bằng quan niệm ơn nghĩa “quyết không hai lòng”; bằng hội nghị Thành Đô; bằng triều cống đất/thác/ải/biển/đảo; bằng quy trình thường xuyên khấu kiến; bằng phương pháp đu dây; bằng tráo trở bạn-thù; bằng chủ trương mạt sát đối phương ngay khi cầu viện; bằng biện pháp tránh né gọi tàu giặc là tàu lạ; bằng gửi gạo cứu đói Cuba & Triều Tiên trong lúc nông dân VN khốn đốn. Sứ Mệnh Đầu độc Hành chính: Bằng chủ nghĩa xin-cho/chạy chức; bằng con dấu mộc đỏ; bằng chính sách hộ khẩu; bằng phương pháp hình thành/nuôi dưỡng/khuếch trương tham nhũng; bằng thi đua nâng cấp công sở/xe công; bằng giá biểu chức vụ các cấp; bằng tập quán chạy vốn mua chức kiếm lời; bằng hệ thanh tra nhiều tầng; bằng nhiều năm lương hưu của người chết; bằng xà xẻo tiền quà cứu trợ. Sứ Mệnh Đầu độc Dư luận: Bằng hệ tuyên giáo; bằng bộ 4T; bằng thông tin một chiều/bưng bít sự thật/đốt sách/giam người; bằng tập quán tự kiểm duyệt; bằng lệnh gỡ bài trên mạng; bằng cách đỗ lỗi cho thuộc cấp; bằng cách đổ tội cho nhân dân; bằng biện pháp thường trực trỏ ngón vào “thế lực thù địch”; bằng màn sắt/tường lửa; bằng trộm cắp/cướp giật trương mục FB/email của dân; bằng tuyên bố quản lý thông tin mạng; bằng cách diễn tuồng bỏ/lấy “phiếu tín nhiệm”; bằng đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến; bằng giam cầm blogger/Fbker; bằng thi đua đấu đá trên mạng “quan làm báo”/“CDQL”. Sứ Mệnh Đầu độc Giáo dục: Bằng chủ nghĩa ngu dân; bằng phương pháp từ chương chép/thuộc; bằng hệ thống nhồi sọ; bằng thi đua dối trá; bằng nâng khống thành tích; bằng môn học chính trị; bằng đại học lý luận; bằng hệ phong cấp hàm GS/TS; bằng khe hở tuyển sinh; bằng lò luyện thi; bằng cơ hội du học; bằng giá biểu học bổng; bằng dịch vụ bán đề/bán bằng/bán ghế; bằng hệ đảng uỷ trong trường; bằng dàn hiệu trưởng ma-cô Sầm Đức Xương; bằng sách giáo khoa khuyến khích lừa đảo và gian ác. Sứ Mệnh Đầu độc Tư pháp: Bằng cơ chế đảng uỷ; bằng chủ nghĩa chỉ đạo ra án và phương thức chạy án; bằng tuyên bố “tao là đảng/tao là luật”; bằng biện pháp kỷ luật kiểm điểm/cảnh cáo cán bộ ăn cắp/thụt két/xà xẻo công quỹ; bằng nghị định 31/CP bắt giam không cần truy tố; bằng các điều luật hình sự mơ hồ và đầy tính áp đặt 79/88/258…; bằng phương pháp trả thù người tố cáo tham nhũng. Sứ Mệnh Đầu độc Quân đội: Bằng hệ thống đảng uỷ trong quân đội; bằng lòng trung với quan thầy của đảng; bằng ém nhẹm các đoạn sử Gạc Ma/Cao Bằng/Lạng Sơn; bằng tính kiêu ngạo cộng sản từ thời Quốc Tế III; bằng chỗ dựa vào đàn anh XHCN; bằng kinh tế sân golf hay Viettel ngày nay; bằng tổng cty 319; bằng xây dựng resort Hải Vân; bằng thế chấp rừng đầu nguồn; bằng bao che cho giặc cắt cáp/cướp tàu/bắt ngư dân ta đòi tiền chuộc; bằng kê khống giá biểu vũ khí rác nhập khẩu; bằng tuyên bố thành lập lực lượng ngư dân tự vệ biển; bằng sân bia kẻ thù ảo có tên là “thế lực thù địch”. Sứ Mệnh Đầu độc công an: Bằng khẩu hiệu còn đảng còn mình; bằng kỹ thuật mớm cung/ép cung/ép nhận tội/gây án oan; bằng kết luận nghi can tự tử ở đồn thẩm vấn; bằng biện pháp cưa đá giải tán biểu tình tuần hành; bằng bình xịt hơi cay ở sân nhà thờ; bằng phương pháp tạm giam ở trại phục hồi nhân phẩm; bằng bạo lực đạp mặt/giật cánh/xiết cổ/quặt tay người yêu nước biểu tình phản đối vụ Tam Sa hay dàn khoan 981; bằng ngón nghề bắt cóc/giả dạng côn đồ/tạt mắm tôm, dầu nhớt, chất thải. * Chẳng cần Bắc thuộc hoặc Tây xâm. Chỉ cần dưới hàng tá nỗ lực đầu độc vừa kể, trong suốt 85 năm qua, Việt Nam yêu dấu của chúng ta cũng đã tự động biến thành một ốc đảo của yếu kém và hèn mọn. Bốn “thành quả” lớn nhất của 85 năm CS ở VN là: Tổ quốc bất toàn – Đất nước tụt hậu – Xã hội vô cảm – Nhân tính thui chột. Cho dù đảng CSVN có hô hào đổi mới đến đâu, hoặc cho dù nó thay đổi thành tổng thống chế XHCN, hai bức tranh tương lai của đất nước mình là VN có cơ biến thành: 1.                  Một khu tự trị của TQ, như Tân Cương/Tây Tạng; 2.                  Một xứ sở độc tài biến dạng, như Nga. Bạn có chấp nhận cái chế độ ác trong hèn ngoài này trường tồn không? Giải pháp duy nhất để tránh khỏi hai hiểm hoạ ngày càng rõ nét đó, không gì khác hơn là ra sức vận động cho một sinh hoạt xã hội công dân đa nguyên đa đảng, chấm dứt vĩnh viễn các thứ sứ mệnh lịch sử viển vông quái ác đó, chấm dứt vĩnh viễn chế độ phi nhân này ở tuổi 85, bắt đầu bằng một phòng trào TOÀN DÂN VÀO CUỘC. Bạn có còn là người dân Việt Nam không? Bạn có còn là người yêu Việt Nam không? 02/02/2015 – Một ngày đầu mùa Tống Đảng Nghinh Xuân.Blogger Đinh Tấn Lực
......

Ai thấu cho lòng Tý?

Nhân ngày 3/2 kỷ niệm thành lập đảng CSVN, mời quí bạn đọc vừa nghe diễn văn của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa đọc lại bài "Ai thấu cho lòng Tý" của tác giả Phạm Nhật Bình. - - - Thật đúng nay là cái thời chẳng còn tôn ti, phép tắc gì cả! Ai đời ông Tổng bí thư đảng CSVN vừa tuyên bố một câu, chưa kịp đóng miệng, đã có hàng hàng lớp lớp những câu phân tích, mắng chửi thậm tệ từ khắp các ngõ ngách trên mạng. Đó là câu ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố trong một cuộc gặp gỡ cử tri tại Hà nội: “Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi“. Thật ra thì cũng khó trách dân cư mạng vì không một ai, kể cả Ban Tuyên Giáo Trung Ương, có thể giải thích được "thắng" ở chỗ nào. Ai nấy chỉ thấy trong tâm can mối nhục quốc thể: quân xâm lược ngang nhiên kéo vào tận thềm lục địa Việt Nam lúc chúng cần và thản nhiên kéo đi lúc chúng muốn. Rồi đại diện Bộ Chính Trị đảng CSVN sang tận đất Tàu chỉ để xin "khai thác chung" phần biển bao đời của cha ông Việt Nam. Nhiều người đã phải văng tục khi nghe câu nói của ông Trọng. Bực điên người vì câu nói thiếu não của ông Trọng đã đành nhưng ngạc nhiên thì chắc chẳng còn ai. Người ta hầu như đã quen với những phát biểu "làm ngẩn người" của vị cựu Trưởng ban Lý luận Trung ương, cựu Tổng Biên Tập Tạp chí Cộng sản, và nay Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng CSVN. Thật vậy, bà con ta quen đến độ lâu lâu không thấy báo chí đăng các phát biểu của ông Trọng người ta lại nhớ. Rõ ràng từ khi tuyên bố câu "tham nhũng như ngứa ghẻ", tức đã lan tràn khắp thân thể Đảng, ông Trọng đã "bỏ rơi" quần chúng khá lâu. Ngay cả trong chuyến đi Nam Hàn cũng không nghe báo chí thuật lại câu gì đáng kể. Có lẽ vì thế mà câu nói "đập chuột" của ông gần đây mới quí làm sao. Bao người lại có dịp kích ngất! Hôm đó, trong một cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội - lại cử tri Hà Nội. Dân Hà Nội quả là có phước vì luôn được nghe trước cả nước - khi đề cập đến vấn đề chống tham nhũng ngày càng khó và trong vai trò Trưởng Ban Chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng, ông Nguyễn Phú Trọng nói: “Chống tham nhũng thì phải như đánh chuột, đừng để vỡ bình!”. Hiển nhiên, ai cũng biết ông đang dùng câu ngạn ngữ Trung Hoa "Đánh chuột coi chừng vỡ bình quí". Nhưng điều làm người ta suy nghĩ là: ông Trọng đang ví ai là chuột? và ai là bình quí? Về chuột, không nhắc tới tên, người ta cũng biết con chuột lớn nhất mà ông Trọng đang muốn nhắm tới là ai. Chính ông Trọng đã tức tới độ nghẹn ngào ở cuối Hội Nghị 6 khi thừa nhận Trung ương của ông Nguyễn Tấn Dũng đã trói tay Bộ Chính Trị của ông Trọng trong việc đập "đồng chí X". Sau khi lãnh đạo các tập đoàn kinh tế và tổng công ty do Thủ tướng Dũng lập ra, chia riêng với nhau các núi tiền (mà các phe còn lại, kể cả mạng lưới của ông Trọng, không sơ múi được gì), họ để lại các xác chết công ty với khối nợ lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng, một con số đang làm gẫy lưng nền kinh tế èo uột của Việt Nam. Ông Trọng lại càng giận khi ông Dũng bắt đầu cho bộ hạ (hay hạ bộ cũng không sai) lên tiếng đề nghị khắp nơi rằng cái núi nợ từ các tập đoàn kinh tế đó là trách nhiệm của nhân dân và nhân dân phải tự gom góp tiền mà trả. Một trong những bộ hạ đó là Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý. Ông Lý tuyên bố ngay tại sàn Quốc hội: “Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu. Chúng ta có học tập được không?” Và hiển nhiên bên dưới vua chuột X là cả một hệ thống nhà chuột ngổn ngang, đan chéo quan hệ trên cả nước. Đó là chưa kể các họ chuột khác bên dưới từng ủy viên Bộ Chính Trị, từng bí thư tỉnh ủy. Số chuột nhiều đến độ ông Trọng bảo phải có những "suy nghĩ chiến lược" cho cả một "chiến lược đánh chuột" ở tầm vóc quốc gia. Nhưng người ta chưa kịp nghe cụ thể chiến lược đó là gì thì cũng lại chính ông Trọng tự chận tay mình lại với ý niệm "bình quí". Bình quí của ông Trọng là gì hay là ai?     Nếu bình quí đó là những lãnh tụ đảng cộng sản chân chính (hiển nhiên ... như tác giả câu nói đó) thì trước hết, các lãnh đạo "trong sạch" ấy có dám cho toàn dân biết con số và nguồn gốc khối tài sản gia đình họ đang cất giấu hiện nay không? hay vẫn chỉ giở trò nham nhở "phát hiện 1 trường hợp khai gian trong số gần 1 triệu cán bộ kê khai tài sản"?     Và ngay cả nếu thực sự có các lãnh tụ chân chính đó nhưng họ cứ nhất định chỉ đứng làm kiểng, vô tri vô giác, để mặc cho bầy chuột tha hồ cắn phá và phóng uế khắp nhà, khắp bàn thờ, thì các bình đó "quí" đối với ai?     Rõ ràng mọi cái bình hiện nay đều bị dính đầy mùi chuột, phân chuột, và lông chuột. Phải chăng đã tới lúc cần ném những cái bình vừa vô dụng vừa quá dơ dáy đó vào thùng rác?     Cũng có thể ông Trọng đang nói mỗi bình quí là một vai trò, chức năng, vị trí lãnh đạo của Đảng, và không thể vì có con chuột đang sống trong đó mà xóa luôn vị trí đó. Có lẽ đây là hình ảnh gần hơn với thực tế tại Việt Nam: chỉ có những con chuột sống trong bình lớn, bình nhỏ mới tròn trĩnh - chỉ có những đảng viên đang nắm chức lớn, chức nhỏ mới khấm khá. Các con chuột ở ngoài bình đều gầy guộc và luôn tìm mọi cách chui cho được vào một bình nào đó.     Chính vì vậy mà có thể nói chắc rằng tất cả mọi bình hiện nay trên đất nước Việt Nam đều có một hoặc nhiều chuột đang sống trong đó. Bình "quí" nhất là loại bình ủy viên Bộ Chính Trị, rất kiên cố và nhiều tiện nghi bên trong. Kế đến là các loại bình "made by thủ tướng", rồi loại bình tỉnh ủy, loại bình chánh án, bình công an, ... dài xuống cả loại bình giám đốc nhà thương, chủ nhiệm nhà trường.     Nhưng cái bình cực quí hiện nay, và càng gần Đại Hội Đảng XII càng tăng giá trị, là cái bình Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN.     Đến đây thì mọi người đều hiểu tại sao ông Trọng có vẻ hốt hoảng, cản ngay mọi ý định đập chuột ... trong bình.     Nhưng có người lại cho rằng ông Trọng muốn nói đến cái bình chung của mọi đảng viên đang có chức quyền, tức cái bình chuyên chính vô sản mà toàn bộ các quan chức đang bám vào để sống khoẻ, sống bền. Nói cách khác, cái bình duy nhất đó trên đất nước Việt Nam đang chứa tất cả họ nhà chuột. Nếu bình này bị mẻ tất cả sẽ bị gió lạnh và nếu bình bị vỡ thì tất cả đều sẽ phải xuống ... sống như dân thường.     Chính vì vậy mà ông Trọng rất nhất quán trong nhiều năm qua, luôn cố gắng thuyết phục hàng ngũ đảng viên: Nào là "nếu kỷ luật sẽ làm mích lòng"; rồi lại "kỷ luật sẽ làm mất đoàn kết"; rồi còn hăm dọa "diệt hết tham nhũng thì còn ai làm việc"; và khuyến khích mọi người nên xem nhẹ "tham nhũng như ngứa ghẻ", nghĩa là sống với tham nhũng cũng chẳng chết ai.     Hóa ra câu ví von của ông Trọng cũng là lời hứa ngầm: sẽ không đụng đến con chuột nào cả vì sinh mạng và quyền lợi chung. Đến nay, sau mấy thập niên với đủ loại chiến dịch đánh tham nhũng của Thủ tướng, của Bộ Chính Trị, của Ban Nội Chính, Ban Chỉ Đạo Phòng Chống Tham Nhũng Trung Ương, và đủ loại bộ phận khác, người dân biết chắc một điều: chuột chỉ có thể cắn xé nhau chứ chuột không thể đập chuột, và lại càng không thể đập trong cái bình chung của chúng. Mùi nồng nặc từ chiếc bình đang xông ra cả nước và càng lúc càng nặng mùi khi gần đến Đại Hội Đảng XII. Không chỉ mùi phóng uế mà còn cả mùi chuột chết bên trong.
......

24 Tổ chức XHDS trong ngoài nước Báo cáo vi phạm nhân quyền 2014

Việt Nam, ngày 30 tháng 1 năm 2015 Kính gửi: -       Hội Đồng Nhân quyền LHQ -       Ông David Kaye, Báo cáo viên LHQ về Tự do Ý kiến và Ngôn luận -       Ông Heiner Bielefeldt – Báo cáo viên LHQ về Tự do Tôn giáo -       Ông Michel Forst – Báo cáo viên LHQ về Người bảo vệ Nhân quyền, -       Ông Juan Ernesto Mendez – Báo cáo viên LHQ về Tra tấn Nhục hình, -       Ông Maina Kiai – Báo cáo viên LHQ về Tự do Hội họp và Lập hội -       Ông Mads Andenas – Nhóm đặc trách Bắt giữ tùy tiện -       Ông Pierre Vimont – Tổng thư ký Ủy ban Đối ngoại EU. -       Ông Scott Kofmehl, Ông Ryan Fioresi – Chuyên viên đặc trách VN của BNG Hoa Kỳ -    Đại sứ quán các nước tại Hà Nội: Malad Delphine (Cộng đồng EU), Felix Schwarz (Đức), Jenifer N. (Hoa Kỳ), Rose McConnell (Úc), Elenore Kanter (Thụy Điển), Sanjiv Ahluwalia (Anh), Ayesha Rekhi (Canada), Jean Philippe (Pháp), Tone Wroldsen (Na Uy), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Thụy Sĩ). -      Các tổ chức Nhân quyền quốc tế: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Brittis Edman (CRDs), Billy Ford (Freedom House). Đồng kính gửi: -       Quốc hội nước CHXHCNVN. Kính thưa Quí Vị,             Chúng tôi, những tổ chức Xã hội Dân sự độc lập khẩn cấp báo động với tất cả Quí Vị và trước nhân dân thế giới về việc đàn áp những người lên tiếng tranh đấu cho Nhân quyền một cách trắng trợn, phi pháp và có hệ thống của Nhà nước Cộng hòa XHCNVN, đặc biệt trong năm 2014.             Chúng tôi xin đính kèm bản Báo cáo “Việt Nam: thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ và vi phạm nhân quyền 2014” minh chứng rõ ràng cho những vi phạm ấy, cùng những phân tích khách quan, đối chiếu sát sao những khuyến nghị của UPR. Chúng tôi cũng làm rõ chiến thuật che đậy của nhà cầm quyền VN trong những năm gần đây.             Bản báo cáo này tố cáo tính hai mặt trong chính sách nhân quyền mà nhà cầm quyền Hà Nội đang tích cực thực hiện. Đó là làm cho quốc tế tin tưởng họ có thiện chí cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong khi họ vẫn tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị, nặng về đàn áp, không coi trọng tự do và nhân phẩm của người dân.             Chân thành cảm ơn Quý vị đã quan tâm và lên tiếng.             Trân trọng, Danh sách các tổ chức XHDS đồng hành lên án vi phạm nhân quyền: 1.   Bach Dang Giang Foundation: Ths.Phạm Bá Hải. 2.   Bauxite Việt Nam: Gs. Phạm Xuân Yêm, Gs. Nguyễn Huệ Chi. 3.   Con đường Việt Nam: Ông Nguyễn Công Huân. 4.   Diễn Đàn XHDS: Dr. Nguyễn Quang A. 5.   Giáo hội Cao Đài, Khối Nhơn sanh: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch  Phụng 6.   Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ: MS. Nguyễn Hoàng Hoa 7.   Giáo hội Mennonite thuần túy: MS. Nguyễn Mạnh Hùng. 8.   Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Ông.Nguyễn Bắc Truyển. 9.   Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn Văn Đài 10. Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân. 11. Hội Bầu bí Tương thân: Ông Nguyễn Lê Hùng. 12. Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi. 13. Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts.Phạm Chí Dũng 14. Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, cô Trần Thị Nga. 15. Hội thánh Tin lành Chuồng Bò: MS. Lê Quang Du. 16. Khối Tự do dân chủ 8406: Lm. Phan Văn Lợi. 17. Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh 18. Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc: Anh Huỳnh Trọng Hiếu 19. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải. 20. Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm 21. Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu: Bà Trần Ngọc Anh. 22. Tăng Đoàn Giáo hội PGVNTN: HT.Thích Không Tánh. 23. Liên mạng truyền thông Báo-Động: Giám đốc Huỳnh Tâm. (Pháp) 24. Thanh Niên Canada Tranh Đấu cho Nhân Quyền VN: Cô Nguyễn Khuê Tú (Canada) ******** 24 Vietnamese CSOs Report on Human Rights violation 2014 in Vietnam Vietnam, Jan 30, 2015 To: - NGOs’ submission to Human Rights Council - Mr. David Kaye, Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression - Mr. Heiner Bielefeldt, Special Rapporteur on freedom of religion or belief - Mr. Michel Forst, Special Rapporteur on the situation of human rights defenders - Mr. Juan Ernesto Mendez, Special Rapporteur on torture and other cruel, inhuman or degrading treatment or punishment - Mr. Maina Kiai, Special Rapporteur on the rights to freedom of peaceful assembly and of association - Mr. Mads Andenas, Working Group on Arbitrary Detention - Mr. Pierre Vimont, Executive Secretary General of the European External Action Service - Mr. Scott Kofmehl, Mr. Ryan Fioresi, Vietnam Desk Officers, the US Department of State - Embassies in Hanoi: Malad Delphine (EU delegation), Felix Schwarz (Germany), Jenifer N. (USA), Elenore Kanter (Sweden), Sanjiv Ahluwalia (England), Ayesha Rekhi (Canada), Rose McConnell (Australia), Jean Philippe (France), Tone Wroldsen (Norway), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Switzerland). - International NGOs on human rights: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Brittis Edman (CRDs), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Billy Ford (Freedom House). CC: - The National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam Ladies and gentlemen, We, the independent civil society organizations, urgently alert all of you to the blatant, illegal and systematic crackdowns on human rights defenders and dissidents of the Socialist Republic of Vietnam, especially in 2014. We enclose here the report "Vietnam: Member of the UN Human Rights Council & Human Rights Violations in 2014" to demonstrate such violations clearly by the objective analysis comparing closely with the UPR recommendations. We also clarify the tactics to cover up the human rights abuses in the recent years. The report lays bare the duality of human rights policy that the Hanoi government has been implementing actively. One hand they get the international community to believe their willingness to improve human rights in Vietnam. On the other hand, they continue to maintain the totalitarian regime with serious persecution, not respecting for freedoms and human dignity of their citizens. Thank you for your consideration and taking action. Sincerely, Vietnamese independent civil society organizations co-sign to condemn human rights abuses: 1. Bach Dang Giang Foundation: Pham Ba Hai (MBE) 2. Bauxite Vietnam: Prof. Pham Xuan Yem, Prof. Nguyen Hue Chi. 3. Vietnam Path Movement: Mr. Nguyen Cong Huan. 4. Civil Society Forum: Nguyen Quang A (Ph.D.) 5. Cao Dai church, Humanism: Mr. Hua Phi. Mr. Nguyen Kim Lan, Mrs. Nguyen Bach Phung. 6. Evangelical Lutheran Community Church Vietnam-America: Pastor Nguyen Hoang Hoa 7. Christian Mennonite Church: Pastor Nguye n Manh Hung 8. Vietnamese Political and Religious Prisoners Friendship Association: Nguyen Bac Truyen (LLB) 9. Brotherhood for Democracy: Lawyer Nguyen Van Dai 10. Association to Protect Freedom of Religion: Ms. Ha Thi Van. 11. Gourd and Squash Mutual Association: Mr. Nguyen Le Hung 12. Former Vietnamese Prisoners of Conscience: Dr. Nguyen Dan Que, Catholic Priest Phan Van Loi. 13. Independent Journalists Association of Vietnam: Pham Chi Dung (Ph.D.) 14. Vietnamese Women for Human Rights: Ms.Huynh Thuc Vy, Ms.Tran Thuy Nga 15. Evangelical Protestant Chuong Bo Church: Pastor Lê Quang Du 16. Bloc 8406: Priest Phan Van Loi. 17. Viet Labor: Ms. Do Thi Minh Hanh. 18. Religion and Ethnic Minority Defenders: Mr. Huynh Trong Hieu. 19. Nguyen Kim Dien Group: Father Nguyen Huu Giai. 20. Hoa Hao Buddhist Church, Purity: Mr. Le Quang Liem. 21. Oppressed Petitioners Solidarity Movement: Ms. Tran Ngoc Anh 22. Delegation of Vietnamese United Buddhists Church: Ven. Thich Khong Tanh. 23. Vietnamese Interactive Network: Director Huynh Tam (France) 24. Canadian Youth for Human Rights in Vietnam: Ms. Khue Tu Nguyen (Canada) Theo fvpoc.org
......

Quyền được cười nhạo

Hà Sĩ Phu (Nhân vụ Charlie Hebdo nghĩ về vũ khí phê phán) 1. Về vụ khủng bố tòa báo Châm biếm Charlie Hebdo Sự cọ xát, phân định, và đấu tranh giữa các yếu tố đúng-sai, tốt-xấu, thiện-ác, giữa nhân tính và thú tính, lạc hậu với văn minh…của thế giới con người đã làm phát sinh một thứ “vũ khí” đặc biệt là “vũ khí phê phán”, mà mức độ cực đoan tồi tệ nhất là “phê phán bằng vũ khí”. Phê phán là đấu tranh với nhau dưới mọi hình thức, là hoạt động thiêng liêng để tiến hóa chỉ loài người mới có, thiếu nó xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn mang của loài vật. Phê phán xuất hiện và tồn tại cùng với loài người và cũng dần dần văn minh hóa cùng với loài người. Nhưng một hoạt động quan trọng và bao trùm như thế tất nhiên không bao giờ đơn giản. Hãy tạm gác ra ngoài sự “phê phán bằng bạo lực, bằng vũ khí” là hình thức kém văn minh mà nhân loại đang phấn đấu để loại trừ (nhưng nhân loại còn lâu mới đạt được ước vọng đó), sự phê phán hòa bình có thể tạm gom lại dưới 3 hình thức tùy theo vị thế tương quan mà người phê phán tự xác định trước đối phương: – Phê phán chính luận, vạch cái sai cái xấu của đối tác bằng ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ “chính thống” của đối thoại, trong đó người phê phán đặt đối tác, đối phương ngang hàng với mình. – Chửi theo đúng nghĩa đen là hình thức phê phán thường là của giới bình dân bị trị, thấp cổ bé họng, tuy bề ngoài có vẻ “ghê gớm” nhưng thực chất đây là vũ khí của kẻ yếu, tự thấy bất lực trước tình hình, không tìm được một “cơ chế” chính thống nào để giành thắng lợi, thôi thì không thành công cũng thỏa nỗi bực trong lòng một chút, bởi phương pháp “chửi” ít khi giành được thắng lợi cụ thể. Ở phạm vi nhỏ thì đó là những cuộc “chửi mất gà” nhưng ở tầm lớn chính là sự “chửi mất nước”- “chửi quốc hận”, nên dân tộc nào chất chứa căm giận nhưng bất lực thì thường đưa vũ khí “chửi” lên tầm quốc hồn quốc túy. - Châm biếm, cười cợt mới là vũ khí phê phán rất đặc biệt. Ở đây, sự khinh ghét hoặc căm giận lại chuyển dạng thành tiếng cười, cười nhạo nhẹ nhàng hoặc sâu cay nhưng tê tái cho đối phương, bởi người phê phán, dù mạnh hơn hay chưa mạnh hơn, nhưng đã đặt mình ở tư thế đứng trên đối phương mà khuyến cáo, mà cười nhạo cho đối phương biết mà sửa, dù sâu cay mấy thì vẫn ngầm một ý khoan dung, không thèm chấp kẻ dưới tầm. Vì thế kẻ bị châm biếm sâu cay thường bị “ngấm đòn”, thấy bị nhục, bị đau hơn rất nhiều . Trong 3 hình thức phê phán ôn hòa thì châm biếm gây cười có lẽ là lịch sự và sang trọng hơn cả, nhưng khốn nỗi lịch sự và sang trọng chính là điều mà kẻ bị phê phán không thể chịu được, bởi họ thấy kẻ phê phán đứng ở tầm trên mà họ không cãi được.Vậy không nên ngạc nhiên khi thấy những tín đồ Hồi giáo cực đoan lại căm thù tờ báo châm biếm Charlie Hebdo, chuyên gây cười cho thiên hạ đến thế. Đối với kẻ bị phê phán bằng cách châm biếm thì ẩn sau lòng căm thù là tiềm thức tự ái,vô vọng, tự ty. Tự thấy không thể ngang hàng đối chất, đối thoại, đối biếm, nên chỉ còn cách “phê phán bằng vũ khí”, thứ vũ khí dao búa man rợ của thằng khùng. Dù giết được bao nhiêu người nhưng sâu thẳm trong vô thức họ biết họ thua, càng thua càng khùng càng tàn độc. Càng tàn độc càng thua, đó là cái vòng tự kích không có lối ra của tình trạng văn hóa thấp kém trong cuộc đấu tranh và đào thải. Một điều khiến cho cục diện phê phán trở nên phức tạp vì khi anh A phê phán-chê cười anh B là sai là xấu thì ngược anh B cũng có thể làm như vậy với anh A. Có vẻ như vậy là thật giả bất phân, sẽ “hòa cả làng” ư? Không đâu, trọng tài sẽ là sự thật, sự thật minh định bởi thời gian và quần chúng nhân dân tự do. Nhân dân có thể mất tự do nên bị định hướng trong một giai đoạn nào đấy nhưng không bao giờ mất tự do vô thời hạn. Song cũng chưa cần đến thời gian và công chúng, sự phân định có thể tức thời. Người mất gà thật mới có sức mạnh tự thân để làm cho tiếng chửi có hồn để thuyết phục. Thủ phạm ăn cắp gà thì dù có tài lấp liếm bao nhiêu cũng không sao có được sức mạnh ấy, họ chỉ có thể dùng những sức mạnh khác để cầm cự, như dùng bạo lực hay quyền lực chẳng hạn. Trở lại vụ Charlie Hebdo. Bọn Hồi giáo cực đoan cũng châm biếm các họa sĩ Pháp đi, rất công bằng, ai cấm? Nhưng châm biếm sao nổi? Họ không có sức mạnh của lẽ phải để thốt nên lời châm biếm. Cho nên họ khùng, họ chỉ có thể dùng vũ khí cố hữu của thằng khùng là bạo lực khủng bố. “Phê phán bằng bạo lực” là sự đồng quy của hai thái cực, hoặc của bọn phi nghĩa cực đoan hoặc của chính nghĩa nhưng đang còn hèn yếu, bế tắc chưa tìm ra cách. Vì thế, tôi đứng hẳn về phía những người châm biếm, mặc dù biết không phải sự phê phán bao giờ cũng đúng, sự phê phán cũng được quyền sai như mọi thứ khác trên đời. Phải biết tôn trọng các Tôn giáo ư? Những hoạt động khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan đã có từ lâu, đã xảy ra trước sự châm biếm của Charlie rất nhiều, ai mà chẳng biết? Sự châm biếm là lời cảnh báo rất nhân đạo của nhân loại đối với loại Tôn giáo cực đoan. Những người Hồi giáo không cực đoan dù oan uổng cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trước bọn đồng đạo cực đoan kia. Chừng nào những người Hồi giáo nhân ái chưa có tiếng nói chính thức chối bỏ và có hành động trừng trị hữu hiệu đối với bọn đồng đạo cực đoan thì họ phải chịu chung sự phê phán là đương nhiên. Cũng giống như chừng nào đảng Cộng sản không có khả năng trừng trị bọn tham nhũng và bán nước từ trong đảng của mình sinh ra thì chừng ấy chính ĐCS phải gánh lấy sự phê phán tội “tham nhũng và bán nước” trước lịch sử, làm sao khác được? Những kẻ bịt toàn thân trong tấm trùm đen, tay lăm lăm cây dao nhọn, chuẩn bị cắt cổ, chọc tiết, phanh thây những con tin để đòi tiền chuộc thì không được quyền nhân danh một con người, làm gì có quyền nhân danh một tôn giáo? Và tôn giáo nào cho chúng được phép nhân danh thì cái gọi là “tôn giáo” ấy hoàn toàn không còn chỗ đứng trong cộng đồng các tôn giáo của nhân loại. Phê phán thứ quá khích đội lốt tôn giáo ấy hoàn toàn không phải là đả kích tôn giáo, xin các nhà hảo tâm, đạo đức nhẹ dạ đừng lầm. Dùng hình thức châm biếm để phê phán tính thú vật ấy là còn quá nhẹ nhàng và nhân ái đối với chúng. Toàn nhân loại phải hiệp lực để đẩy lùi đại nạn thú tính ấy, để đẩy chúng vào bóng đêm rừng rú của thời tiền sử, trả lại cho nhân loại sự yên bình, chứ không thể vì chúng quá “mạnh”, quá ác hoặc quá tinh vi mà Chính nghĩa phải rút lui rồi tự trách đồng đội của mình sao lại dại dột phê phán chúng, dù chỉ phê phán bằng sự chê cười! Kẻ thù càng hung hãn xảo quyệt thì càng phải hiệp lực để tìm bằng được cách trừng trị. Thế giới Nhân tính lại thua thế giới Thú tính hay sao, nếu thế làm gì có Tiến hóa? Bênh vực hay tránh né bọn tà giáo cực đoan không phải là tôn trọng tôn giáo mà là làm nhục danh hiệu tôn giáo, làm nhục các tôn giáo chân chính. Tóm lại: – Cười hay châm biếm gây cười là hình thức phê phán lịch sự, văn minh, ở tầm cao hơn đối tượng được/bị châm biếm. – Châm biếm là một động lực thúc đẩy tiến hóa, thúc đẩy văn minh, nên châm biếm phải là một quyền trong nhân quyền, như một bộ phận của tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí. – Mỗi người có quyền thích hay không thích hình thức châm biếm nhưng đã là quyền thì phải được pháp luật quốc tế và luật trong nước bảo vệ, không ai được ngăn cản hay ngăn cấm. – Cũng như mọi hình thức phê phán ôn hòa khác, châm biếm có thể đúng cũng có thể sai nên tất nhiên ai cũng có quyền “phản châm biếm”. Châm biếm khác với vu cáo, vu cáo thì đã có quy định rất cụ thể trong luật mà nước nào cũng có. Nói một cách dễ hiểu thì một người trong xã hội có quyền “Cười” châm biếm và rất nên biết cười và gây cười để “giã từ những hư hỏng, tệ đoan một cách vui vẻ”. 2. Dân tộc tự phê phán. – Có nên viết về khuyết tật của người mình không? Trong các quy mô phê phán thì sự phê phán các tính cách của Dân tộc mình có một ý nghĩa vô cùng trọng đại, nó giúp cho sự canh tân và phát triển toàn cục của một xã hội, một quốc gia. Biết ưu điểm của Dân tộc để tự hào và biết nhược điểm để sửa chữa, cả hai mặt đều quan trọng, nhưng khi người ta bằng lòng với quá khứ và hiện tại thì thường thiên về tự hào, trái lại khi muốn có thay đổi cho hiện tại và tương lai thì tự nhiên sẽ xuất hiện nhu cầu phải tự phê phán Dân tộc, giống như khi con người muốn chạy về phía trước thì môi trường tự nhiên sinh sức cản và ta phải làm sao thắng được các lực cản ấy. Ví dụ khi Hồ Chí Minh muốn vận động dân chúng làm cách mạng thì năm 1926 trong một bài giảng ở Quảng Châu đã đề cập đến “hai nhược điểm lớn của dân Việt là mất đoàn kết và …không biết hay biết rất ít về tình hình toàn cầu”, ngoài ra “vấn đề lớn nhất ở làng bản Việt Nam là vấn đề sĩ diện và ngôi thứ” (1). Muốn vận động dân chúng để cứu nước các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu cũng phải phê phán nhau và phê phán dân tộc quyết liệt. Từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trước nhu cầu phải đưa xã hội thoát khỏi một giai đoạn sai lầm nghiêm trọng, nhu cầu tự phê phán những nhược điểm của người Việt mình lại một lần nữa nổi lên, lôi cuốn nhiều tác giả với nhiều bài viết, trong đó nhà văn Vương Trí Nhàn là một tác giả có nhiều đóng góp. Từ sau năm 1975 bên cạnh xu hướng tự sướng, tự ca ngợi, ngồi chễm trệ ở chốn bình yên mà nhấm nháp ly rượu chiến thắng thì nhà văn hóa Cao Xuân Hạo đã kịp thời cảnh báo “Một nhà hiền triết cổ đại có nói rằng, một trong những nhân tố quan trọng nhất khiến cho một dân tộc, một triều đại, một nhà vua, một tướng lĩnh sa đọa nhanh nhất chính là một trận đại thắng lẫy lừng khiến cho người ta có ảo giác là mình bất khả chiến bại, mình là tinh hoa của nhân loại, mình là tuyệt đối hoàn hảo. Đó chính là dấu hiệu chắc chắn nhất của sự suy đốn và đồi bại. Cho nên, sau một thắng lợi lớn, nguy cơ suy vong của một dân tộc không những không mất đi, mà còn tăng gấp bội” (2) . Trái với lời răn đã quen khi viết phê bình là phải “nghiêm túc, đúng mực, không quá lời, để đối tượng dễ tiếp thu”, GS Cao Xuân Hạo nói thẳng ra rằng phê phán Dân tộc là: “phải phóng tay phát động lòng dũng cảm của họ lên, dẹp lòng tự ái dân tộc đến tối đa”, có thể dùng “giọng điệu giễu cợt cay độc đến đâu chăng nữa”, “còn phải làm cho mỗi người Việt thấy xấu hổ những nhược điểm ấy một cách sâu xa”, “dù những lời chê bai của họ chỉ đúng với một thiểu số không đáng kể”. Vậy đó, ý kiến GS Cao Xuân Hạo mà tôi tin chắc mỗi người trí thức còn nặng lòng và còn “khổ tâm” với dân tộc mình đều phải đồng tình, là những ý kiến quyết liệt, minh bạch và chính xác, nên đọc kỹ lại nhiều lần. 3. Nhưng tự phê phán Dân tộc mình lúc này coi chừng nguy hiểm. Ở đây tôi xin phép được dẫn một ví dụ thiết thân vì nghĩ rằng nó có tính điển hình: một phía đang “đắc ý” với Dân tộc để giữ yên, một phía muốn “phê” Dân tộc để có đổi mới nên người ta ghét nhau đến mức quy kết nhau đến tội “phản quốc”, tội nặng nhất trong luật hình sự. Ấy là vào năm 2000. Sau khi thấy khối Cộng sản Đông Âu đổ sụp, không ít người tin chắc chế độ CS Việt Nam cũng sắp đổ theo, từ đó rủ nhau ký một kế hoạch hành động chuẩn bị cho sự đổ ấy, kế hoạch có tên “Kết ước năm 2000”. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn tôi đã quả quyết “CS Việt Nam không dễ đổ như Đông Âu, đừng vội mừng” ( tôi nói y như giọng bênh vực Đảng của Ban Tuyên giáo CS vậy). Hai ông Đỗ Mạnh Tri và Nguyễn Gia Kiểng ở Pháp viết thư hỏi tôi đại ý “căn cứ vào đâu mà tôi có ý kiến ngược đời như vậy”, tức là cần phân tích những đặc điểm riêng của Việt Nam. Tôi viết 2 bức thư trả lời (3), tuyên bố không ký vào văn bản “Kết ước” đó và giải thích vì sao tôi không ký. Nếu chỉ có thế thì chắc ĐCS đã “khen thưởng” tôi rồi. Nhưng khốn nỗi ở nội dung của lời giải thích, trong đó có mấy ý nổi bật khiến cho chúng tôi, tôi và ông Mai Thái Lĩnh (4) bị khởi tố tội “phản bội Tổ quốc”, cấm tự do đi lại và ngày hai buổi lên làm việc hỏi cung với An ninh của Bộ Công an suốt 8 tháng trời! Đại ý luận điểm của tôi về tính cách của Dân Việt Nam và ĐCSVN như sau: – Là thân phận bị mấy nghìn năm cai trị bởi vua chúa và kẻ thù khổng lồ phương Bắc nên đã hun đúc trong người VN tính khôn vặt, khôn lỏi, không thể chống đối ra mặt nên phải giả vờ phục tùng để tồn tại, nhưng bên trong phải tính toán sao cho có lợi nhất. Vì thế Dân với Đảng cùng giả vờ tôn vinh nhau nhưng bên trong tìm cách vô hiệu hóa ngón đòn của nhau để giữ gìn hoặc vun vén lợi ích riêng. Cặp hôn phối “mạt cưa mướp đắng” này cứ thích nghi với nhau, còn sống được với nhau mấy chục năm nữa. Khi ĐCS nói “Đổi mới hay là chết” là họ khiêm tốn quá đấy, cứ yên tâm, ở Việt Nam này CS không đổi mới tử tế gì cũng chưa chết như Đông Âu đâu. – Ở châu Âu nếu có tảng đá khổng lồ chắn ngang xa lộ thì người ta hò nhau giải quyết tảng đá, nhưng người Việt Nam chẳng dại đối đầu với tảng đá, mỗi anh đều khôn lỏi tìm đường hẻm để lách qua, cuối cùng ai cũng đi qua nhưng tảng đá vẫn còn nguyên, mọi người gặp nhau đều khoái trí, phục nhau là khôn. – Ở VN sẽ chẳng có gì đổ hết, vì muốn đổ thì vật phải có một hình dạng để đứng lên như cái chai, cái cốc. Việt Nam là một thể vô định hình như một khối bùn nhão, không định hình thành một chủ nghĩa gì cả, chỉ vá víu chắp nhặt hẩu lốn mỗi thứ một tí để tồn tại nên chẳng có hình thù gì để mà “đổ”! Vả lại một dân tộc lạc hậu vẫn có thể “đi lên” theo đuôi nhân loại văn minh theo kiểu ký sinh như con chấy con rận bám trên lưng con hổ thì cũng tung hoành khắp nơi như con hổ đó thôi. – Xã hội Việt Nam như một con đường làng chật hẹp, đoàn người cứ phải đi sau Đảng như đi sau một con trâu mộng sừng nghênh ngang nhọn hoắt, ai vượt lên thì nó húc chết, đành kiên trì đi sau nó một cách chậm chạp, thỉnh thoảng nó lại ị cho một bãi… Xã hội Việt Nam như một đồng cỏ khô nhưng một que diêm không thể làm bùng cháy vì đồng cỏ đã được Đảng phun chất chống cháy rồi… – Tất cả những đặc điểm ấy của người Việt Nam là do truyền thống quý báu 4000 năm để lại cũng chỉ đúng một phần, phần lớn là nhờ Đảng ta đã dày công đào tạo, dạy dỗ… Đại lược là như thế, đã không ký vào văn bản chống Đảng, lại bảo Đảng này còn lâu mới đổ, bênh Đảng hơn cả Ban Tuyên giáo nhưng chỉ vì cái giọng cười cợt châm biếm, khinh bạc mà bị khởi tố đến tội phản quốc. Nhưng chẳng hiểu sao sau 8 tháng hỏi cung, chúng tôi chuẩn bị tinh thần ra tòa với cái án tù hai chục năm là nhẹ cho tội phản quốc, thì đùng một cái có lệnh đình chỉ vụ án, thật là súyt chết! (nghe đồn chúng tôi thoát chết vì trong Bộ Chính trị không nhất trí, từ đấy cứ thấy trong BCT có mâu thuẫn với nhau là chúng tôi mừng lắm). Nhưng chưa xong, vụ án bị đình chỉ, không ra tòa, nhưng cái “tội” dám châm biếm cả “ý Đảng” lẫn “lòng Dân” thì không tha được. Nguyễn Như Phong, phó biên tập của tờ An Ninh Thế giới viết một bài dài “Mặt thật của một vài người mượn danh hiền sĩ” (5), cứ như báo An ninh có quyền thay mặt quan tòa quy tội chúng tôi đủ điều, trong đó có một đoạn dài trích lời châm biếm của HSP đối với thực trạng xã hội Việt Nam: “Hà Sĩ Phu viết về nhân dân Việt Nam bằng ngôn từ như thế này: Vô lý, nhân dân chết cả rồi sao? Chết cả rồi, bị tiêm thuốc chết cả rồi. Số còn ngoắc ngoải thì không phải là nhân dân, hay nói cho công bằng thì họ chỉ được là công dân loại hai, như dân thiểu số vùng cao. Đừng thấy đám đông phóng xe máy, nghe máy bộ đàm, gõ máy vi tính, hát karaoke, báo cáo trên tivi về thành tích biết làm giàu, lĩnh giải này giải khác mà tưởng nhân dân đang sống mãnh liệt. Vẫn tưởng có cơm ăn áo mặc, vẫn ngày biết thêm một vài thứ văn minh mà trước đây chưa từng được biết tới…vẫn được nước ngoài viện trợ, vẫn có khối thứ để tự hào, vẫn thấy con hơn cha tưởng nhà có phước… Bao kẻ anh hùng đánh giặc ngoại xâm lại trở nên hèn mạt và vô cùng nhỏ bé trước danh lợi, thần quyền và thế quyền. Kẻ có dũng thì ngu dốt, kẻ có trí thì hèn, kẻ có trí có dũng thì láu cá vị kỷ bất nhân…” Và theo Nguyễn Như Phong thì một kẻ đã phê phán Dân tộc mình như thế thì “phải trục xuất Hà Sĩ Phu ra khỏi Đà Lạt. Nhưng thưa bà con, trục xuất đi đâu, liệu có quốc gia nào sẵn lòng nhận những người như vậy không, còn trên đất này đâu chả là đất Việt và chỗ nào là chỗ mà ông ta yêu quý? Trong vụ án này Hà Sĩ Phu đóng vai trò là người cầm đầu, hung hăng nhất trong việc đòi xóa bỏ chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận động các tổ chức quốc tế, các chính phủ gây sức ép làm xâm hại đến độc lập, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam”. Thực tình thì HSP mới chỉ làm mỗi một việc là phê phán ôn hòa, nhưng cái giọng thì hay ví von, châm biếm: phê phán chủ nghĩa Mác-Lê phi khoa học và độc đoán, phê phán những những nhược điểm của tính cách dân Việt Nam đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa kia mọc rễ và nương náu, chậm bị đào thải, chứ HSP đã làm được gì đâu mà đại tá công an Nguyễn Như Phong đã quá phong tặng? Có người bạn đã thân ái nhận xét: “Cũng nội dung ấy nhưng ông đừng ví von, châm biếm người ta mà cứ nghiên cứu, kiến nghị, góp ý như một con dân trong hệ thống thì đâu đâu khiến ngưới ta phát khùng lên như thế? Thôi rút kinh nghiệm!”. Vâng, nhưng bảo một người có máu châm biếm như Charlie Hebdo đừng vẽ biếm họa nữa mà hãy viết một bài góp ý chân tình với Hồi giáo đi thì cuộc đời đã chẳng còn là cuộc đời. Lời kết Phê phán là một vũ khí mà Tạo hóa đã ban cho để Con người biết dìu dắt nhau thoát khòi thế giới súc vật dã man và ngày càng biết sống cho ra Con người. Vũ khí phê phán ôn hòa đang mở ra hy vọng để có thể chấm dứt sự “phê phán bằng vũ khí”. Nhưng những hệ quyền lực chỉ biết chọn độc tài làm phương thức sinh tồn thì họ rất ưa miệt thị người khác chứ không chấp nhận cho người khác phê phán mình, nên họ không thể dùng vũ khí phê phán ôn hòa và công bằng, mà cứ kiên trì con đường “phê phán bằng vũ khí”, từ dao búa và chất nổ, đến trại giam, tù ngục, hay bạo lực côn đồ. Châm biếm là một hình thức đặc biệt trong vũ khí phê phán, người phê phán tự xác định mình đứng ở tầm cao hơn cái Ác, chọc để phát ra tiếng cười, để nhân loại có thể giã từ những khuyết tật của mình một cách vui vẻ. Vì thế, con người văn minh rất cần biết và cần quen với vũ khí châm biếm, biết cười nhạo những bất toàn của chính mình cũng như của đồng bào, đồng loại. H.S.P. Chú thích: (1) GS Trần Quốc Vượng- Cần sửa đổi lề lối nghiên cứu lý luận-Xưa và nay 20/2/2001 (2) GS Cao Xuân Hạo- Có nên viết về khuyết tật của người mình không – http://www.chungta.com/co_nen_viet_ve_khuyet_tat_cua_minh_khong.html http://diendan.nuocnga.net/showthread.php?p=43175 (10-11-2009) (3) Hai bức thư HSP gửi NGK và ĐMT (http://www.hasiphu.com/vuanIII_20.html) (4) Năm 2000 tôi vẫn bị khống chế lai rai nên chưa có Internet, thư Email phải nhờ ông Mai Thái Lĩnh chuyển giúp. (5) Báo An ninh thế giới, từ số 210. ra ngày 4/1/2001 Theo boxitvn.net
......

Phim “Last Days in Vietnam”- Những ngày cuối cùng ở Việt Nam

"Thông điệp tình người qua cuốn phim Last Days In Vietnam" qua nhận xét của Ts Trần Diệu Chân. Phim “Last Days in Vietnam”- Những ngày cuối cùng ở Việt Nam Đài PBS (Public Broadcasting Service) sẽ trình chiếu phim “Last Days in Vietnam” vào ngày 28-4-2015 nhân dịp tưởng niệm 40 năm biến cố 30-4-1975 trên toàn bộ hệ thống khắp Hoa Kỳ; và những ngày trước đó,). Phim “Last Days in VN” cũng sẽ ra DVD vào cuối tháng 4, 2015. Phim tài liệu “Last Day In Vietnam” mang một số thông điệp của người Mỹ nhìn về ngày 30 tháng 4 của 40 năm về trước. Điểm chính rất tuyệt vời của cuốn phim mà ai cũng phải nhìn nhận là nói lên TÌNH NGƯỜI trong giai đoạn khó khăn, cấp bách, nguy hiểm nhất – những ngày cuối cùng của cuộc chiến Quốc-Cộng tang thương kéo dài 20 năm trên đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó, cảm nhận của tôi về cuốn phim rất xúc động mà hầu hết ai xem phim cũng nhỏ lệ là: 1. Chính nghĩa của dân tộc, của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã được phục hồi khi nói lên cái ác và bất tín của cộng sản Việt Nam (CSVN). Đồng thời, phơi bày sự thật về lý do tại sao VNCH thất trận, đó là sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH hèn nhát, tháo chạy như dư luận tại Hoa Kỳ cũng như trên thế giới đã từng hiểu lầm do bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến. 2. Can đảm đưa ra nhận thức là chính Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH để đưa đến tình trạng kết thúc tang thương tại Việt Nam mà hệ quả còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Phê phán Hiệp Định Paris là một “kiệt tác của hỏa mù” và nói lên những trí trá của phía CSVN cũng như những ký kết vô trách nhiệm của Hoa Kỳ. 3. Tinh thần trách nhiệm, bác ái, can trường của nhiều người Mỹ cũng như Việt trong cuộc di tản, sẵn sàng hy sinh cá nhân mình vì người khác. 4. Bài học lịch sử cho Hoa Kỳ - như lời chia sẻ của Đạo diễn Rory Kennedy: Trước khi mình dấn thân vào một cuộc chiến, phải nghĩ tới sách lược thoát ra các cuộc chiến đó như thế nào để là một kết thúc có hậu. 5. Bài học lịch sử cho Việt Nam: Luôn lấy sức mình/sức mạnh dân tộc làm chính. Quốc gia nào cũng đặt ưu tiên quyền lợi dân tộc họ; do đó họ chỉ hợp tác khi có tương quan quyền lợi và sẵn sàng bỏ rơi chúng ta khi cần. Cần thực tế hóa và không lý tưởng hóa tương quan với các quốc gia bạn; vận động sự hợp tác quốc tế trên căn bản “tương quan quyền lợi”. 6. Cuốn phim không cho phía cộng sản Việt Nam có tiếng nói. Ngược lại, nói lên được cái ác của CSVN và sự cảm thông với người dân miền Nam Việt Nam qua lời chia sẻ của một vị đại tá Mỹ: “Người dân miền Nam có đủ lý do để khiếp sợ Cộng Sản Việt Nam. Hành vi của Cộng sản trong suốt cuộc chiến là bạo lực và không hề khoan nhượng. Thí dụ khi thành phố Huế bị Bắc Việt chiếm, nhiều ngàn người có tên trong sổ đen dày cộm của họ đã bị triệu tập, thầy giáo, công chức, những người mang danh chống cộng đã bị xử tử, thậm chí trong một số trường hợp họ bị chôn sống.” Ngay cả hình ảnh mà đạo diễn Rory Kennedy đã tài tình lồng vào: hình ảnh nhuộm đỏ Việt Nam như một dòng suối máu lan theo bước chân thôn tính của CSVN – cũng nói lên được nguy cơ vào giai đoạn chót, và sự đe dọa kinh hoàng của một chế độ độc ác. 7. Ghi nhận những phi công, sĩ quan Việt Nam can đảm, tài giỏi, yêu nước qua hình ảnh tiêu biểu của một số vị. Nói lên được sự thông cảm và thương cảm đối với người dân miền Nam Việt Nam. 8. Đoạn cuối, cuốn phim đã ghi chú về chính sách tù “cải tạo” tàn bạo của CSVN: “Đối với những người bị bỏ rơi, hàng trăm ngàn người bị đưa vô trại học tập cải tạo. Nhiều người đã bỏ mạng vì bệnh tật và đói khát. Một số không rõ bao nhiêu người bị xử tử.” Chính vì những ưu điểm này mà cuốn phim đã được đồng bào chúng ta đón nhận nhiệt liệt, dù vẫn có những ấm ức là cuốn phim chưa nói lên được hết những đau thương mà đồng bào chúng ta phải gánh chịu kể từ sau cái ngày tan đàn xẻ nghé 30-4-1975, chưa nói lên được đầy đủ những gương anh hùng của quân cán chính VNCH, những hình ảnh tuẫn tiết của các vị tướng VNCH, và chưa lột hết được sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng có cuốn phim nào mà nói lên hết được tất cả những u uất, thống khổ, thương tâm của cuộc chiến Quốc-Cộng mà dân tộc chúng ta đã phải gánh chịu, và ngay cả giai đoạn đau thương sau khi chiến tranh chấm dứt 40 năm qua? Dẫu sao, cuốn phim đã nói lên được phần nào những điểm son để phục hồi sự thật, để rút tỉa kinh nghiệm, để vinh danh giá trị nhân bản và tình người trong một trang sử cận đại mà hệ lụy vẫn còn kéo dài đến ngày hôm nay. Với hầu hết những chia sẻ về “Last Days...” là những lời khen, từ các nhà bình luận/điểm phim chuyên nghiệp Mỹ - Việt, cho tới đồng bào chúng ta sau khi xem phim, chúng tôi xin trích lại đây một số những bình phẩm tiêu biểu để giới thiệu cuộn phim tới đồng bào. Chính vì những giá trị của cuốn phim mà tôi đã nhận lời nằm trong ban dịch thuật để PBS có thể phụ đề tiếng Việt cuốn phim gởi tới cho đồng bào Việt Nam ở khắp nơi (ngay cả trong nước hy vọng đồng bào chúng ta cũng có thể xem qua mạng Internet hay DVD). “Last Days in VN” đã được Academy Awards đề nghị giải Oscar cho phim tài liệu hay nhất năm 2015. Không biết phim có nhận được giải Oscar vào tháng 2 này hay không, nhưng tôi nghĩ “Last Days in Vietnam” đã thắng giải Oscar trong trái tim của nhiều người Việt Nam, trong đó có tôi. Ts Trần Diệu Chân
......

Trung Nam Hải đang toan tính gì với con bài Nguyễn Tấn Dũng?

Kết cục của chế độ cộng sản Chủ nghĩa cộng sản là một sản phẩm quái thai trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, như một quy luật tất yếu, nó đã và đang bị lịch sử vứt vào sọt rác. Thành trì của chủ nghĩa cộng sản thế giới là Liên Xô đã sụp đổ cách nay ¼ thế kỷ. Giờ đây, số quốc gia lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm hệ tư tưởng chính thống chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay: Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba và Lào. Cùng với xu thế dân chủ hoá trên toàn thế giới, người dân ở các quốc gia cộng sản còn lại đó đã bắt đầu thức tỉnh và lên tiếng đòi tự do, dân chủ và quyền con người chính đáng của mình. Việc Mỹ và Cuba vừa tuyên bố bình thường hoá quan hệ sau hàng thập kỷ ở trong trạng thái đối đầu là dấu hiệu mới nhất minh chứng cho xu thế không thể đảo ngược ấy. Quá trình mở cửa hội nhập với thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng Internet và cách mạng truyền thông xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc là nhân tố quyết định tạo ra những biến chuyển lớn lao trong lòng xã hội Việt Nam thời gian qua. Ngày càng nhiều người dân Việt Nam công khai lên tiếng đòi xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, điều khoản hiến định vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng CSVN đối với nhà nước và xã hội. Điều mà chỉ mới cách đây mấy năm ít ai dám nghĩ tới thì nay người ta đã công khai bày tỏ thái độ. Đặc biệt, xu thế này ở Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh nhà cầm quyền cộng sản gia tăng chính sách đàn áp nhằm vào những tiếng nói đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt.” Nay thì tiếng nói đòi đổi thay không chỉ vang lên trong đám thường dân, mà ngay cả trong giới cầm quyền cũng đã xuất hiện những lời lẽ bóng gió về đòi hỏi tất yếu đó. Toan tính của Bắc Kinh Hàng ngàn năm qua, Trung Quốc chưa lúc nào nguôi tham vọng thôn tính Việt Nam. Ngay cả trong những ngày tháng “mặn nồng” nhất của mối quan hệ hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” giữa hai nước, họ cũng không một phút giây sao nhãng “sứ mạng cao cả” đó. Cố nhiên, Bắc Kinh thừa khôn ngoan và thực tế để hiểu rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam không tránh khỏi sụp đổ trong vài năm tới. Khi sụp đổ tất yếu ấy diễn ra, chính quyền hậu cộng sản tại Việt Nam có nhiều khả năng sẽ là một chính thể dân chủ đi theo quỹ đạo của Mỹ và phương Tây. Đơn giản, người dân Việt Nam đã quá chán ngán với chế độ độc tài, còn Trung Quốc thì chưa bao giờ là niềm tin của họ, ngoại trừ những tên Việt gian bán nước. Cơ may lớn nhất cho Trung Quốc lúc đó là nhân lúc Việt Nam rơi vào khoảng trống quyền lực, họ sẽ phát động một cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm vào Trường Sa hòng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông. Để ngăn ngừa một Việt Nam hậu cộng sản đi theo quỹ đạo của Mỹ, việc Trung Quốc đưa quân vào Việt Nam phối hợp với đội quân Hán tặc và Việt gian tại chỗ là một khả năng thực tế, nhất là khi Trung Quốc đã và đang tìm cách khống chế một số vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng ở Việt Nam như các khu rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, Vũng Áng – Sơn Dương (Hà Tĩnh), Tây Nguyên (qua dự án khai thác bauxite), Hải Vân (qua hai dự án du lịch của người Hoa), Ninh Thuận (qua dự án điện hạt nhân Ninh Thuận do PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước), các căn cứ quân sự dưới hình thức dự án kinh tế trá hình ở Lào và Campuchia, v.v. Mặc dù vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa quân vào nước khác ẩn chứa nhiều rủi ro, nhất là với một quốc gia có truyền thống chống Trung Quốc như Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn có thể bị sa lầy và dễ dàng đánh mất vị thế siêu cường, thậm chí bước sa chân đó có thể biến thành cơ hội “ngàn năm có một” để Mỹ và phương Tây xâu xé tanh bành một Trung Hoa Đại Hán đang ngày càng cho thấy là vấn đề lớn nhất của cả thế giới. Thậm chí, ngay cả khi Trung Quốc đánh chiếm được Trường Sa thì chính phủ hậu cộng sản ở Việt Nam chắc chắn sẽ ở vào thế đối đầu với Trung Quốc. Lúc ấy, với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây, một cuộc chiến trường kỳ của Việt Nam hòng giành lại Trường Sa là khả năng gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Chưa biết thắng thua thế nào, nhưng cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả là không hề nhỏ. Chính vì vậy, kịch bản khả quan nhất cho Trung Quốc trong bối cảnh chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam sắp sụp đổ là dựng lên một chế độ độc tài hậu cộng sản giống như Nga, trong đó nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” là kẻ mà Trung Quốc dễ dàng khống chế và thao túng. Nếu điều này xẩy ra, ngoài biển thì Trung Quốc có thể tiếp tục quá trình thôn tính Trường Sa theo chiến thuật “tằm ăn dâu” sở trường, trước phản ứng lấy lệ của lãnh đạo Việt Nam, cho đến khi họ kiểm soát hoàn toàn Trường Sa và đặt Mỹ và phương Tây vào tình thế đã rồi; trên đất liền thì Trung Quốc sẽ tiếp tục khống chế các vị trí các vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng nhằm khi chiến sự xẩy ra thì sẵn sàng cho phương án chia cắt Việt Nam thành nhiều phần mà không cần phải tốn nhiều công sức, thậm chí chỉ cần sử dụng lực lượng trá hình tại chỗ; và đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đến chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, tiếp nối quá trình vẫn đang diễn ra nhiều năm nay. Một khi bộ máy lãnh đạo chóp bu hoàn toàn bị thao túng, các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên cả nước bị khống chế và nền kinh tế trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc”, Việt Nam coi như lọt hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc và việc đi đến chỗ trở thành một Tây Tạng hay Tân Cương mới của Đại Hán chỉ còn là vấn đề thủ tục. Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng? Vấn đề lúc này đã trở nên rõ ràng: Ai sẽ là nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” trong kịch bản thâm độc và xảo quyệt thể hiện đúng bản chất của Trung Quốc như trên? Xin thưa, nhân vật đó không ai khác hơn đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật vẫn có những lời lẽ mạnh mẽ nhất nhằm vào Trung Quốc trong ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay? Và chẳng phải bản thân Hoàn Cầu Thời Báo từng mấy lần lên tiếng “cảnh báo” về lập trường “bài Hoa, thân Mỹ” của ông ta đấy sao? Xin thưa, bất chấp những tuyên bố “hùng hồn” của ngài Thủ tướng nhằm vào Trung Quốc, cũng như những lời “cảnh cáo” của báo chí Trung Quốc nhằm vào ông ta, Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một trong những người Việt Nam lập nhiều “chiến công” nhất cho Trung Nam Hải kể từ năm 1945 đến nay. Xin đơn cử:     Trước kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XII (tháng 7.2007), ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhất quyết đề cử ông Hoàng Trung Hải vào vị trí quan trọng thứ hai trong chính phủ: Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế. Mặc dù lúc đó một số cán bộ ở Ban Tổ chức Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã gửi Tâm Huyết Thư cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư để tố cáo lý lịch người Hán của ông Hoàng Trung Hải, nhưng vẫn không ngăn chặn được. Ngoài ra, ông Nguyễn Tấn Dũng còn tin tưởng giao phó cho ông ta vô số trọng trách quán xuyến nền kinh tế khác. Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có một người Hán nào, đặc biệt lại che dấu lý lịch với mưu đồ đen tối, leo lên đến vị trí gần như nắm trong tay cả nền kinh tế và gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ cho Việt Nam (nhưng đặc biệt có lợi cho Trung Quốc) suốt từ năm 2007 đến nay.          Năm 2005, tức trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi lên chiếc ghế Thủ tướng, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm 15,9%, với giá trị nhập siêu là 2,67 tỷ USD. Chín năm dưới quyền lãnh đạo của ông ta, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cứ tăng dần đều và đến năm 2014 thì lên tới 29,5%, với giá trị nhập siêu là 28,9 tỷ USD. Quý vị hãy hình dung thế này: cộng với giá trị nhập khẩu tiểu ngạch trá hình và hoạt động buôn lậu tràn lan từ Trung Quốc, ước chừng cứ 2 sản phẩm Việt Nam nhập khẩu từ bên ngoài thì có 1 sản phẩm “made in China”, và tỷ lệ đó vẫn đang tăng lên qua từng năm. Nếu xét thực tế phần lớn sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc là chất lượng thấp và độc hại thì đây thực sự là THẢM HOẠ đối với một nền kinh tế có độ mở nằm trong nhóm 5 nước cao nhất trên thế giới như Việt Nam. Đồ thị: Tỷ trọng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Trung Quốc trong tổng kim ngạch XNK của Việt Nam giai đoạn 2000÷2014 – Nguồn: VOA     Trong lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước của Việt Nam, mặc dù bị Trung Quốc xâm lược và đô hộ nhiều lần, nhưng chưa bao giờ người Trung Quốc “cắm chốt” được ở bất cứ đâu trên mảnh đất phương Nam này. Song đến nay, nhờ “công lao” của cặp bài trùng Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải mà Trung Quốc đã đặt chân vào và từng bước khống chế nhiều vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng ở Việt Nam: một loạt dự án thuê đất rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, dự án Formosa ở Vũng Áng, hai dự án du lịch của người Hoa trên đèo Hải Vân, dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận, v.v.          Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà thầu Trung Quốc trúng thầu đến 90% các dự án hạ tầng trọng điểm ở Việt Nam, với vô số hệ luỵ về an ninh – quốc phòng và những thiệt hại không thể đong đếm về kinh tế (chậm tiến độ hàng năm; chất lượng thấp; phụ thuộc vào Trung Quốc về phụ tùng và linh kiện thay thế, v.v.).          Với tư cách là người phụ trách Đảng uỷ Công an Trung ương kể từ năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật đóng vai trò quyết định trong chiến dịch đàn áp ngày càng khốc liệt nhằm vào phong trào chống Trung Quốc xâm lược ở Việt Nam nhiều năm qua. Những tiếng nói phản kháng Trung Quốc mạnh mẽ nhất như TS Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, nhà văn/blogger Phạm Viết Đào, blogger Anh Ba Sàm, nhà văn/blogger Nguyễn Quang Lập… đều lần lượt “được” ông ta cho vào “an dưỡng” trong tù. Mới đây, nhà văn/blogger yêu nước Phạm Viết Đào đã chỉ đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã chỉ đạo lực an ninh dưới quyền bắt bỏ tù ông cũng như nhiều blogger khác.          Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính là “tác giả” của bản Thông báo cấm biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh do UBND Tp Hà Nội ban hành ngày 18/8/2011. Theo nhà báo Huy Đức: “Ngày 2.8.2011, Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: ‘Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình. Để rồi, ngày 18.11.2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là ‘gây rối Thủ đô’, là có ‘các thế lực chống đối trong và ngoài nước’. Dân chúng nào biết tác giả bản thông báo này là Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những ‘tác phẩm báo chí’ bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.”     Cho đến nay, văn bản pháp lý quan trọng nhất của nhà nước Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa chính là Luật Biển do Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21.6.2012. Tuy nhiên, mặc dù cố tạo ra vẻ ta đây là nhân vật chống Tàu mạnh mẽ nhất trong bộ máy, ông Nguyễn Tấn Dũng lại không hề để lại bất kỳ dấu ấn nào trong quá trình ra đời của đạo luật. Đây được cho là một chiến thắng cá nhân của ông Trương Tấn Sang, người lúc bấy giờ còn cho thấy lập trường chống Trung Quốc rõ ràng. Không những vậy, tuy đã gần 3 năm trôi qua kể từ khi đạo luật này được thông qua,  chính phủ của TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa có bất kỳ động thái gì để triển khai thực hiện đạo luật đó, kể cả việc đơn giản nhất là ban hành nghị định hướng dẫn thực hiện.          Ông Nguyễn Tấn Dũng là một “bậc thầy” của trò “nói một đàng, làm một nẻo”. Điều này thì chẳng còn mấy ai lấy làm lạ nữa. Điều lạ ở đây là dường như ông ta càng “nói một đàng, làm một nẻo” thì lại càng có nhiều người tung hê và đặt niềm tin vào ông ta. Không ít người vẫn đang mơ màng là ông ta sẽ cải cách thể chế nếu nắm quyền hành trong tay, đơn giản là vì họ đã nhiều lần nghe ông ta hô hào “cải cách thể chế”, mà lần nào nghe cũng sướng tai. Xin hỏi, nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế, tại sao ông ta lại KHÔNG HỀ thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, điều mà ông ta đã lớn tiếng hô hào ngay từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai và hoàn toàn nằm trong phạm vi chức trách cũng như quyền hạn của ông ta. Kinh tế quyết định chính trị. Nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế chính trị, tại sao ông ta không tiến hành cải cách thể chế kinh tế để thúc đẩy cải cách chính trị? Tổng thống Obama từng hy vọng việc ký kết TPP với Việt Nam sẽ diễn ra trong năm 2013, vậy mà 2 năm sau đấy người ta vẫn chưa xác định được thời điểm ký kết. Nguyên nhân chủ yếu cho sự chậm trễ này là vì Việt Nam chậm tái cấu trúc nền kinh tế và thái độ “quyết liệt” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong việc đàn áp những người con ưu tú của đất nước dám cất lên tiếng nói đòi cải cách hệ thống và chống bá quyền Trung Quốc. (Dĩ nhiên, đây là điều mà Trung Quốc hết sức mong muốn.) Bên cạnh những gì đã trình bày trên đây là thực tế (i) hàng hoá Trung Quốc ngày càng tràn ngập thị trường Việt Nam, (ii) hoạt động buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc về Việt Nam ngày một phổ biến, (iii) làn sóng doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam đang âm thầm diễn ra, (iv) các nhà đầu tư Trung Quốc đang ráo riết săn lùng bất động sản Việt Nam, và (v) người lao động Trung Quốc nhan nhản trên khắp lãnh thổ Việt Nam – tất cả đều diễn ra dưới quyền cai quản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thử hỏi, kể từ năm 1945 đến nay, liệu còn người Việt Nam nào lập được nhiều “thành tích” cho Trung Quốc hơn ông Dũng? Những phát biểu hùng hồn của ông Dũng nhằm vào Trung Quốc và những lời “cảnh cáo” mà Hoàn Cầu Thời Báo nhằm vào ông Dũng chẳng qua chỉ là trò loè bịp dư luận do Trung Nam Hải giật dây, hòng tạo điều kiện cho con bài đắc dụng nhất của họ “ghi điểm” trong mắt công chúng Việt Nam hầu tiến tới thâu tóm ngôi vị tối cao tại kỳ Đại hội Đảng sắp đến. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định trước Quốc hội hôm 19.11.2014 rằng quan điểm của ông ta trong quan hệ với Trung Quốc là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Vậy ông ta sẽ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Trung Quốc như thế nào một khi trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam? Xin thưa, quá trình “Hán hoá” Việt Nam sẽ còn diễn ra nhanh hơn so với thời kỳ ông ta làm Thủ tướng, bởi lúc này chẳng còn thế lực nào ở Việt Nam đủ sức thách thức quyền lực của ông ta cả. Hãy nhìn lại 9 năm dưới “triều đại” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xem Việt Nam đã bị “Hán hoá” đến thế nào để hình dung ra bộ mặt Việt Nam 10 năm tới dưới “triều đại” của Tổng Bí thư/Tổng thống Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên, nếu trở thành Tổng Bí thư khoá tới, ông ta sẽ tiến hành cải cách thể chế “theo cách của 3X” vào cuối nhiệm kỳ để dọn đường cho mình trở thành “Putin của Việt Nam”. Tác giả bài viết này là người vẫn đang theo đuổi vụ tố cáo đối với PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và (nguyên) TBT Nông Đức Mạnh kể từ năm 2008 đến nay, nhưng không hề được giải quyết đúng pháp luật, trong bối cảnh ngay cả ĐBQH Dương Trung Quốc, người tiếp nhận đơn thư của chúng tôi, cũng đã bị PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải khống chế và thao túng, mặc dù vụ việc đã được truyền thông quốc tế nhiều lần đưa tin. Trong câu chuyện tố cáo, tác giả đã nêu rõ ông Hoàng Trung Hải (và sau lưng ông ta là Trung Nam Hải) đã gài bẫy và khống chế được ông Nguyễn Tấn Dũng. Vì thế, ông ta đã nhất quyết đặt ông Hoàng Trung Hải vào vị trí PTT phụ trách kinh tế, và ra sức bảo vệ nhân vật đầy tai tiếng và mờ ám này. Bản thân vợ tác giả, cô Lê Thị Phương Anh, nhân chứng sống của vụ án và từng là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma tuý của PTT Hoàng Trung Hải, lại đang bị Công an Đồng Nai bắt giam và truy tố trái phép từ ngày 15.5.2014. Bộ Ngoại giao Mỹ từng nêu vụ Lê Anh Hùng, người tố cáo cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Tấn Dũng, bị cưỡng chế vào trại tâm thần từ ngày 24.1 ÷ 5.2.2013 như một vụ vi phạm nhân quyền tiêu biểu của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm 2013. Dưới áp lực của dư luận, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn điềm nhiên tuyên bố dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Với dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân thì mặc dù Bộ Quốc phòng đã chính thức có văn bản kiến nghị dừng dự án từ ngày 28.11.2014 song đến nay ông ta vẫn chưa hề hé răng lấy nửa lời, dù trước đấy ông ta đã hứa “sẽ xem xét lại”. Nếu đối thủ của ông ta không “xì” tin cho báo chí lên tiếng thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông ta “xem xét lại” ở đây cả. Tương tự, nếu đối thủ của ông ta không “xì” ra cho báo chí biết chuyện Cty Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đòi thành lập đặc khu kinh tế trực thuộc Văn phòng Chính phủ thì nay Formosa Hà Tĩnh đã trở thành một “tiểu quốc” của Đại Hán trực thuộc PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải rồi (dù trên thực tế nó đã trở thành đặc khu Trung Quốc từ lâu). Đặc biệt, nếu truyền thông quốc tế không kịp thời loan tin thì âm mưu lập căn cứ tại Cửa Việt của Trung Quốc cũng đã trở thành hiện thực. Theo voatiengviet.com
......

Mừng Xuân Ất Mùi 2015 tại Mönchengladbach

Mừng Xuân Ất Mùi 2015 tại Mönchengladbach do Hội Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Mönchengladbach tổ chức: Thứ Bảy 28.02.2015, từ 16g00 đến 24g00 tại Hội trường Mehrzweckhalle, Neuwerk Gathersweg 55, 41066 Mönchengladbach Hội Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Mönchengladbach e.V Verein der vietnamesichen Flüchlinge in Mönchengladbach e.V Nguyễn Văn Rị, Dahlenerstr. 687, 41239 Mönchengladbach Tel.: 02166 – 340153 Mönchengladbach, ngày 25.01.2015 Thư Mời Kính gửi: Quý Vị chức sắc các tôn giáo, Quý Cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản, Quý Hội đoàn và Quý Đồng hương Kính thưa Quý Vị, Trong chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ, mùa Xuân là mùa đánh dấu sự nẩy mầm, phát triển sự sống của muôn loài, muôn vật. Đối với người Việt Nam, ngày đầu mùa Xuân hay còn gọi là ngày Tết, là ngày quan trọng. Vào ngày này, dù ở phương trời nào người Việt cũng đều hướng về quê cha, đất tổ để nguyện cầu cho quốc thái, dân an; mong sao cho quê hương Việt Nam sớm được tự do no ấm, xã hội công bằng bác ái. Ngày Tết còn gợi lại cho chúng ta như „Một ngày sinh nhật chung của tất cả mọi người“ để cùng mừng tuổi và chúc nhau những lời tốt đẹp nhất trong nụ cười tươi thắm trên môi;… Ngày Tết quả thật là Ngày Hội lớn! Để cùng nhau gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông cho thế hệ mai sau, Hội Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Mönchengladbach – Niederrhein, với sự hỗ trợ của nhiều Hội đoàn tại Đức và lân bang Pháp, Bỉ, Hòa Lan… sẽ tổ chức Hội Tết Ất Mùi 2015 vào ngày Thứ Bảy 28.02.2015, từ 16 giờ 00 đến 24 giờ 00 tại Hội trường Mehrzweckhalle, Neuwerk Gathersweg 55, 41066 Mönchengladbach, Neuwerk Trân trọng kính mời Quý Vị bớt chút thời giờ đến tham dự ngày Hội Xuân ấm cúng và đầy tình tự dân tộc. Sự hiện diện của Quý Vị sẽ là niềm vinh hạnh chung cho BTC chúng tôi. Chân thành kính chúc Quý Vị một Năm Mới an khang thịnh vượng và vạn sự như ý. Trân trọng kính mời T/M Ban Chấp Hành / Trưởng Ban Tổ Chức Hội Trưởng Nguyễn Văn Rị
......

Cô gái trẻ dấn thân vào sứ mạng truyền thông vì người nghèo

Một cô gái trẻ bị mất việc, bị đuổi khỏi nhà trọ, bị cấm xuất cảnh, bị công an câu lưu, hành hung, xúc phạm nhân phẩm vì cộng tác cho một trang báo độc lập không thuộc ‘lề đảng’ nhưng vẫn bất chấp mọi hiểm nguy đe dọa để theo đuổi sứ mạng truyền thông vì người nghèo. Cô Anna Huyền Trang, một trong số các thành viên nồng cốt của truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế Saigon Photo Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng ‘Chúng mình là người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn. Đừng để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn. Anna Huyền Trang Đó là câu chuyện của cô Anna Huyền Trang, một trong số các thành viên nồng cốt của truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) ở Sài Gòn. Trang bắt đầu làm cộng tác viên cho DCCT vào năm 2011. Sau khi công an áp lực chỗ làm đuổi việc cô, từ đầu năm ngoái, Trang đã bỏ hẳn công việc chuyên ngành kinh tế để trở thành phóng viên toàn thời gian của truyền thông DCCT, ngược xuôi khắp nơi để đưa ra ánh sáng những câu chuyện oan khuất, những tiếng nói của người dân thấp cổ bé miệng, những thông tin không được báo chí nhà nước đề cập tới. Ngoài việc đi thu thập tin tức, phỏng vấn, viết bài cho trang web Dòng Chúa Cứu Thế, Trang còn đảm trách biên tập chương trình Cà Phê Tối, một trong sáu chương trình truyền hình của Dòng Chúa Cứu Thế, chuyên điểm tin hằng ngày và bình luận các sự kiện thời sự liên quan tới Việt Nam. Hai trong số những lần Trang bị bắt bớ, hành hung được dư luận biết đến là lần cô vô cớ bị công an phường Cầu Kho (quận I, TPHCM) cưỡng chế về đồn hồi tháng 10/2012, bị tra tấn, bị lột quần áo để khám xét, theo tường thuật chi tiết cô công khai trên các trang mạng xã hội sau đó; và lần cô bị đánh ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất và bị tịch thu hộ chiếu trước khi lên đường tham gia hội thảo về tự do báo chí tại Quốc hội Mỹ với tư cách là một nhà báo độc lập từ Việt Nam nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới 3/5 năm ngoái, theo lời mời của hai dân biểu liên bang Hoa Kỳ. Những hình ảnh Trang và bạn bè của cô ghi được về vụ việc này sau đó đã được phổ biến rộng rãi trên internet. Trong môi trường kiểm duyệt chặt chẽ thông tin, không dung chấp ý kiến bất đồng, và bằng mọi cách ngăn chặn truyền thông độc lập như tại Việt Nam, tường thuật tin tức không theo lề đảng là một việc làm hết sức nguy hiểm mà những bản án liên tiếp dành cho các nhà báo-blogger tự do trong nước đã chứng minh rõ nét. Vậy sức mạnh nào đã thôi thúc cô gái đôi mươi gầy gò, mảnh khảnh ấy dấn thân vào sứ mạng truyền thông vì những người không có tiếng nói trong xã hội? Tạp chí Thanh Niên VOA mời quý vị và các bạn cùng tìm hiểu qua cuộc trò chuyện với Anna Huyền Trang trong chương trình hôm nay. Bấm vào nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn http://www.voatiengviet.com/content/co-gai-tre-dan-than-vao-su-mang-truy... Anna Huyền Trang: Trước khi em cộng tác với truyền thông DCCT, em đã tham gia các hoạt động xã hội trong thời gian dài bắt đầu từ năm học lớp 12, vì thời gian đó em có cơ hội tiếp xúc rất nhiều trẻ em đường phố, những người nghiện ma túy, và những người nhiễm HIV. Em cũng tham gia các hoạt động truyền thông bảo vệ sức khỏe cho họ. Điều này em được gặp lại trong sứ mạng của truyền thông DCCT, nên đã thu hút em tham gia, và em đã có nhiều dịp tiếp cận với các mảnh đời tan thương, bất hạnh do chính thể chế độc tài tạo nên. Trà Mi: Cộng tác với truyền thông DCCT từ bấy tới nay, Trang đã rút ra cho mình những kinh nghiệm thế nào trong hoạt động truyền thông độc lập, đa chiều? Anna Huyền Trang: Trong quá trình cộng tác, em đã nâng lên được khả năng tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau, gặp được nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn như tụi em đến với những dân oan mất đất để tìm hiểu sự việc của họ và viết tin đúng sự thật. Trà Mi: Làm truyền thông theo ‘lề dân’ rất nhiều khó khăn. Bạn trang bị cho mình sự chuẩn bị ứng phó về mặt tinh thần như thế nào? Anna Huyền Trang: Phóng viên tự do gặp rất nhiều đe dọa về tính mạng. Mình biết sẽ bị tóm cổ bất cứ lúc nào, nhưng đó đúng là điều ‘thú vị’ nhất ở Việt Nam đấy chị. Em luôn chuẩn bị là công an sẽ bắt mình. Em và các bạn em cũng sẵn sàng cho điều đó. Trà Mi: Biết có thể bị bắt bất cứ lúc nào, bạn có cách gì để tự vệ trước những rủi ro đó? Cô Anna Huyền Trang Trang biên tập chương trình truyền hình Cà Phê Tối của DCCT, chuyên điểm tin và bình luận các sự kiện thời sự liên quan tới Việt Nam Anna Huyền Trang: Trước khi đi tác nghiệp, mình thông báo cho những người bạn của mình biết địa điểm và thời gian. Nếu trong thời gian đó các bạn không thấy mình liên lạc thường xuyên thì biết là mình đã gặp rủi ro. Chính những người bạn của em là những người giám sát em trong quá trình em tác nghiệp. Trà Mi: Từ lúc mới bước vào truyền thông DCCT tới nay, Trang thấy mình có gì thay đổi khác xưa, đã học hỏi được những gì? Anna Huyền Trang: Điều thay đổi lớn nhất là em ý thức hơn vai trò của một công dân đối với đất nước, mình không thể câm lặng trước các vấn nạn của xã hội ví dụ như tham nhũng hay việc Trung Quốc xâm lấn biển đảo của Việt Nam. Trà Mi: Có thể kể mình nghe một vài trường hợp đã kinh qua với vai trò một ký giả độc lập trong môi trường kiểm soát chặt chẽ thông tin ở Việt Nam? Anna Huyền Trang: Cuối tháng 10/2012 sau khi đi lấy tin về phiên sơ thẩm hai nhà sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, em bị công an bắt về phường Cầu Kho.  Em bị các nhân viên công quyền đánh đập, hành hung, lột đồ ra để khám xét. Cũng có vài lần bị bắt khác nhưng em không có gì là sợ cả. Họ đe dọa rất nhiều về tính mạng và gia đình mình. Họ hỏi ‘Mày là ai?’ Em nói ‘Tôi là phóng viên DCCT.’ Họ hỏi ‘Thẻ nhà báo đâu? Chúng mày là dân phản động làm gì mà có thẻ nhà báo của nhà nước.’ Từ đó, em thấy họ rất miệt thị các phóng viên tự do như tụi em và cần tác động làm sao để mọi người quan tâm nhiều hơn đến các phóng viên tự do chưa được các tổ chức xã hội bảo vệ. Trà Mi: Bị miệt thị trong một xã hội mà mọi chuyện đều nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước rõ ràng là một bất lợi rất lớn cho các sinh hoạt hằng ngày và những giao tiếp xã hội. Những bất lợi, thiệt thòi đó đối với bản thân Trang thấy thế nào? Anna Huyền Trang: Em không cảm thấy bị tủi thân vì họ có quyền làm điều đó với mình. Còn mình phải nghĩ khác, phải làm thế nào để giúp họ thay đổi và nhận ra được những giá trị mà các anh em dân chủ đang đấu tranh vì lợi ích của đất nước, xã hội, và con người Việt Nam chứ không phải như những gì nhà nước này rêu rao rằng là ‘phản động.’ Những người đấu tranh dân chủ nhìn thấy công việc mình làm mang lại nhiều ý nghĩa cho xã hội, cho người nghèo, mà cũng mang lại niềm vui cho mình nữa thì tại sao mình phải tủi hổ? Tại sao mình lại buồn trước những ánh mắt lạ lùng đó? Em tin một ngày nào đó những ánh mắt lạ lùng đó sẽ quý mến mình. Chỉ cách đây 1 năm, bạn bè em cũng nhìn em soi mói, xét đoán công việc của em, nhưng rồi các bạn em theo dõi công việc của em trên facebook và dần hiểu được công việc em làm. Bây giờ, chính các bạn đã ủng hộ em. Trà Mi: Gia đình phản ứng thế nào trước những việc làm của Trang? Anna Huyền Trang: Bố mẹ em rất lo cho em. Họ từng bị an ninh mời lên làm việc hỏi về việc em làm. Thế nhưng, bố mẹ em muốn em sống tốt, trở thành người tốt, đó là cách em báo hiếu cho bố mẹ. Trà Mi: Nói về vui-buồn của một nhà báo tự do trong nước, Trang sẽ chia sẻ những gì? Anna Huyền Trang: Em cảm nhận được niềm vui thật sự trong nhóm truyền thông DCCT. Mọi người rất quý mến nhau, xem nhau như một gia đình vì không biết mỗi người sẽ bị bắt lúc nào, nên quý nhau từng ngày. Tụi em chưa bao giờ cảm thấy mặc cảm hay bị bỏ rơi vì mình biết con đường mình đang đi là đúng, có ích cho xã hội. Đó là niềm vui. Lần đầu tiên bị bắt, em cũng buồn và sợ lắm vì họ đánh, họ nhục mạ. Nhưng chính lúc trong đồn công an đó mình mới nhận ra được bản chất của chế độ. Nhờ đó, giúp mình có thêm sức mạnh. Trong nhóm chúng em đã có 3 người bị bắt là Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn, và Trần Minh Nhật. Trà Mi: Trang có bao giờ nghĩ nếu không may mình bị như họ cuộc đời mình sẽ ra sao, tương lai mình sẽ như thế nào? Anna Huyền Trang: Tụi em luôn luôn nghĩ rằng không sớm thì muộn tụi em sẽ có cơ hội được ăn bánh mì mốc. Có người đang đe dọa em điều đó mà. Tuy nhiên, cá nhân em nghĩ việc này có thể là một trải nghiệm cho đời sống tâm linh của một người Kytô hữu. Em cảm nhận được điều này trong cuốn sách của đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, người đã từng bị nhà cầm quyền cộng sản bỏ tù mà không thông qua một phiên tòa xét xử nào. Chính cuộc đời của Ngài đã tác động em rất nhiều. Em tin những việc em đang làm hiện nay là đúng. Trà Mi: Cũng có người nói rằng truyền thông độc lập, báo chí không theo lề đảng không bao giờ đưa tin tốt hoặc nói gì hay cho nhà nước cả. Lúc nào cũng nói những điều không tốt, không hay cho nhà nước thì phải chăng đó là một sự ‘chống đối’? Phản hồi của Trang thế nào? Anna Huyền Trang: Nhà cầm quyền luôn ra rả ‘dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.’ Do đó, bản thân em là một công dân nước Việt Nam đang thực hiện quyền giám sát các hoạt động của nhà cầm quyền để họ làm tốt hơn, phục vụ dân tốt hơn. Nếu ai đó nghĩ em là người ‘chống đối’ hay ‘phản động’ thì chính họ đang đi ngược lại những chính sách mà nhà nước đang khuyến khích. Trà Mi: Với các bạn trẻ ở Việt Nam không biết nhiều hoặc không mấy quan tâm đến truyền thông độc lập, Trang muốn chia sẻ điều gì với họ? Anna Huyền Trang: Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng ‘Chúng mình là người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn. Đừng để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn. Trà Mi: Cảm ơn Trang rất nhiều vì thời gian dành cho cuộc trao đổi hôm nay. Nguồn: voatiengviet.com
......

Cuốn sách nguy hiểm nhất thế giới?

Cuốn sách ‘Mein Kampf’ (Con đường đấu tranh của tôi) của Adolf Hitler sẽ hết thời hạn bản quyền ở Đức vào năm 2015. Điều gì sẽ xảy ra khi giới chức không còn có thể kiểm soát việc in ấn và phát hành cuốn sách này? Xuất bản hay đốt bỏ? (Carl de Souza/Getty Images) “Họ muốn biến nó thành Kinh Thánh,” ông Stephan Kellner, một chuyên gia sách hiếm, thì thầm trong một căn phòng yên ắng ở thư viện bang Bavaria. Ông giải thích bằng cách nào mà Đức Quốc xã đã biến một cuốn sách kể lể – nửa là hồi ký, nửa là tuyên truyền – thành tài liệu trung tâm trong ý thức hệ của Đệ tam Đế chế? Khi Mein Kampf hết thời hạn bản quyền thì cũng có nghĩa là về mặt lý thuyết bất cứ ai cũng có thể xuất bản tác phẩm này ở Đức. Một chương trình mới trên đài phát thanh BBC 4 đã tìm hiểu giới chức Đức sẽ làm gì với cuốn sách tai tiếng nhất trên thế giới này. Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.New York Times viết trong một bài xã luận Theo nhà sản xuất chương trình có tên là ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, cuốn sách này vẫn là một tài liệu nguy hiểm. “Lịch sử về Hitler là những câu chuyện hạ thấp Hitler và người ta đã hạ thấp cuốn sách này,” ông John Murphy, người có ông nội đã dịch bản tiếng Anh đầy đủ đầu tiên của Mein Kampf hồi năm 1936, nói. “Có lý do để chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc bởi vì người ta có thể diễn dịch sai nó. Mặc dù Hitler viết cuốn sách này vào những năm 1920, những gì mà ông ta viết ông ta đã thực hiện. Nếu lúc đó người ta để ý một chút có lẽ họ đã nhận ra mối đe dọa,” ông nói. Hitler bắt đầu viết Mein Kampf khi còn ở trong tù vì tội phản quốc sau cuộc nổi dậy thất bại ở Munich hồi năm 1923. Cuốn sách đề ra quan điểm phân biệt chủng tộc và bài Do Thái. Một thập niên sau đó khi Hitler giành được quyền lực thì cuốn sách này đã trở thành tài liệu chủ chốt của Đức Quốc xã. 12 triệu bản đã được in và được phát cho các cặp vợ chồng mới cưới trong khi các bản mạ vàng được trưng bày trang trọng trong nhà của các quan chức. Cuốn sách là cương lĩnh chính trị của Đức Quốc xã Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi quân đội Mỹ chiếm được nhà xuất bản Eher Verlag của Đảng Quốc xã, bản quyền Mein Kampf chuyển sang chính quyền bang Bavaria. Họ đảm bảo rằng cuốn sách này chỉ được tái bản ở Đức trong những trường hợp đặc biệt. Nhưng với việc bản quyền của nói hết hạn vào tháng 12 năm 2015 thì tại Đức đã nổi lên tranh luận gay gắt về việc làm cách nào để ngăn chặn mọi người tự do in ấn nó. Làm sao ngăn được? “Chính quyền bang Bavaria đã dùng bản quyền để kiểm soát việc xuất bản Mein Kampf nhưng sự kiểm soát đó sắp kết thúc – điều gì sẽ xảy ra?” ông Murphy nói, “Đây vẫn là một cuốn sách nguy hiểm – hiện đang có những vấn đề với bọn phát xít mới và nguy cơ người ta diễn giải sai nó nếu nó không được đặt trong đúng bối cảnh.” Một số người đặt vấn đề liệu có ai đó muốn tái bản cuốn sách này hay không. “Nó đầy những lời lẽ khoa trương, khó theo dõi, những vụn vặt lịch sử và những sợi chỉ tư tưởng rối nùi mà cả những kẻ tân phát xít cũng như các sử gia đều muốn né tránh.” Hitler viết Mein Kampf khi đang ở trong tù Vậy mà Mein Kampf trở nên được yêu thích ở Ấn Độ với các chính trị gia có xu hướng theo chủ nghĩa dân tộc. “Nó được xem là một cuốn sách tự học rất ý nghĩa,” Atrayee See, giảng viên về tôn giáo và xung đột đương đại ở Đại học Manchester, nói, “Nếu loại phần nói về chủ nghĩa bài Do Thái ra thì nó là cuốn sách về một người đàn ông mơ chinh phục thế giới và muốn thực hiện ước mơ này.” Việc đặt cuốn sách này khỏi bối cảnh của nó là một trong những lo sợ của những người phản đối việc tái bản. Trong chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, ông Ludwig Unger, phát ngôn nhân của Bộ Giáo dục và Văn hóa bang Bavaria, nói. “Hậu quả của cuốn sách này là hàng triệu người thiệt mạng, hàng triệu người bị ngược đãi, nhiều nước chìm vào chiến tranh. Điều quan trọng là bạn phải luôn nhớ những điều này. Khi đọc một số đoạn trong sách bạn luôn phải có những nhận định lịch sử phản biện phù hợp.” Khi bản quyền hết hạn, Viện Sử học Đương đại Munich có kế hoạch đưa ra một ấn bản mới của Mein Kampf. Ấn bản này sẽ kết hợp bản gốc với những lời bình luận chỉ ra những thiếu sót và xuyên tạc sự thật trong cuốn sách. Một số nạn nhân của Đức Quốc xã đã lên tiếng phản đối cách làm này trong khi chính quyền bang Bavaria rút lại sự ủng hộ sau khi những người sống sót trong nạn diệt chủng người Do Thái chỉ trích. Hàng triệu người Do Thái là nạn nhân trong các trại tập trung của Hitler Nhưng chôn vùi cuốn sách này có lẽ không phải là cách làm hay. Một bài xã luận trên tờ New York Times lập luận: “Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.” Murphy thừa nhận rằng một lệnh cấm cuốn sách xuất bản trên toàn cầu là không thể thực hiện được. “Điều này phụ thuộc nhiều vào việc chính quyền Bavaria có lập trường. Họ phải đưa ra lập trường ngay cả khi trong thế giới hiện đại họ sẽ không thể ngăn chặn người ta tiếp cận cuốn sách.” Chris Bowlby, người dẫn chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’ cho rằng những hành động biểu tượng vẫn có ý nghĩa. Sau thời hạn bản quyền, bang Bavaria dự định sẽ dùng điều luật cấm kích động hận thù sắc tộc để truy tố những ai xuất bản cuốn sách này. “Theo quan điểm của chúng tôi thì tư tưởng của Hitler đồng nghĩa với khái niệm về sự kích động,” ông Ludwig Unger nói, “Nói là một cuốn sách nguy hiểm nếu ở trong tay không đúng người.” Bản tiếng Anh bài này đã được đăng trên BBC Culture. Mein Kampf: The world’s most dangerous book? By Fiona Macdonald (Carl de Souza/Getty Images) Adolf Hitler’s Mein Kampf falls out of copyright in Germany at the end of 2015. What will happen when authorities can no longer control its publication and distribution? A new BBC programme examines the issues. “They wanted to replace the Bible.” Whispering in a hushed room of the Bavarian State Library, rare books expert Stephan Kellner describes how the Nazis turned a rambling, largely unreadable screed – part memoir, part propaganda – into a central part of the Third Reich’s ideology. As Mein Kampf comes out of copyright – meaning that, in theory, anyone could publish their own editions in Germany – a new programme on BBC Radio 4 explores what authorities can do about one of the world’s most notorious books. According to the producer of Publish or Burn, which will be broadcast on January 14, it remains a dangerous text. “The history of Hitler is a history of underestimating him; and people have underestimated this book,” says John Murphy, whose grandfather translated the first unabridged English language version in 1936. “There’s a good reason to take it seriously because it is open to misinterpretation. Even though Hitler wrote it in the 1920s a lot of what he said in it, he carried out – if people had paid a bit more attention to it at the time maybe they would have recognised the threat.” Hitler began writing Mein Kampf while in prison for treason after the failed 1923 ‘Beer Hall’ putsch in Munich, outlining his racist, anti-Semitic views. Once he gained power a decade later, the book became a key Nazi text, with 12m copies printed; it was given to newly married couples by the state and gold-leaf editions were displayed prominently in the homes of senior officials. At the end of World War Two, when the US Army seized the Nazis’ publisher Eher Verlag, rights for Mein Kampf passed to the Bavarian authorities. They ensured the book was only reprinted in Germany under special circumstances – but the expiration of its copyright in December 2015 has prompted fierce debate on how to curb a publishing free-for-all. “The Bavarians have used copyright to control republication of Mein Kampf but that control is coming to an end – what happens next?” says Murphy. “This is still a dangerous book – there are issues with neo-Nazis, and a danger of people misinterpreting it if it’s not put into context.” Chapter and verse Some question whether anyone would want to publish it – according to the New Yorker, “It is full of bombastic, hard-to-follow clauses, historical minutiae, and tangled ideological threads, and both neo-Nazis and serious historians tend to avoid it.” Yet the book has become popular in India with politicians who have Hindu nationalist leanings. “It is considered to be a very significant self-help book,” Atrayee Sen, a lecturer in contemporary religion and conflict at the university of Manchester, tells Radio 4. “If you take the element of anti-Semitism out, it is about a small man who was in prison who dreamt of conquering the world and set out to do it.” The removal of context is one of the fears of those opposed to republication. In Publish or Burn Ludwig Unger, spokesman for the Bavarian Ministry of Education and Culture, says:  “The result of this book was that millions of people were killed, millions were maltreated, whole areas were overrun with war. It’s important to keep this in mind and you can do that when you read certain passages with appropriate critical historical commentary.” When the copyright expires, the Institute for Contemporary History in Munich plans to bring out a new edition of Mein Kampf that combines the original text with a running commentary pointing out omissions and distortions of the truth. Some victims of the Nazis oppose this approach, and the Bavarian government withdrew its support for the Institute after criticism from Holocaust survivors. Yet suppressing the book might not be the best tactic – an op-ed in the New York Times argued that: “The inoculation of a younger generation against the Nazi bacillus is better served by open confrontation with Hitler’s words than by keeping his reviled tract in the shadows of illegality.” Murphy acknowledges that a global ban on the book is impossible. “This is more to do with the Bavarian authorities making a point, rather than really being able to control it. They have to take a stand, even if in the modern world it won’t prevent people getting access.” Publish or Burn’s presenter Chris Bowlby argues that symbolic actions still matter. After the copyright expires, the state plans to prosecute using the law against incitement to racial hatred. “From our point of view Hitler’s ideology corresponds to the definition of incitement,” says Ludwig Unger. “It’s a dangerous book in the wrong hands.” Mein Kampf: Publish or Burn? will be broadcast on Radio 4 at 11am on January 14. http://www.bbc.com/culture/story/20150113-the-worlds-most-dangerous-book
......

Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Duyệt ra tù sau hai ngày cha mất

Tù nhân lương tâm, anh Nguyễn Văn Duyệt, đã ra tù và trở về đoàn tụ với gia đình. Anh trở về trong niềm vui của gia đình, bạn bè và bà con lối xóm, nhưng cũng là trở về trong nước mắt, nỗi nghẹn ngào vì cha của anh mới qua đời. Trên FB Hoanh Paul cho biết, “Đúng 11h15 hôm nay, TNLT Nguyễn Văn Duyệt đã về đến nhà” Vừa về tới nhà, lập tức anh Nguyễn Văn Duyệt “chạy ra nghĩa trang khấu đầu trước nấm mồ của bố” Cha của anh Nguyễn Văn Duyệt, ông Nguyễn Văn Chức mới qua đời hôm 27.01.2015 vừa qua, và ông được an táng vào chiều hôm sau 28.01. Như vậy, anh Nguyễn Văn Duyệt trở về nhà chỉ sau hai ngày cha anh được chôn cất. Anh Duyệt sẽ mãn hạn tù vào ngày 07.02.2015 tới đây, nhưng anh “được ra sớm để về chịu tang cha.”. Nhưng cái cách chính quyền “ân ban” cho anh Nguyễn Văn Duyệt dường như lại càng làm tăng nỗi đau nơi anh. Câu hỏi được đặt ra, là làm sao người ta không cho anh về với gia đình sớm hơn vài ngày để hai cha con có thể được gặp nhau lần cuối? FB Hoanh Paul cho biết: “Ông Chức bị bệnh đã lâu và được con cháu chăm sóc tận tình, trong những ngày bệnh, ước mong lớn nhất của ông là được gặp mặt con là TNLT Nguyễn Văn Duyệt lần cuối. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ còn 7 ngày nữa là anh Duyệt ra khỏi nhà tù CSVN, nhưng tiếc thay mong muốn của ông không được thực hiện.” Được biết anh Nguyễn Văn Duyệt thuộc Giáo xứ Yên Hòa, Giáo Phận Vinh, anh là một trong 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt vào hồi cuối năm 2011 và đem ra xử vào tháng 01.2013. Cùng với anh Nguyễn Văn Duyệt, trong Giáo xứ Yên Hoàn còn có ba thanh niên khác bị bắt vào dịp này, bao gồm anh Hồ Đức Hòa, Nguyễn Văn Oai và anh Hồ Văn Oanh. Anh Nguyễn Văn Duyệt bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam và 4 năm quản chế theo khoản 2 của điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam về tội ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Một số hình ảnh anh Nguyễn Văn Duyệt ra phủ phục trước một bố anh và gia đình, bạn bè, làng xóm đến thăm hỏi anh. Ảnh trên FB Hoanh Paul Pv. VRNs Anh trở về trong niềm vui của gia đình, bạn bè và bà con lối xóm, nhưng cũng là trở về trong nước mắt, nỗi nghẹn ngào vì người cha anh mới qua đời. Anh Nguyễn Văn Duyệt khấu đầu trước nấm mộ còn ướt của cha   Cha của anh Nguyễn Văn Duyệt, ông Nguyễn Văn Chức mới qua đời hôm 27.01.2015 vừa qua, và ông được an táng vào chiều hôm sau 28.01   Bà con lối xóm Giáo xứ Yên Hòa đến thăm hỏi anh   Anh Duyệt là một trong 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt vào hồi cuối năm 2011 và đem ra xử vào tháng 01.2013   Anh Nguyễn Văn Duyệt bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam và 4 năm quản chế theo khoản 2 của điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam về tội ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Nguồn: chuacuuthe.com
......

Hướng về phiên tòa ngày 12/2/2015 tại Đồng Nai

Ngày 12/2/2015, Tòa án tỉnh Đồng Nai đem ba bạn trẻ Lê Thị Phương Anh - Đỗ Nam Trung (Trung Nghĩa) - Phạm Minh Vũ (Sep Pham) ra xét xử theo điều 258 của Bộ luật hình sự. Chúng tôi đăng bức thư của Lê Anh Hùng, chồng Lê Thị Phương Anh gửi qua email kèm theo bản cáo trạng. Theo cáo trạng, ba bạn trẻ này bị bắt khi đang quay phim và ghi hình. Điều này cho thấy việc bắt bớ này là không có cơ sở pháp luật. Nhà văn Nguyễn Tường Thụy Photo Ngoài “tội” ghi hình, cáo trạng nêu ra việc họ tham gia mạng xã hội, kết bạn, nhận xét một vài câu về chế độ, có nhận tiền của những ai đó, đó là những hành vi không cấu thành tội. Vụ bắt Lê Thị Phương Anh - Đỗ Nam Trung - Phạm Minh Vũ rất giống vụ bắt Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh ở chỗ bắt vô cớ, bố trí bắt ở tỉnh lẻ rồi nại ra cáo trạng nhằm bỏ tù cho bằng được. Hãy hướng về phiên tòa ở Đồng Nai ngày 12/2/2015 để ủng hộ, bênh vực ba bạn trẻ. ================= Blogger Lê Anh Hùng Kính gửi: Quý Ban Biên tập Vụ án Lê Thị Phương Anh – Phạm Minh Vũ – Đỗ Nam Trung “vi phạm” Điều 258 BLHS sẽ được Toà án Nhân dân Đồng Nai đưa ra xét xử vào ngày 12.2 tới đây, lùi lại 2 ngày so với lịch trước đó. Vì vậy, kính mong quý BBT đăng Kết luận Điều tra (http://www.leanhhung.com/2015/01/ket-luan-ieu-tra-cua-cong-ong-nai-ve-vu...) và Cáo trạng (http://www.leanhhung.com/2015/01/cao-trang-cua-vien-ksnd-ong-nai-ve-vu.html) của Cơ quan An ninh Điều tra và Viện KSND tỉnh Đồng Nai về vụ án này. Tôi xin dẫn thêm link đăng Kết luận Điều tra của Công an Quảng Trị năm 2010 về vụ “Lê Anh Hùng phạm tội vu khống” (http://www.leanhhung.com/2012/06/cong-quang-tri-bat-le-anh-hung-25122009...) để quý vị đối chiếu thêm. Trang 6 trong KLĐT của CA Quảng Trị viết về quá trình bản thân của tôi khác hoàn toàn với phần viết về nhân thân của vợ tôi: Vợ chồng tôi cưới nhau vào ngày 24.5.2003 và đến ngày 2.11.2005 mới vào Đông Hà (các mốc thời gian này có thể hiện trong bản KLĐT của CA Quảng Trị – phần này trong KLĐT là đúng, vì họ phải điều tra, kiểm chứng các mốc thời gian mà tôi đã thuật lại), nhưng KLĐT của CA Đồng Nai lại viết là chúng tôi cưới nhau năm 2002 và năm 2003 hai vợ chồng chuyển vào Đông Hà. Mục đích của họ là muốn che giấu quãng thời gian từ tháng 4÷11.2005, khi Phương Anh làm việc cho Cty May Việt Tiến (chi nhánh miền Bắc) và bị lừa tham gia vào đường dây ma tuý của PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải. Tôi rất mong quý BBT viết và đăng bài phản biện lại bản KLĐT và Cáo trạng bịa đặt và vu khống này (chẳng hạn như việc họ chỉ lấy lời khai [?] một chiều của vợ tôi để khẳng định là tôi đã ép buộc cô ấy phạm tội vu khống lãnh đạo nhà nước). Đây là 2 bài của Người Buôn Gió: Phản bác việc Viện KSND tỉnh Đồng Nai truy tố Đỗ Nam Trung và hai người bạn theo Điều 258 – Phần 1 và Phản bác việc Viện KSND tỉnh Đồng Nai truy tố Đỗ Nam Trung và hai người bạn theo Điều 258 – Phần 2. (Xem thêm: ĐBQH Dương Trung Quốc đã bị PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải khống chế? và các tài liệu liên quan đến vụ việc của chúng tôi ở đây: http://www.leanhhung.com/search/label/V%E1%BB%A5%20%C3%A1n%20LA%20H%C3%B...) Kính mong quý vị quan tâm, lên tiếng bảo vệ lẽ phải, bênh vực chúng tôi, những người đã đánh cược cả tính mạng của mình để nói lên sự thật nhằm bảo vệ đất nước kể từ năm 2008 đến nay. Trân trọng cám ơn quý vị! Lê Anh Hùng Nguồn: ntuongthuy.blogspot.com
......

Lãnh Đạo Hai Mang

Bắt Cá Hai Tay Trên Thiên Đường là một tiểu thuyết hư cấu dành cho giới trẻ tuổi teen Hàn Quốc. Tác giả ký tên là Aramis. Truyện được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả Quốc Đạt. Nghe nói bán khá chạy một dạo. Một tác giả khác viết cùng chủ đề và tỏ ra tài ba nổi trội, đến mức nâng toàn bộ hành vi bắt cá hai tay lên tầm Nghệ Thuật Lãnh Đạo Hai Mang… Kính mời đồng bào cả nước đón đọc quyển sách để đời, lừng danh kim cổ, của kịch tác gia kiêm ảo thuật gia kiêm chính trị gia kiêm đại hoạ sĩ Nguyễn Tấn Dũng, sẽ ra mắt nay mai trên toàn cõi VN. Bài giới thiệu sách này sẽ không hé lộ những chi tiết bất nhân, bất nhẫn đến bất ngờ trên từng trang sách, và để dành những khám phá động trời đó cho từng độc giả. Do vậy, chỉ xin được lướt qua một vài điểm nhấn mà tác giả quyển sách muốn bày tỏ sự trăn trở khôn nguôi trên từng xăng ti mét của dải đất tiền rừng bạc biển hình chữ S này. Mờ mờ nhân ảnh, tác giả quyển sách cho thấy phảng phất hình ảnh của chính mình tích cực hiện diện và tham gia trên môi trường truyền thông ảo. Thời buổi này mà không có mặt trên Thế Giới Phẳng thì chắc chắn là sẽ khó ai biết tới (kẻ thù của nhân dân là đứa nào). Chân Dung Quyền Lực ra đời là vì nhu cầu đấu tranh dập mặt đó. Trong mắt các đối thủ, CDQL là loại máy chém được lê khắp ba miền đất nước, hay chí ít cũng là một khẩu Cheytac .408 cal bửu bối của những tay bắn tỉa (mỗi viên một mạng). Nhưng, trong mắt chủ nhân thì đó chỉ là một loại game Pacman thời đại, nuốt trửng nhau theo đúng luật chơi (mở rộng dân chủ nội bộ) của đảng. Chính thực và ngắn gọn, đó là một nguyên tắc sống còn. Cái khéo không phải chỉ ở chỗ đòn phép của CDQL là cực độc, hay ở chỗ mọi người đều có thể đồn đoán kẻ sau lưng nó là ai mà không làm gì được. Cái khéo chính ở chỗ nó vừa cực độc, lại vừa mở ra một cánh cửa khác cho chủ nhân của nó rao giảng về Đạo Đức Kách Mệnh: Phải “Kiên trì chặn thông tin xấu về lãnh đạo trên mạng”. Tức là một cách gom tụ đầy mưu lược: CDQL tấn công khiến đối thủ rụng như sung thì được, thậm chí là quá được. Lại còn thêm một thông điệp gia cố nữa là “Không thể ngăn cấm thông tin trên mạng xã hội”. Ai chẳng nức lòng? Nhưng ngược lại, ngay sau đó,, chỉ cần rao giảng về tai hoạ chia rẽ lãnh đạo, thì nhất định bổn phận của ban tuyên giáo TW, hệ báo đài toàn quốc, tất cả nhà báo/phóng viên/phát thanh viên có thẻ, công an mạng, và ngay cả hệ DLV… cũng phải vì đạo đức kách mệnh và vì sự đoàn kết lãnh đạo mà ngăn chận mọi phản đòn, bất kỳ đến từ đâu. Kỳ thực, tác giả quyển Nghệ Thuật Lãnh Đạo Hai Mang, trong cái chế độ định hướng vun vén cho gia tộc này, không phải thuộc loại người hùng cô độc. Ở nhiều tầng cấp khác nhau, người ta thấy đó đây cũng lắm kẻ loi nhoi… Phía bên quân đội quần hồng, Phùng Quang Thanh và Nguyễn Chí Vịnh cũng từng múa cùng một chiêu Song Thủ Hỗ Bác: Vừa lên tiếng bênh vực quan thầy Trung Cộng, vừa cho báo chí tung tin mua vũ khí mới, rồi lại tuyên bố rất to là phải hạ quyết tâm không để xảy ra xung đột vũ trang với TQ. Mà chẳng cần giải thích với độc giả khắp nước, hay với cả thuộc hạ, rằng mua vũ khí mới để đối phó với sự lấn lướt từ nước nào khác? Chẳng đâu xa, ngay dưới trướng chính phủ cũng từng có một mầm non đá cá hai chân: Nguyễn Xuân Phúc, với khối tài sản “Phi Trí (Trá) Bất Hưng (Gia)” tràn đồng ngập bãi, phải nhờ đến cả thông gia trong nước, ngân hàng ngoài nước, và cả bạn bè hải ngoại giữ hộ. Nhưng chính đương sự thì phải có chân trong ban phòng chống tham nhũng! Trường hợp chánh thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền chỉ là võ sĩ hạng ruồi, không khác gì các bậc thầy kể trên, nhưng không đáng kể. Cũng không đáng kể, hay không thể kể hết, là hàng triệu tên tuổi và chức vụ khác, ở mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, mọi phe… được nuôi dưỡng và bảo quản cẩn trọng trong một thứ hũ sành dễ vỡ được gọi là bình quý. Nhìn chung, đây là một bước tiến vĩ đại, từ chỗ mạnh miệng lên tiếng khi về hưu đến chỗ lớn giọng lên tiếng chỉ chỏ đường hai chiều ngay khi còn tại chức. Nói tóm lại, công thức chung là đang hưởng lợi từ ngành nào thì phải cùng lúc làm ra vẻ chán ngán, tức giận, hay ngay cả lên án xa gần ngành đó. Như thử không một ai trăn trở hơn ta. Dân chúng không hiểu nghệ thuật đẳng cấp cao này nên thường gọi đó là: Nói một đàng, làm một nẻo. Tất nhiên lãnh đạo không có thì giờ chấp nhất cái cách nhìn không chính xác đó. Lãnh đạo còn đang tập trung tối đa trí lực vào mục tiêu Kiên Trì… Vun Vén, trong cuộc đua sinh tử không còn nhiều thời gian và cơ hội. Ngay cả quyển Nghệ Thuật Lãnh Đạo Hai Mang này cũng không chắc gì có cơ hội tái bản. Nhớ đón đọc ngay khi có thể. 30/01/2015 – Tròn 47 năm ngày khởi động chiến dịch Tổng công kích Tết Mậu Thân. Blogger Đinh Tấn Lực Theo Blog Đinh Tấn Lực
......

Chúng Ta chọn đứng bên nào của Sự Thật

Sau một loạt các trấn áp của lãnh đạo CS nhắm vào các trang mạng xã hội, bằng cách liên tiếp bắt giam các blogger Ba Sàm, Bọ Lập, Nguyễn Ngọc Già … báo lề dân vẫn tiếp tục mọc rễ và vươn cành. Các blogger khác vẫn ngoan cường, cứng cỏi, tuyên bố sẵn sàng đối mặt với tù tội. Nhà văn Phạm Đình Trọng gọi thời đại này là Thời Ngục Tù. Ông viết: “Năm tháng qua đi nhưng thời ngục tù đau đớn này sẽ còn mãi trong trang sách lịch sử”. Thân phận lầm than của đất nước, thân phận bèo bọt của người dân, thực tế nhức nhối của xã hội đã không thể câm lặng mãi trong tâm hồn nhạy cảm của các nhà văn, dù họ biết họ có thể là nạn nhân kế tiếp. Viết, đối với nhà văn Phạm Đình Trọng và đối với các blogger vừa như là sự đòi hỏi của cái riêng, vừa là trách nhiệm với cái chung. Để mong tô đậm thêm nữa tác động khủng bố lên các nhà văn, ngày 14/01/15 ông thứ trưởng Bộ Thông Tin Trương Minh Tuấn và Phó chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội Nguyễn Sỹ Dũng cùng xuất hiện trên truyền hình VTV1. Họ cảnh báo rằng hàng trăm trang mạng có máy chủ ở nước ngoài đang sử dụng chiêu bài nguy hiểm nhằm xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo, gây chia rẽ, làm giảm sút niềm tin của dân đối với Đảng. Nhưng những nhà hoạt động Việt Nam lại nhìn khác. Khi những con người chỉ với cây bút và bàn phím trong tay, bằng tất cả mọi nỗ lực trong cô đơn, kể cả chịu bị đánh đập đến đổ máu, chịu tù tội, đã buộc cả guồng máy tuyên truyền khổng lồ của nhà nước phải xôn xao đối phó, thì các blogger và sự thật đã chiến thắng. Khi Ban Tuyên Giáo Đảng phải công khai chỉ thị cho đội ngũ chuyển sang hướng "minh bạch để giành trận địa thông tin", thì rõ ràng báo lề dân đã thắng hiệp 1. Đề cập đến mức ảnh hưởng của làng dân báo ông Trương Minh Tuấn vừa thú nhận vừa cố tình đánh hỏa mù: "Có thể gọi chung đây là tội phạm không gian ảo, vi phạm pháp luật VN. Loại tội phạm này có thể bị xếp vào những nguy cơ đe dọa an ninh lớn nhất cho đất nước. Như ở Anh tội phạm này bị xếp ngang hàng tội phạm tấn công khủng bố, thảm họa hạt nhân...". Ông Trương Minh Tuấn quen lối phát biểu xem thường dư luận, xem thường trí tuệ của người dân. Trong khi ba ngày trước đó, những thông tin trên khắp các trang mạng xã hội cho thấy Thủ tướng Anh, ông David Cameron đang cùng 40 vị lãnh đạo thế giới dẫn đầu đoàn tuần hành ở Pháp để cổ vũ cho quyền tự do ngôn luận. Ông Tuấn tiêu biểu cho giàn lãnh đạo CSVN, vẫn muốn tiếp tục chính sách ngu dân bằng bưng bít thông tin. Vẫn muốn cai trị dân bằng bạo lực nên phải lấy dối trá làm phương châm hàng đầu. Quả thật, đây chính là cuộc chiến cam go mà người dân VN phải đối mặt. Cuộc chiến giữa sự thật và dối trá, giữa lương tâm và họng súng. Nhà văn Pháp Emile Zola bảo rằng: “Nếu anh bịt miệng sự thật và chôn nó xuống đất, nó sẽ phát triển, và tập hợp sức mạnh dữ dội của chính nó để một ngày khi nó mọc lên, nó sẽ thổi bay mọi thứ”. Sự thật bị chôn dấu hàng bao lâu nay đang chứng tỏ sức mạnh dữ dội của chính nó. Và làng dân báo, càng ngày càng lớn mạnh với hàng trăm những con người chịu vác thập tự để được đem sự thật đến với cuộc đời. Dù cô thế, dù thiếu phương tiện so với lực lượng báo đài của đảng, báo lề dân đang trở thành nỗi lo sợ lớn của lãnh đạo CS. Nỗi lo sợ đó bao gồm những sự thừa nhận sau đây: - Đảng đã phải thừa nhận chính sách bưng bít thông tin từ ngày lập đảng đến nay đã thất bại, dù với bao nhiêu công an mạng đi chăng nữa. Đặc biệt vì hiện có rất nhiều chuyên gia điện toán trên thế giới luôn nghĩ ra các cách vượt rào cản để tặng không cho nhân dân các nước đang bị độc tài cai trị. - Đảng đã phải thừa nhận lực lượng 80 ngàn Dư Luận Viên hàng ngày đi chửi bới, cố đánh lạc hướng dư luận cũng đã thất bại. Tệ hơn nữa, hàng ngũ này chỉ tạo thêm các tác động ngược. Người dân ngày càng khinh rẻ cả Dư Luận Viên và những kẻ thuê mướn họ. - Đảng đã phải thừa nhận hiện tượng người dân đang lũ lượt bỏ mặc báo đài công cụ và kéo nhau đi nơi khác tìm thông tin. Từ các nguồn quốc tế đến các nguồn do chính dân chúng tự tìm hiểu, tự dịch thuật, tự tổng hợp, tự nhận định, tự thực hiện — tức làng dân báo. Không những thế, người dân nay còn định ra công thức chung: cứ chuyện gì Ban Tuyên Giáo ra chỉ thị cho báo đài chối cãi càng căng thì chuyện đó càng chính xác theo chiều ngược lại. Đơn cử một thí dụ như trường hợp ông Nguyễn Bá Thanh thì rõ. Nhưng có lẽ phải đọc các phát biểu của thứ trưởng Tuấn cùng với nhiều bài vở khác của Ban Tuyên Giáo gần đây cũng như các dặn dò của ông Nguyễn Tấn Dũng với công an mới thấy đủ chính sách "minh bạch" của đảng. Đó là phải làm chủ thông tin bằng cách không chặn tin nữa nhưng chủ động tung tin theo chiều của Đảng; hoặc chủ động minh bạch phần tin nào không hại cho đảng. Nếu thế thì cũng chẳng mới là mấy. Ai cũng biết cách đó sẽ chỉ cứu vãn tình hình trong một thời gian ngắn thôi, vì hiện có nhiều nguồn khác cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, tức minh bạch 100%. Một khi người dân nhận ra đảng chỉ "minh bạch một phần" hay "minh bạch một chiều" thì số người kéo đi sang báo lề trái còn đông và nhanh hơn nữa. Có ai muốn phí thời giờ đưa óc mình cho đảng rót các thông tin nghiêng lệch, cắt xén vào không?! và như thế thì có khác gì mấy tình trạng hiện giờ ?! Dù chính sách tuyên truyền kiểu mới của đảng chỉ vừa bắt đầu, nhiều người dân Việt đã bày tỏ thái độ chán chường về cái "lòng thành nửa mùa" đi kèm đủ thứ hăm dọa trên báo đảng. Điều dân khao khát là sự thật, là quyền được biết về những chính sách của chính phủ, những sự việc có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đất nước và của chính họ, kể cả những dữ kiện thuộc loại tối kỵ như nội dung Hội nghị Thành Đô, các bản đồ biên giới Việt Trung, ... Ngày nào những đòi hỏi đó chưa được đáp ứng, ngày đó Đảng còn tiếp tục phải đối mặt với làng dân báo. Cái trận địa mà Đảng gọi là “chiến tranh thông tin truyền thông” đó chẳng ở đâu xa, chẳng phải từ lực lượng phản động nào cả. Họ là dân, nơi mà rất nhiều người đã từng hết lòng yêu Đảng và từng đặt hết niềm tin vào Đảng. Niềm tin đưa Đảng lên ngôi đó đã cạn, đã chết lịm khi người ta biết Đảng đã bịt mắt để xử dụng họ như lừa, ngựa suốt bao nhiêu năm qua. Đến nước này Đảng chỉ còn có hai chọn lựa: • hoặc là phải mở tung hẳn cánh cửa truyền thông ra. Bỏ hẳn cái trò "800 báo đài với một ban biên tập" đi. hoặc phải chấp nhận đứng nhìn cảnh: toàn dân chỉ dùng báo đài công cụ làm phương tiện giải trí hay giấy gói hàng; còn khi cần các tin tức đúng đắn, mọi người sẽ chỉ đọc các nguồn do báo lề dân cung cấp. Nhìn những gì vừa xảy ra trên "mặt trận thông tin", ai còn dám bảo người dân “tay không” thì không thể tạo áp suất đổi thay. Khi phương pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động được đủ số đông cùng áp dụng, thế lực độc tài sẽ bị dồn vào chỗ bí. Họ buộc phải thay đổi hay phải bỏ chạy. Nhiều dân tộc đã khám phá ra công thức này trước chúng ta. Cuộc đọ sức hiện nay - dù muốn hay không - vẫn ảnh hưởng đến và bao gồm tất cả mọi người dân Việt. Một là ta góp mặt dũng cảm cho sự đổi thay. Hai là ta chấp nhận trở thành nạn nhân, dự phần cùng những bóng đen câm lặng trong sự tụt hậu của đất nước mình. Chúng ta chọn đứng bên nào của Sự Thật ?  
......

Tết Trung Hoa trên đất Hà Tĩnh

Tết đang về, chỉ còn ngót nghét hai chục ngày nữa, năm Giáp Ngọ khép lại, nhường chỗ cho năm Ất Mùi, không riêng gì Việt Nam mà hầu hết ở các nước Châu Á, Tết âm lịch mang một ý nghĩa đặc biệt, đây là cuộc đại đoàn tụ gia đình hoặc là cuộc trở về mà yếu tố nguồn cội thôi thúc tâm hồn mỗi người mở rộng cõi lòng với trời đất, đồng loại. Tết âm lịch đối với người dân Hà Tĩnh cũng không nằm ngoài quan niệm này, tuy nhiên, trên một vùng đất đang thay đổi từng ngày từ thói quen, điệu sống cho đến quan niệm về quê hương, bản xứ bởi sự tràn ngập của văn hóa Trung Hoa, điều này khiến cho bộ mặt Hà Tĩnh trở nên méo mó, khó nhận dạng khi Tết về. Những đường dây hút máu Một người dân Hà Tĩnh, tên Trung, chia sẻ: “Từ cái vụ lộn xộn ở Formosa ở khu công nghiệp Vũng Áng thì công nhân Trung Quốc cũng ít ra ngoài. Người Việt Nam mua về nấu cho công nhân Trung Quốc ăn, họ có khu của họ mà.” Võ Miếu ở Hà Tĩnh Theo ông Trung, Tết ở Hà Tĩnh bắt đầu biến dạng từ ba năm nay, kể từ ngày người Trung Quốc mạnh tay chèo kéo thanh niên Hà Tĩnh vào những cuộc chơi trác táng rồi những phi vụ mờ ám. Ban đầu, người Trung Quốc chỉ sang Hà Tĩnh đầu tư trong các khu công nghiệp ở Vũng Áng, dọc bờ biển Kỳ Anh và chưa có động tịnh gì cho mấy ngoài việc cuối tuần họ bắt taxi lên thành phố Hà Tĩnh để ăn chơi, tạo ra một thứ nhu cầu cao cấp mà người phục vụ sẽ bội thu. Các vũ trường, quán bar thi nhau mọc lên ở thành phố này. Thanh niên con nhà quan chức cũng tập tò ăn chơi ở các quán bar cao cấp trong thành phố Hà Tĩnh, và dần dần, sự xuất hiện của người Trung Quốc ở Hà Tĩnh trở thành cơ hội kiếm tiền của nhiều người giỏi kiếm tiền, các thanh niên rảnh rỗi và các nhóm con nhà quan chức, nhiều tiền bắt đầu móc nối, qua lại với người Trung Quốc. Những đường dây ăn chơi trụy lạc, mờ ám cũng hình thành từ đó. Trung tâm thành phố Hà Tĩnh. RFA   Ban đầu là đường dây cho vay nặng lãi, hầu như bất kì một thanh niên con nhà quan chức, con nhà có tiền nào của Hà Tĩnh cũng từng một lần ăn chơi đến cháy túi ở các quán bar và vay thêm tiền của người Trung Quốc với mức lãi cắt cổ, có khi lên đến 100%, thậm chí trong những trường hợp cần vay gấp để chuộc mạng với đầu gấu sau khi say khướt, đụng chạm đến họ, mức lãi vay có thể lên đến 150% hoặc 200% trên mỗi tháng. Với mức này, không có tiền của nào mà chạy theo kịp với họ. Nam giới trở thành ma cô, nữ giới thành gái điếm cũng vì chuyện này. Không bao lâu sau đó, người Trung Quốc bắt đầu mở một số quán dọc theo đường biển và quốc lộ Bắc Nam, các quán này do người Việt đứng tên làm chủ nhưng vốn và quản lý chính thức là người Trung Quốc, treo biển hiệu Trung Quốc, kinh doanh theo lối phục vụ giới có tiền Trung Quốc. Các thanh niên Hà Tĩnh lại tiếp tục lao đầu vào các quán này để thể hiện đẳng cấp. Đặc biệt, những thanh niên trong gia đình mới có chút tiền đền bù đất thường xuyên ra vào các quán này để cuối cùng trắng tay, quay sang làm tay sai cho người Trung Quốc. Hiện tại, đội ngũ thanh niên làm tay sai đi đòi nợ thuê, cho vay nặng lãi và trấn áp đồng bào Việt Nam mỗi khi có sự cố đụng chạm giữa thanh niên Hà Tĩnh và thanh niên Trung Quốc, làm gái điếm phục vụ quan Tàu đã lên đến con số cả ngàn người. Khó lòng mà nói rằng đây là những thanh niên Việt Nam nữa, bởi họ đã hoàn toàn sống theo lối xa xỉ, máu lạnh, phản lại người Việt, bảo vệ cho các ông chủ người Trung Quốc và o ép đồng bào của mình bằng mọi cách để kiếm tiền, kiếm điểm với các ông chủ Trung Quốc. Đường vào công ty Formosa, khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh   Và một khi ý thức dân tộc, ý thức làm người bị tê liệt bởi bạch phiến, hồng phiến, ma túy đá, tình dục, các thanh niên Hà Tĩnh không còn biết rằng mình là người Việt, họ sẵn sàng vác mã tấu đến nhà đồng bào để đòi nợ, cuộc sống của họ lún sâu vào nợ nần, ơn nghĩa với các ông chủ Trung Quốc, những kẻ đã mang đến cho họ lối sống hiện tại. Đáng sợ nhất là các đường dây này khá tinh vi, tổ chức có hệ thống và nhiều cấp bậc, thường thì ông chủ người Trung Quốc ít xuất đầu lộ diện, chỉ có những đầu gấu của họ đóng vai đại ca của nhóm, và mỗi nhóm như vậy lại có một thanh niên có máu mặt người Việt Nam đứng cấp dưới, làm đại ca của nhóm thanh niên Việt Nam chuyên đòi nờ thuê, đâm thuê chém mướn, bảo kê nhà hàng, khách sạn… Nói chung, đất Hà Tĩnh đã trở thành vùng đất màu mỡ của các đại ca phục vụ cho các ông trùm người Tàu. Văn hóa ở đây cũng đổi màu xoành xoạch. Ngay cả ngành công an ở Hà Tĩnh, cũng có nhiều nhân vật thân Trung Quốc, làm đỡ đầu, bảo kê cho các ông chủ, ông trùm người Tàu. Tết Tàu trên đất Hà Tĩnh Một người tên Trị, lái taxi ở Hà Tĩnh, chia sẻ: “Công nhân ở đây họ vẫn đi chợ, trước đây có một cái chợ nhỏ nhưng giờ chuẩn bị xây chợ lớn vì ở đây sắp lên thị xã. Mấy người họ đi chợ mua đồ về cho công nhân, ở đây thì công nhân Trung Quốc, công nhận Việt Nam đều có. Họ buôn bán nên đầy đủ các mặt hàng (bán cho công nhân Trung Quốc”. Theo ông Trị, Hà Tĩnh hiện tại giống như một khu phố thu nhỏ của người Tàu, mặc dù mọi hoạt động của người Việt vẫn diễn ra bình thường nhưng về đêm thì màu sắc Tàu Cộng hiện ra rất rõ nét. Hơn nữa, tâm thức, văn hóa của lớp trẻ và người kinh doanh Hà Tĩnh đã nhuốm màu Trung Hoa, Tết Hà Tĩnh cũng mang màu sắc Trung Hoa đậm nét. Sở dĩ nói rằng đất Hà Tĩnh trở thành một khu phố người Hoa thu nhỏ bởi vì ở đây, đồng tiền của người Trung Quốc đã hấp dẫn mọi giới, từ người lao động nghèo không có ăn học cho đến cả những người từng học đến đại học, cao học và người lõi đời làm nghề buôn bán lâu năm, tương tác với xã hội cũng nhiều nhưng vẫn mê tít mù khơi trước kiểu tiêu tiền của người Tàu. Không ai để ý rằng người Tàu một khi bỏ ra một đồng để lôi cuốn một ai, nhất định họ sẽ lấy lại ít nhất là năm đồng và phá nát những đồng còn lại trong túi của đối phương. Hiện tại, các dịch vụ Tết mang dấu ấn Trung Hoa đã bắt đầu rầm rộ trên đất Hà Tĩnh, Võ Miếu thờ Quan Công (tức quan Vân Trường, anh  em nhà Lưu Bị trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của Tàu) được nhang khói, thờ phụng nghiêm cẩn bậc nhất. Ngay trong khu công nghiệp Vũng Áng, một ngôi miếu thờ  thần thánh Trung Hoa đang được xây dựng và dự kiến sẽ khánh thành hoành tráng vào dịp Tết Nguyên Đán này. Một phần lớn thanh niên, công nhân Trung Quốc chọn ăn Tết tại Hà Tĩnh bởi họ đã đặt suất ăn, dịch vụ và các món hàng Tết phục vụ cho mấy ngày Tết tại các nhà hàng, cửa hàng và đại lý trên thành phố Hà Tĩnh. Lồng đèn Trung Quốc, áo quần Trung Quốc, thức ăn mang hương vị Trung Quốc cũng được tiêu thụ mạnh trong dịp Tết này. Thật đáng buồn khi phải nói rằng một cái Tết Trung Hoa đang về trên đất Hà Tĩnh! Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
......

Học thuyết quân sự mới của Nga và nỗi sợ Phương Tây

Cảnh sát trấn áp biểu tình ủng hộ Alexeï Navalny tại Mát xcơva ngày 30/12/2014.REUTERS/Tatyana Makeyeva Quan hệ Nga và Phương Tây trở nên đặc biệt căng thẳng, sau biến cố một thành phố cảng chiến lược miền Đông Ukraina bị phe nổi dậy thân Nga tấn công cuối tuần trước. Báo Pháp dành nhiều chú ý cho chủ đề nước Nga. Le Monde hôm nay, 29/01/2015, có bài xã luận « Ukraina : Putin và chính sách của điều tồi tệ nhất », bình luận về thái độ cần phải có của Phương Tây trước khả năng « chiến tranh có thể bùng nổ tại miền Tây của Châu Âu » do lập trường ngày càng cứng rắn hơn của nước Nga. Cũng trong số báo này có bài phân tích đáng chú ý: « Học thuyết quân sự mới của Nga và thuyết âm mưu », ghi nhận « nỗi ám ảnh » về mối đe dọa Phương Tây khiến chính quyền Nga gia tăng các biện pháp đối đầu, chống lại mọi hoạt động mà họ cho là « đối lập ». Phân tích của thông tín viên Le Monde tại Matxcơva nhắc trước hết đến học thuyết quốc phòng mới, hay « Sách trắng Quốc phòng » của Nga vừa được công bố. Chính quyền Matxcơva khẳng định nỗi lo ngại chế độ bị lật đổ, như phát biểu của người phát ngôn điện Kremlin trên tờ Argumenti i Fakty, ngày 20/01. Theo phóng viên Le Monde, hành động cụ thể để đối phó với lo sợ trên là việc các nghị sĩ Nga bước đầu thông qua một dự luật cho phép phong tỏa các cổ phiếu và tài sản của bất cứ tổ chức nước ngoài nào được xếp vào loại « không được hoan nghênh », thậm chí cản trở họ giao thiệp với báo giới, một khi các tổ chức này bị nghi ngờ là « phát tán các tư tưởng không được chính thống ». Dự luật này được coi là « tập hai » của điều luật buộc hàng loạt tổ chức phi chính phủ Nga phải khai nhận là các « nhân viên ngoại quốc » năm 2012. « Nhân viên ngoại quốc » là một cụm từ vốn dùng để chỉ những người bị tình nghi làm gián điệp cho nước ngoài dưới chế độ Liên Xô trước đây. Trong dự luật mới nhắm vào các tổ chức dân sự nói trên có đoạn : « Xung đột chính trị bên trong, xung đột quân sự và xung đột quốc tế, ngày càng lôi cuốn nhiều quốc gia trong thời gian gần đây, các tổ chức hủy diệt đã được lập ra trên lãnh thổ các nước này, Các tổ chức đó phát tán những tư tưởng khủng bố, cực đoan và dân tộc chủ nghĩa ». Cho dù không nhắc tới « các cuộc cách mạng màu », nhưng xuất phát điểm của dự thảo nói trên không phải là các tổ chức khủng bố như mô tả ở trên, mà chính là « nỗi lo hãi » các phong trào đối lập phát triển tại Nga. Nhìn đâu cũng thấy kẻ thù Điểm đặc biệt trong « học thuyết quốc phòng mới » của Nga khiến các lãnh đạo Phương Tây lo ngại là chính quyền đang nhắm vào « một kẻ thù bên trong », đặc biệt trên phương diện truyền thông. Thuyết an ninh Nga lên án ảnh hưởng của truyền thông khiến giới trẻ xa rời truyền thống, và tố cáo điều mà họ gọi là « đội quân nằm vùng của Phương Tây » tại Nga. Lập trường đối kháng với Phương Tây, coi những người đối lập trong nước là kẻ thù, của chính quyền Putin vừa có thêm một lực lượng ủng hộ mới. Một phong trào « chống Maidan », do chủ tịch câu lạc bộ môtô Loups, một bạn thân của Tổng thống Putin, bắt đầu khởi sự ngày 15/01. Những người tham gia phong trào này sẵn sàng xuống đường để ngăn cản mọi cuộc tập hợp ủng hộ nhà đối lập Alexei Navalny, vừa bị kết án tù treo 3 năm rưỡi hồi cuối năm 2014. Cũng trong hồ sơ nước Nga, Le Monde còn có bài « Matxcơva cáo buộc phương Tây ‘‘lên cơn chống Nga ». Để mô tả nỗi ảm ảnh về « âm mưu » lật đổ chế độ từ bên ngoài khiến truyền thống chính thức Nga nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Le Monde dẫn lại hàng tít trang nhất trên nhật báo Komsomolskaia Pravda, vài ngày sau vụ khủng bố Charlie Hebdo : « Tấn công khủng bố (tại Paris) phải chăng do Hoa Kỳ đạo diễn ? ». Le Monde cho biết thêm, ngày 27/01 vừa qua, nhà đối lập Nga Alexei Navalny kêu gọi dân chúng thủ đô tham gia cuộc tuần hành ôn hòa « chống khủng hoảng » ngày 01/03 tới, lên án chính quyền Putin đang đưa nước Nga vào ngõ cụt. Theo nhà đối lập, Matxcơva cần chấm dứt mọi hành động gây hấn nhắm vào Ukraina và « từ bỏ cơn lên đồng (chống Phương Tây) trên truyền thông ». Bài « Điện Kremlin tung chương trình chống khủng hoảng, đúng vào lúc Nga khó huy động vốn » trên Les Echos ghi nhận việc Matxcơva gấp rút đưa ra chương trình chống khủng hoảng, với 60 biện pháp nhằm trấn an dư luận trong nước, sau khi bị công ty thẩm định tài chính Standard&Poor’s đánh tụt hạng. Nguồn: vi.rfi.fr
......

Phúc trình Tự Do Trên Thế Giới 2015: Việt Nam ‘không có tự do’

Việt Nam tiếp tục bị đánh giá là không có tự do trong phúc trình về Tự do trên thế giới 2015 vừa được tổ chức Freedom House có trụ sở tại Mỹ công bố hôm nay. Cảnh sát đứng gác bên ngoài Toà án nhân dân TPHCM Photo. Khảo sát của Freedom House về quyền chính trị và các quyền tự do dân sự tại 195 quốc gia trên toàn cầu năm nay xếp Việt Nam mức điểm thấp nhất về hạng mục quyền tự do chính trị 7/7, nghĩa là người dân không hề có quyền tự do chính trị trong nước. Về các quyền tự do dân sự, Việt Nam được 5/7 điểm. Xét điểm tổng thể về tự do, Việt Nam được 6/7, tức mức gần thấp nhất trên bảng xếp hạng.  Freedom House nói nhìn chung nền dân chủ thế giới trong năm qua bị xuống cấp phần lớn là do các cuộc tấn công khủng bố và những chính sách tàn bạo hơn của các chế độ độc tài. Với khảo sát vừa công bố, tự do trên thế giới bị tuột dốc trong 9 năm liên tiếp. Trong số 195 nước được đánh giá, 46% được xem là có tự do, 28% tự do một phần, và 26% là không có tự do, trong số này có Việt Nam. “Tình hình nhân quyền Việt Nam ngày càng tồi tệ. Điều này đã chứng tỏ qua các báo cáo của những tổ chức xã hội dân sự...Nhà cầm quyền cộng sản ngày càng trở nên hung bạo hơn và đàn áp người dân đủ mọi giới vì họ thấy rằng dân đang đứng lên đòi hỏi các quyền của mình từ những người nông dân đòi đất, người lao động đòi tiền lương, các tín đồ đòi tự do tôn giáo, tới các nhà đối kháng đòi dân chủ. Linh mục Phan Văn Lợi. Linh mục Phan Văn Lợi, một nhà bất đồng chính kiến được nhiều người biết tiếng lâu nay cổ xúy cho các quyền tự do chính trị, dân sự, và tôn giáo trong nước, nhận xét nền dân chủ quốc nội năm qua hết sức u ám: “Tình hình nhân quyền Việt Nam ngày càng tồi tệ. Điều này đã chứng tỏ qua các báo cáo của những tổ chức xã hội dân sự, ví dụ gần đây nhất là của Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, Dân Làm báo, và nhiều tổ chức khác. Nhà cầm quyền cộng sản ngày càng trở nên hung bạo hơn và đàn áp người dân đủ mọi giới vì họ thấy rằng dân đang đứng lên đòi hỏi các quyền của mình từ những người nông dân đòi lại đất, những người lao động đòi tiền lương, các tín đồ đòi tự do tôn giáo, tới các nhà đối kháng đòi dân chủ. Tất cả đều bị đàn áp. Không những thế nhà cầm quyền còn dùng côn đồ hay công an đội lốt côn đồ để đánh những người đi biểu tình hay thậm chí là những người đi thăm tù nhân lương tâm, như vụ tại nhà của ông Trần Anh Kim vừa xảy ra. Về tự do tôn giáo, nhà cầm quyền vẫn tiếp tục đàn áp các tôn giáo trong nước. Những quyền tự do tôn giáo chính đáng như độc lập trong tổ chức, tự do trong sinh hoạt, tự do trong đào tạo, hay tham gia về giáo dục giới trẻ và hoạt động xã hội các mặt thì nhà cầm quyền không cho. Năm nay rộ lên vấn đề đàn áp khốc liệt giáo hội Mennonite, đánh tín đồ và mục sư. Những người dân oan mất đất vẫn tiếp tục bị đàn áp, bị cướp đất. Thậm chí những người dân oan đã vào tù rồi còn bị đàn áp khốc liệt, bị giam chung với tù nhân bị HIV. Nói chung, tình hình Việt Nam về nhân quyền, về các quyền dân sự-chính trị-kinh tế-xã hội đều càng ngày càng đi xuống cả.” Thành viên của Khối Dân chủ 8406 và Hội Cựu Tù nhân Lương tâm và cũng là đồng Chủ tịch của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, báo động mức độ trấn áp các quyền tự do dân sự tại Việt Nam ngày càng gia tăng về cả quy mô lẫn mức độ: “Quy mô thì hầu như tất cả mọi giới đều bị đàn áp. Ví dụ năm nay họ giam rất nhiều blogger nổi tiếng, tiếp tục bắt rất nhiều nhà tranh đấu, dân oan cũng vậy, đã có những phiên tòa xử dân oan. Đối với người Hmong cũng vậy, những người Hmong đòi canh tân trong nếp sống cũng bị ra tòa và bị ở tù, như vụ của ông Thào Quán Mua hiện cũng đang bị đàn áp trong tù. Còn về mức độ thì chúng ta thấy càng lúc nhà cầm quyền cộng sản càng dùng các phương pháp bạo hành rât đê tiện, thậm chí còn dàn dựng những vụ bắt người rồi tạo vụ án như vụ của cô Lê Thị Phương Anh. Hoặc chúng ta thấy những vụ án oan tử hình Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Chưởng, gia đình kêu cứu, luật sư và công luận đều lên tiếng mà nhà cầm quyền tới giờ vẫn im lặng.” Linh mục Lợi nói bất chấp sự sách nhiễu của nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam ngày càng nở rộ nhiều hơn, cố gắng hoạt động để lên tiếng bảo vệ các quyền dân sự-chính trị phổ quát bị hạn chế. Về mức độ thì càng lúc nhà cầm quyền cộng sản càng dùng các phương pháp bạo hành rât đê tiện, thậm chí còn dàn dựng những vụ bắt người rồi tạo vụ án như vụ của cô Lê Thị Phương Anh. Hoặc chúng ta thấy những vụ án oan tử hình Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Chưởng, gia đình kêu cứu, luật sư và công luận đều lên tiếng mà nhà cầm quyền tới giờ vẫn im lặng. Linh mục Lợi. Linh mục Lợi dự đoán trong thời gian tới xu hướng đàn áp có thể tăng thêm giữa lúc đảng cộng sản đang lo ngại quyền lực bị lung lay và bộ mặt của giới lãnh đạo ngày càng bị xấu đi từ ngay trong nội bộ. Thế nhưng, nhà hoạt động nhân quyền này quả quyết chừng nào còn áp bức bất công, chừng đó sự tranh đấu phản kháng vẫn còn tiếp diễn: “Chúng tôi các tổ chức xã hội dân sự trong nước cương quyết phải đi tới cùng, chấp nhận những gian khổ, đòn thù đê tiện, và tù ngục để cứu đất nước ra khỏi hiểm họa Việt cộng và hiểm họa Tàu cộng.” Chính phủ Hà Nội lâu nay khẳng định luôn thăng tiến và bảo vệ các quyền dân sự-chính trị của công dân và cho rằng các chỉ trích, tố cáo của thế giới về tình hình dân chủ-nhân quyền Việt Nam là ‘bịa đặt,’ ‘vô căn cứ.’ Tuy nhiên, theo nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền và quyền tự do tôn giáo Phan Văn Lợi, lập luận đó của Hà Nội là ‘mù quáng’ và ‘cố chấp’: “Với phương tiện internet và các trang mạng xã hội như Facebook thì trong vài giây sau các hình ảnh và tiếng nói ghi nhận những biến cố này nọ được đưa lên mạng rồi, làm sao dấu được mọi người, dấu được quốc tế? Cho nên, kiểu lập luận đó là của những người mù quáng, cố chấp và không nhận thấy thời đại này internet là một ánh sáng soi vào tất cả mọi sự việc. Chúng tôi mong rằng nhà cầm quyền cộng sản phải tỉnh táo hơn, tỉnh ngộ hơn. Đừng mong dùng bạo lực, đàn áp, gian dối để chà đạp, bịt miệng những tiếng nói của người dân Việt Nam.” Nguồn: voatiengviet.com
......

Ai nữa sẽ chết lây vì ông Nguyễn Bá Thanh?

Vào ngày 11/1/2015, nhân lúc dư luận xôn xao về tin ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc, chúng tôi đã viết một bản tin liên quan đến cái chết của ông Alexander Litvinenko (http://diendanctm.blogspot.com.au/2015/01/tim-hieu-ve-au-oc-phong-xa-tru...), một nhân viên của Cơ Quan An Ninh Liên Bang (FSB), tức hậu thân của  cơ quan an ninh tình báo cảnh sát mật vụ KGB của Liên Xô trước đây, do bị đầu độc với chất phóng xạ Polonium-210. Vào Tháng 7 năm 2013, 7 năm sau khi ông Litvinenko qua đời, việc điều tra về cái chết của ông Litvinenko bị bãi bỏ mặc dầu các cơ quan giảo nghiệm cho là cần thiết để có thể nghe được thông tin mật. Tuy nhiên, vào Tháng 11, 2014, Toà Án Tối Cao đảo ngược quyết định của Bộ Nội Vụ, và Bộ Nội Vụ  Anh Quốc tuyên bố cuộc điều tra mở sẽ được tiếp tục.  Vì vậy, câu chuyện ông Litvinenko bị đầu độc chết năm 2006 nay bỗng trở lại thời sự vì sự nguy hiểm của chất phóng xạ dùng để đầu độc ông và sự an toàn của những người liên hệ, bao gồm các nhân viên y tế thời đó và hiện giờ. Hai người bị tình nghi là thủ phạm đầu độc ông Litvinenko sau khi cùng uống trà với ông ta Andrei Lugovoy và Dmitry Kotvun hiện vẫn đang bị cảnh sát Anh yêu cầu trục xuất từ nước Nga nhưng nước Nga từ chối. Bác sĩ Nathaniel Cary đã nói với ủy ban điều tra về cái chết của ông Litvinenko là "cuộc giảo nghiệm tử thi của ông Litvinenko là cuộc giảo nghiệm nguy hiểm nhất từ trước tới giờ trong thế giới Tây phương". Bs Cary nói là "thi thể của ông Litvinenko rất nguy hiểm" và được đưa về một nơi an toàn để thực hiện các cuộc thử nghiệm, và cho biết là là Ông và các đồng nghiệp đã mặc áo trắng, đeo bao tay bảo vệ, đội mũ kín trùm đầu đặc biệt được bơm không khí qua máy lọc vào để thở trong lúc làm thử nghiệm. Bs Cary nói là lượng phóng xạ trong cơ thể ông Litvinenko cao quá mức chết người, và trước giờ chưa từng có trường hợp nào như vậy ở Anh Quốc. Thám tử Mascall đã cho ủy ban điều tra biết là vào cao điểm đã có hơn 100 thám tử và 100 nhân viên cảnh sát mặc đồng phục làm việc làm việc liên quan đến cuộc điều tra. Những chia sẻ về nguy cơ bị nhiễm phóng xạ của các nhân viên y tế tiếp cận với thi thể của ông Litvinenko khiến người ta nghĩ đến nguy cơ lây nhiễm phóng xạ tương tự đối với tất cả những người đã và đang tiếp xúc với ông Nguyễn Bá Thanh. Cho tới giờ phút này nhà nước CSVN chưa cho một thông tin chính thức nào về ông Nguyễn Bá Thanh, rằng ông NBThanh còn sống hay đã chết, và nếu còn sống thì tình trạng bệnh của ông ta ra sao, nguyên do gây bệnh là gì, và nếu là bị nhiễm phóng xạ thì những người tiếp xúc với ông Thanh đã được thông tin như thế nào và những biện pháp bảo vệ họ là gì? Nếu đã không có những biện pháp bảo vệ thích ứng thì rất nhiều những người này đang thật sự có nguy cơ bị mất mạng. Đây là một sự tắc trách không thể chấp nhận được của nhà nước CSVN./.
......

Lời kêu gọi biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp

Kính thưa Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, Ngày 03 tháng 02 sắp tới, nhà cầm quyền trong nước sẽ tổ chức kỷ niệm 85 năm thành lập đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930), tổ chức chính trị hiện cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động theo Hiến pháp do chính họ soạn thảo và áp đặt. Như lịch sử minh chứng và toàn thể Đồng bào đã biết, sau khi cướp được chính quyền từ tay chính phủ hợp hiến hợp pháp của Việt Nam bấy giờ là chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 8 năm 1945, ĐCSVN đã tìm cách tiêu diệt dần các chính đảng quốc gia để nắm trọn quyền lực. Họ chính thức đặt ách toàn trị độc tài độc đảng lên nửa nước kể từ năm 1954 và trọn nước từ ngày 30/4/1975 đến nay. Để hợp thức hóa việc cướp chính quyền và tiếp tục thống trị đất nước vô thời hạn, ĐCSVN đã tự dựng nên một Quốc hội làm công cụ đắc lực cho họ và dùng nó mà soạn thảo ra các bản Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013. Các bản Hiến pháp này, qua Điều 4 quy định: ĐCSVN là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Rồi để củng cố độc quyền cai trị đó, ĐCSVN còn cho mình độc quyền sở hữu tài nguyên quốc gia (Luật Đất đai + điều 54 HP 2013), độc quyền sử dụng lực lượng truyền thông (báo chí các loại, Luật Báo chí + điều 96 HP) và lực lượng vũ trang (công an, quân đội, điều 65 HP), độc quyền giáo dục (Luật Giáo dục + điều 96 HP), rồi ưu quyền về văn hóa (lấy chủ nghĩa Mác-Lênin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, điều 4 HP) và ưu quyền về kinh tế (kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều 51 HP). Chính vì nắm những độc quyền và ưu quyền nói trên, ĐCSVN trong gần 70 năm qua (từ 2/9/1945 đến nay), đã gây bao đau thương cho Đồng bào và thiệt hại cho Đất nước. Cụ thể là:             - làm thiệt mạng hàng triệu người Việt Nam qua các cuộc chiến giành độc quyền cai trị;             - làm lụn bại kinh tế và điêu đứng dân sinh qua việc áp dụng học thuyết Mác-Lênin sai lầm và học thuyết tư bản hoang dã;             - làm nghẹt thở và bế tắc chính trị bằng việc không chấp nhận tam quyền phân lập, phủ nhận và đàn áp các lực lượng đối lập và các tư tưởng đối kháng;             - làm sa sút văn hóa và băng hoại đạo đức bằng việc khống chế hay hạn chế các tiếng nói và sức mạnh tinh thần trong dân tộc;             - làm sứt mẻ sự vẹn toàn lãnh thổ và gây nguy khốn cho an ninh quốc gia bằng chính sách lệ thuộc đảng Cộng sản Trung Quốc về mọi mặt.             - v.v… Do đó, trung thành với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ ngày 08-04-2006 của Khối 8406: “Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu”, Khối 8406 kêu gọi toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước hãy dũng cảm và công khai làm một cuộc biểu tình trên mạng internet từ nay cho đến hết tháng 02-2015, để chống lại Điều 4 Hiến pháp cực kỳ phản động và phi dân chủ, bằng cách tự chụp hình, tay cầm bảng ghi một trong ba dòng chữ sau đây:             1- Yêu cầu (/Đòi hỏi/Phải) hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp;             2- Phải hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp vì…. (thêm ý);             3- Phải hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp để…. (thêm ý);  Sau đó đưa lên internet, tới các trang blog cá nhân, các trang mạng xã hội (Facebook, Twitter…) và gởi đến các trang web đấu tranh dân chủ. Hoặc gởi về địa chỉ email: [email protected] Kính thưa toàn thể Đồng bào trong và ngoài nước. Trong khi Việt Nam chưa có được một cuộc Trưng cầu dân ý khách quan và trung thực, có quốc tế giám sát thì chúng ta cần phải cho nhà cầm quyền thấy rõ nguyện vọng và ý chí của toàn thể Dân tộc: đó là không thể tiếp tục chấp nhận sự lãnh đạo vừa bất tài bất lực, vừa bất công bất nhân của ĐCSVN. Việc chúng ta đòi hủy bỏ điều 4 Hiến pháp hiện hành chính là bước đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Từ đó mở ra các bước khôi phục cho nhân dân các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội; cụ thể là quyền tự do ngôn luận và biểu tình, tự do tư tưởng và tôn giáo, tự do hội họp và lập hội, tự do cư trú và đi lại…. Xin toàn thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại hãy giành lấy quyền làm chủ đất nước và thể hiện cụ thể quyền ấy bằng cách hưởng ứng lời kêu gọi này. Chúng tôi chân thành cảm ơn. Làm tại Việt Nam ngày 28 tháng 01 năm 2015 Ban điều hành Khối 8406:1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam. 2- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam. 3- Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa – Hải Phòng – Việt Nam 3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ. 4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa Kỳ. Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý và các tù nhân lương tâm Khối 8406 khác đang ở trong lao tù Cộng sản.
......

Một chiêu trò ảo thuật của Cộng sản sắp đưa ra biểu diễn

Chắc bất cứ người dân Việt Nam nào dù sống ở đâu trên trai đất này còn có trái tim, đều không thể nào quên được sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng biển Việt Nam vào tháng 5 năm 2014. Sự ngang ngược của Cộng sản Trung Quốc đã thổi bùng lên lòng yêu quê hương đất nước của bao người con nước Việt, mặc dù nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam vẫn chơi trò hai mặt trong cách phản ứng về vấn đề này. Rồi cái ngày tai họa đã thình lình ập đến trên đầu tất cả người dân Việt Nam nói chung, và những người công nhân thật thà chất phác nói riêng. Đó là ngày 13 và 14 tháng 5 năm 2014. Khi một bộ phận giấu mặt nào đó trong đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành “ảo thuật” biến những cuộc xuống đường vì lòng yêu nước thành “bạo loạn”; gây ra biết bao là thiệt hại cho ngân sách Quốc gia. Sau đó vào ngày 15/05/2014 công an tỉnh Đồng Nai đã theo lệnh của các ông “thầy ảo thuật” Cộng sản cấp trên, biến 3 công dân Đỗ Nam Trung, Phạm Minh Vũ và Lê Thị Phương Anh thành “kẻ chủ mưu gây bạo loạn”. Từ những người dân đầy lòng yêu nước 3 nạn nhân này đã bị biến dạng trong con mắt người dân. Từ đó các nạn nhân này lại bị công an và báo chị Cộng sản “lột xác” rồi khoác cho họ một “bộ da mới” với danh nghĩa là đảng viên Việt Tân. Thế là đương nhiên các “nhà ảo thuật” Cộng sản đã rất thành công trong việc dàn dựng màn kịch “bạo loạn” để dễ bề dập tắt các cuộc xuống đường vì lòng yêu nước của nhân dân. Chưa dừng lại ở đó! Sau khi bắt giữ người trái pháp luật, các “nhà ảo thuật” của Đảng đã vội vàng ra tuyên bố rằng: Cả 3 người này bị bắt theo điều 245 của Bộ Luật Hình Sự VN. Tuy nhiên sau bao nhiêu khó khăn vất vả, các “đầy tớ của dân” vẫn không thể nào tìm ra bằng chứng để khép tội các nạn nhân. “Cái khó ló cái khôn”; những “nhà ảo thuật” lại hà hơi phù phép biến 3 nạn nhân này thành thủ phạm của điều 258 Bộ Luật Hình Sự VN (Một điều luật đang bị lên án). Để làm thành công trò ảo thuật này, những “ảo thuật gia” đã sẵn sàng dẫm lên Quốc Hội khi bất chấp điều 21 khoản 1 và 2 của Hiến Pháp 2013 đã quy định rất rõ về những quyền con người bất khả xâm phạm. Các ảo thuật gia đã chiếm đoạt điện thoại cũng như những tài khoản thư tín kèm theo để ngang nhiên đào bới những thông tin và các mối quan hệ cá nhân cùng những bí mật đời tư của họ, nhào nặn thành một con số 258 tròn trĩnh. Xin trích nguyên văn điều 21 của Hiến Pháp 2013: “ Điều 21 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.” Vậy là sau gần 8 tháng nhào nặn, dùng mọi trò ảo thuật, nhà cầm quyền đã biến biểu thị lòng yêu nước thành bạo loạn, biến người yêu nước thành thủ phạm, biến nạn nhân thành đảng viên Việt Tân, biến 245 thành 258. Ngày 10/02/2015, nhà cầm quyền sẽ đưa ra một tác phẩm ”hoàn hảo” và một màn trình diễn lý thú của các vai “hài làm ảo thuật pháp lý” tại Tỉnh Đồng Nai. Là một công dân “tự do” tôi đang cố gắng kiếm tiền để lên đường vào Đồng Nai mong sao có cơ hội tham dự “Phiên biểu diễn” đầy công phu này. Thanh Hóa ngày 26/1/2015. Nguyễn Trung Tôn
......

Góc khuyết của Chân Dung Quyền Lực

Mấy tuần vừa qua, tôi gặp một số bạn bè, vốn là những trí thức và cán bộ trong nước có dịp sang Úc. Đề tài nói chuyện hầu như bao giờ cũng xoay về với trang blog Chân Dung Quyền Lực. Điều tôi ngạc nhiên nhất là tất cả họ đều đọc, hơn nữa, đọc rất kỹ các bài báo tố cáo nạn tham nhũng đăng trên Chân Dung Quyền Lực. Và tất cả đều tin những lời tố cáo ấy là đúng sự thật. Theo họ, tài sản khổng lồ đến từ tham nhũng của cha con Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đại tá Phùng Quang Hải cũng như của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng đã được rất nhiều người trong nước ghi nhận và bàn tán từ lâu. Tất cả những người bạn ấy đều cho vụ tố cáo tham nhũng trên trang Chân Dung Quyền Lực đều, thứ nhất, xuất phát từ trong nội bộ cao cấp của đảng Cộng sản, và thứ hai, gắn liền với các tranh chấp chính trị thời kỳ trước Đại hội đảng vào đầu năm 2016. Tuy nhiên, khi nói đến tranh chấp quyền lực, có một vấn đề nổi lên: ai tranh chấp với ai? Dễ thấy nhất, từ trang Chân Dung Quyền Lực, là sự ca ngợi dành cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đã làm thủ tướng hai nhiệm kỳ, chắc chắn là Nguyễn Tấn Dũng không thể tranh giành chức thủ tướng lần nữa. Chiếc ghế duy nhất mà ông có thể nhắm tới là chức Tổng bí thư đảng thay thế cho Nguyễn Phú Trọng, người, năm tới, đã 71 tuổi, lứa tuổi hầu như bắt buộc phải về hưu. Để cạnh tranh vào chức Tổng bí thư, đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng là ai? Theo thông lệ từ mấy cuộc đại hội vừa rồi, từ Nông Đức Mạnh đến Nguyễn Phú Trọng, người làm chủ tịch Quốc Hội có khuynh hướng được chọn để làm Tổng bí thư. Tuy nhiên, trong kỳ đại hội vào năm 2016 thì khác. Nguyễn Sinh Hùng sinh năm 1946, sang năm sẽ 70 tuổi, không có khả năng sẽ được lưu dụng. Đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng chỉ còn lại một người: Trương Tấn Sang, người đang giữ chức Chủ tịch nước, cùng tuổi với Nguyễn Tấn Dũng. Để tìm cách loại trừ Trương Tấn Sang, trên trang Chân Dung Quyền Lực có 20 bài viết về ông, không những tố cáo ông tham nhũng mà còn tố cáo việc ông, lúc còn trẻ, bị chính quyền Miền Nam bắt, không chịu đựng được các cuộc tra tấn, đã khai báo nội tình của “cách mạng”. Hơn nữa, ngay cả khi lên làm Chủ tịch nước, ông vẫn có quan hệ với những thành phần đối kháng và đòi hỏi dân chủ. Trương Tấn Sang lại là người chuyên tìm cách để hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng, v.v… Đó là chiếc ghế Tổng bí thư, còn chiếc ghế thủ tướng thì sao? Bình thường, người có khả năng lên làm thủ tướng là một trong các phó thủ tướng. Trong các phó thủ tướng hiện nay, người có nhiều triển vọng nhất là Nguyễn Xuân Phúc, còn khá trẻ (sinh năm 1954) và cũng là người duy nhất hiện nằm trong Bộ Chính trị. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà những người đằng sau Chân Dung Quyền Lực nhắm tới là triệt hạ con đường lên chức Thủ tướng của Nguyễn Xuân Phúc. Không có người nào bị đả kích một cách kịch liệt như ông. Vấn đề là: ai nã súng cối vào Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế thủ tướng? Chỉ có một trong hai hoặc cả hai khả năng: Một, người nào đó đang muốn chạy đua vào chức vụ thủ tướng; trong trường hợp này, người đó, phải đang nắm giữ chức phó thủ tướng; và hai, một người nào đó đang có tham vọng bày lại ván cờ chính trị tại Việt Nam với những khuôn mặt mới nằm trong tay mình để dễ thao túng. Điều khó giải thích nhất là những cuộc tố cáo nhắm vào Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên trang Chân Dung Quyền Lực, ngoài Nguyễn Xuân Phúc và Trương Tấn Sang, người bị tố cáo nhiều nhất là Phùng Quang Thanh. Tại sao? Chắc chắn không phải tại ông tham nhũng hơn những người khác. Chuyện tham nhũng ở Việt Nam, hầu như không có người nào trong bộ máy chính quyền tránh được.  Vấn đề ở đây là: Tại sao người ta chọn tố cáo người này thay vì người khác. Ví dụ dễ thấy nhất: Trang Chân Dung Quyền Lực hoàn toàn không đụng đến Đại tướng Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ai cũng biết, ở Việt Nam hiện nay, nơi được xem là cái ổ của tham nhũng chính là công an. Không ai tin Trần Đại Quang có bàn tay sạch cả. Vậy tại sao Chân Dung Quyền Lực không hề đụng đến ông mà chỉ tập trung vào Phùng Quang Thanh? Câu hỏi ấy dẫn đến hai khả năng: Một, người ta tìm cách triệt hạ con đường tiến thân của Phùng Quang Thanh và hai, người ta muốn thay đổi cơ cấu quyền lực trong quân đội. Hai khả năng ấy thật ra chỉ tập trung vào một người: Phùng Quang Thanh. Gần đây, nghe đồn Phùng Quang Thanh có thể sẽ được bầu vào chiếc ghế Chủ tịch nước để thay cho Trương Tấn Sang. Số lượng các bài tố cáo sự tham nhũng của bố con ông nằm trong âm mưu ấy chăng? Nhưng nếu vậy, ai sẽ được lợi trong âm mưu triệt hạ này? Ai đang nuôi tham vọng chạy đua vào chiếc ghế chủ tịch nước? Hơn nữa, cũng không loại trừ khả năng người ta không những ngăn chận con đường leo lên ghế chủ tịch nước của Phùng Quang Thanh mà còn muốn hất ông ra khỏi chiếc ghế Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng cũng như cái chân trong Bộ Chính trị nữa. Tất cả những vấn đề nêu trên, theo tôi, đều đúng. Tuy nhiên, cũng theo tôi, không nên tập trung quá nhiều vào các cuộc tranh chấp nội bộ trên trang Chân Dung Quyền Lực. Đó chỉ là một khía cạnh; một khía cạnh quan trọng và cực kỳ lý thú, nhưng dù sao cũng chỉ là một khía cạnh. Còn một khía cạnh khác, nổi lên từ trang Chân Dung Quyền Lực là bộ mặt thật của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Không nên vì quá tập trung vào các bài đã đăng để chỉ thấy, trong guồng máy lãnh đạo Việt Nam hiện nay, chỉ có Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng cũng như hai bố con Phùng Quang Thanh – Phùng Quang Hải là tham nhũng. Đó chỉ là những kẻ đã bị tố cáo. Còn những kẻ chưa bị tố cáo thì sao? Chắc chắn là họ cũng tham nhũng không thua gì những kẻ kia. Về độ giàu có của con cái và thân nhân, từ lâu ai cũng biết, hầu như không có ai bằng Nguyễn Tấn Dũng cả. Về mức độ tham nhũng, cũng từ lâu, ai cũng thấy không ai bằng công an; vậy tài sản của Trần Đại Quang như thế nào? Nhìn vào những kẻ chưa được Chân Dung Quyền Lực đề cập, chúng ta dễ dàng thấy trang báo mạng này còn thiếu sót rất nhiều. Nó cố nói lên sự thật. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Còn những góc cạnh khác, hầu như ai cũng biết, nhưng biết một cách mơ hồ. Chúng ta hy vọng sẽ có những trang báo khác lần lượt phanh phui hết tất cả những tệ nạn tham nhũng của tất cả những người đang nắm giữ quyền lực tại Việt Nam hiện nay. Tất cả. Chứ không phải chỉ có một số người đang tranh chấp quyền lực với nhau. Theo voatiengviet.com
......

Pages