Năm nay là dịp rất thuận tiện để người Việt tỵ nạn cùng nhau nhớ lại công ơn của những tấm lòng nghĩa hiệp đã tạo cho họ cơ hội xây dựng cuộc đời mới trên quê hương thứ hai. Với hai bàn tay trắng và tâm trạng hoang mang nơi xứ lạ họ nhận được sự giúp đỡ chu đáo và tận tình của chính quyền và nhân dân Đức. Tình người cao đẹp này đã giúp họ mau lẹ „hoàn hồn“ và có can đảm vươn lên.
Năm 1979 nhóm thuyền nhân Việt Nam đầu tiên đã được bốc từ trại tỵ nạn Pulau Bidong và đưa sang Đức. Sau đó từng đoàn thuyền nhân khác được tầu Cap Anamur vớt từ biển Đông cũng lần lượt tới Đức. Họ được đón tiếp nồng nhiệt và được giúp đỡ tận tình. Cap Anamur, tiến sĩ Neudeck, thống đốc Albrecht là những tên thường được người Việt Nam ở Đức nhắc nhở. Nhưng không mấy ai biết rằng, trước đó chính quyền Đức không muốn nhận thuyền nhân tỵ nạn. May thay đã có những người mạnh mẽ lên tiếng và dấn thân tranh đấu làm chính quyền đổi ý và mở cửa biên giới. Trong số những người tiên phong tranh đấu nhận người tỵ nạn Việt Nam phải kể đến bà Dönhoff và một số cộng sự viên tại tuần báo Die Zeit, cũng như hồng y Joseph Ratzinger, tổng giám mục giáo phận München và Freising. Công ơn lớn lao này đến nay chưa mấy ai biết đến, nói chi tới nhắc nhở và ghi ơn. Vậy xin cống hiến độc giả hai tài liệu quí báu giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về một số người đã góp phần không nhỏ trong việc giúp đỡ ngườ tỵ nạn Việt Nam:
- Bài phóng sự của bà , một trong những tác nhân chính ở tuần báo Die Zeit tranh đấu cho thuyền nhân Việt Nam, đăng ngày 13.8.2009 trên Die Zeit.
- Lời kêu gọi của hồng y , tổng giám mục giáo phận München và Freising, phổ biến ngày 1.4.1979 trên Ordinariatskorrespondenz của giáo phận.
Tài liệu 1
Giải thoát khỏi địa ngục Pulau Bidong
Mùa hè 1979 chỉ viết báo không chưa đủ. Báo Die Zeit bốc 275 thuyền nhân tỵ nạn
Việt Nam đưa về Hamburg
Gabriele Venzky
Không nơi nào trên thế giới muốn nhận người tỵ nạn. Kể cả nước Đức. 7 triệu người bị trục xuất khỏi quê hương vào lúc kết thúc đại chiến thế giới thứ II, gần 6 triệu người trốn khỏi Đông Đức. Không đâu phải đương đầu với làn sóng tỵ nạn ào ạt hơn tại Đức. Nhưng cả những đồng hương tỵ nạn cũng chỉ được đón nhận rất miễn cưỡng. Thế rồi năm 1979 đã xẩy ra biến cố có một không hai trong lịch sử nước Đức. Giữa lúc các chính trị gia của chúng ta còn chần chừ và nại lý do số người tỵ nạn đã vượt chỉ tiêu, các trung tâm tiếp cư đầy ắp, thì người dân đã ra tay. Họ quyết định cứu giúp những người ngoại quốc xa lạ. Những người bị hất hủi khắp nơi lại được đón tiếp niềm nở với vòng tay mở rộng và được tận tình giúp đỡ như chưa từng thấy. Đó là câu truyện thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam và báo Die Zeit đóng vai trò không nhỏ trong vụ này. Đó là câu truyện về những con người với nụ cười bắn trúng tim chúng ta.
Câu truyện bắt đầu vào năm 1978. Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc ba năm trước đó. Hình ảnh những người cố níu càng những trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn hãy còn rõ như in trong ký ức, sau đó là đợt người tỵ nạn cuống cuồng chạy loạn. Bây giờ câu truyện tái diễn: từng đoàn người như dòng nước cuồn cuộn không thôi đang cố thoát khỏi Việt Nam bằng đường biển. Trên những chiếc tầu cỏn con, quá tải, họ lao mình vào cõi vô định, không bản đồ, không hải bàn, nếu may mắn thì kết cục dạt vào những bãi biển vùng Đông Nam Á hay táp vào bờ đá Hồng Kông. Nhiều người không gặp may như thế. Họ bị hãm hiếp, bị đập chết, bị quăng xuống biển, bị đắm tầu. Một nửa số người tỵ nạn rơi vào tay hải tặc Thái. Một phần ba, khoảng 500.000 người, thiệt mạng giữa đường.
Cả những chiếc tầu rỉ nước cũng bị lôi ra biển
Tôi còn nhớ tấm hình treo ở hành lang nhà trường khi tôi còn nhỏ. Đó là hình con tầu cọc cạch mang tên Exodus, lúc nhúc người trên sàn, trên 4.500 người sống sót cuộc diệt chủng tìm tới miền đất Palestina, nhưng họ không được phép cập bến. Ngày nay , sau một phần tư thế kỷ, tôi lại thấy những tấm hình như thế trên bàn viết. Những khuôn mặt ngơ ngác lần này là người Việt Nam. Lúc đó tôi là ký giả phụ trách vùng Đông Nam Á cho báo Die Zeit. Vì thế những mẩu tin sốt dẻo về số người ty nạn tăng vọt khủng khiếp cứ dồn dập được chuyển tới tôi.
Tuần này qua tuần khác tập tài liệu tôi ôm tới phòng họp cứ dầy thêm. Cuối năm 1978 có tới 62.000 người chen lấn trong những trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á và không thấy dấu hiệu cho thấy hiện tượng này sẽ chấm dứt. Nhóm ký giả chuyên về lãnh vực chính trị vội vã họp lại. Chẳng lẽ không lên tiếng thức tỉnh thế giới? Thế là chúng tôi tung ra từng loạt bài, tới năm 1979 trao tay độc giả cả xấp hồ sơ. Lúc đó chúng tôi tính từng ngày: một ngàn người, hai ngàn, bốn ngàn, và đó mới chỉ là những người táp được vào bờ. Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc bó tay trước làn sóng tỵ nạn. Những quốc gia vùng Đông Nam Á cũng thế. Những chiếc tầu rỉ nước cũng bị lôi ra khơi, làm mồi cho hải tặc. Chắc chắn không thoát lưỡi hái tử thần. Giữa lúc đó các chính trị gia Tây phương cứ bình tọa bàn cãi, cò cưa với những chương trình viển vông. Có nên mua một hòn đảo và đổ thuyền nhân lên đó không? Biết đâu họ sẽ tạo nên một Singapore thứ hai! Dần dà người ta nhận ra ý đồ của cộng sản Việt Nam: hiển nhiên họ muốn tống khứ hết người Hoa, một triệu rưởi người!
Một hôm tầu Hải Hồng xuất hiện trên màn ảnh. Kể từ con tầu Exodus thế giới không thấy cảnh tượng nào như thế: một chiếc tầu chở hàng, đúng ra là con tầu phế thải, người lúc nhúc trên sàn không chừa một khoảng trống, 2.500 con bệnh, đói, khát, không quốc gia nào đón nhận, trôi dạt không biết tới bến bờ nào. Hải Hồng trở thành biểu tượng của đại hoạ. Với một nắm Mỹ kim những nghiệp đoàn Hồng Kông đã mua con tầu này cũng như nhiều tầu khác, rồi „bí mật“, thực ra là dưới cặp mắt cú vọ của quan chức Việt Nam, họ dồn lên tầu những người Hoa muốn ra đi. Chỉ nguyên với tầu Hải Hồng họ đã nhét túi 10 triệu Mỹ kim. Thấy bở, nhà cầm quyền Việt Nam đứng ra độc quyền món thầu, họ xử dụng những chiếc tầu tí teo, ọp ẹp. Từ 10 tới 20 lượng vàng cho mỗi đầu người (một lượng tương đương 37 gram), một gia đình đông người phải bỏ ra mấy kí lô vàng. Hầu như toàn thể lớp trung lưu Việt Nam bị trấn lột trước khi bị đưa ra biển phó mặc cho số mạng.
Những kẻ sống sót không được ai đón nhận. Đối với bọn người trước kia từng gào Hồ-Hồ-Hồ Chí Minh, thì sự việc rõ như ban ngày: ai có nhiều vàng để chạy chỗ ra đi, chỉ có thể là kẻ ăn bám chiến tranh đế quốc Mỹ, hoặc chủ chứa điếm hay tên hút máu đồng bào (Trong thời chiến tranh Việt Nam, từng đoàn người, nhất là bọn trí thức, sinh viên nông nổi ở các quốc gia Tây phương thường tổ chức biểu tình phản đổi đủ thứ, nhất là chống Mỹ và ủng hộ cộng sản Việt Nam. Khi tuần hành họ trưng hình Mao Trạch Đông, Che Guevara và Hồ Chí Minh, miệng gào thét: Hồ-Hồ-Hồ Chí Minh! Chú thích của người dịch, chứng nhân tại chỗ). Đối với Đông Đức, nơi công nhân Việt Nam phải lao động cực nhọc, vì Hà Nội không có tiền hoàn trả những khoản trợ cấp hữu ghị, thì không có vấn đề người tỵ nạn (các nước xã hội chủ nghĩa cung cấp vũ khí, lương thực và hàng hoá để yểm trợ cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến. Những trợ cấp này không phải là quà tặng, nhưng là món nợ khổng lồ phải thanh toán sau chiến tranh. Cộng sản Việt Nam gửi người qua đông Âu lao động trả nợ! Chú thích của người dịch). Các chính trị gia Tây phương lươn lẹo đi tới kết luận giống nhau, bằng cách lặp lại lý luận của các quốc gia Đông Nam Á: ai có khả năng mua chỗ ra đi, bị ghép vào hạng nhập cư trái phép. Bởi thế họ không được hưởng qui chế tỵ nạn.
Mãi tới khi ông Ernst Albrecht, thống đốc tiểu bang Niedersachsen, trắc ẩn trước hình ảnh thê thảm của tầu Hải Hồng, sẵn sàng nhận 1.000 thuyền nhân tỵ nạn, lúc đó chính phủ liên bang mới tuyên bố „sau này“ sẽ nhận thêm 900 người. Trong khi đó 40.000 thuyền nhân tỵ nạn đang chen chúc chỉ nguyên trên đảo Pulau Bidong. Bên cạnh tầu Hải Hồng, hòn đảo này đã trở thành biểu tượng thứ hai của thảm hoạ. Đó là một sườn dốc chênh vênh giữa biển, cách bờ Mã Lai 15 hải lý, hoang vắng vì không có nước. Thế mà giờ đây 40.000 người dồn ép nhau trên một khoảng rộng một cây số vuông. Tháng 6.1979, các quốc gia Đông Nam Á tuyên bố sẽ không nhận thêm bất cứ người tỵ nạn nào khác, nếu các quốc gia kỹ nghệ Tây phương không bốc đi 300.000 thuyền nhân đang tá túc tại Đông Nam Á. Trong tháng đó Mã Lai lôi ra khơi 54.000 người trên các chiếc tầu mong manh và dự tính đẩy thêm 76.000 thuyền nhân đã cập bến ra đại dương. Từng ngàn người chết đuối vì tầu bị sóng vùi chỉ 50 thước cách bãi biển và không ai tiếp cứu họ.
Lời kêu gọi của chúng tôi được hưởng ứng nồng nhiệt vượt dự đoán
Giữa lúc đó Josef Joffe, ông bạn đồng nghiệp ở báo Die Zeit, mang về từ Pulau Bidong những hình ảnh hãi hùng. Tựa đề cho phóng sự Chỗ dậm chân trong hỏa ngục quả thực không quá lời. Tới lúc đó các tiểu bang vẫn còn do dự. Ai phải chi trả các phí tổn? 60.000 người hồi cư từ các quốc gia Đông Âu và 33.000 người thuộc diện tỵ nạn chính trị đã là gánh nặng quá đủ rồi. Ở toà soạn Die Zeit chúng tôi bàn thảo suốt mấy ngày để tìm cách làm cho chính phủ liên bang đổi ý và ra tay cứu trợ quảng đại. Chúng tôi nhận ra rằng, cứ ngồi mà viết thì chẳng nên cơm cháo gì.
Bà Marion Dönhoff, người phát hành tờ Die Zeit, quyết định: „Đã đến lúc chúng ta phải hành động. Chúng ta phải bốc người từ Bidong“. Bà thảo lời kêu gọi làm chủ đề đăng trên trang nhất. Sự hưởng ứng rộn lên vượt sức tưởng tưởng. Chỉ trong khoảng thời gian vắn đã nhận được trên hai triệu Mã Đức. Nhà kỹ nghệ Kurt A. Körber gửi một nửa triệu, hai bé gái khui hộp tiết kiệm được 5 Mã, một nhà tù dành cho phái nữ tặng tem trị giá 30 Mã.
Báo Die Zeit liên lạc với nghị viện thành phố Hamburg. Chúng tôi yêu cầu họ nhận người và lo phần hội nhập, chúng tôi lãnh phần chi phí ban đầu và chuyên chở thuyền nhân tới Hamburg. Thế là đèn xanh bật lên cho 250 thuyền nhân. Ngày 2.8.1979 Margrit Gerste, bà bạn đồng nghiệp, Holmer Pabel, nhiếp ảnh gia tên tuổi trên chiến trường Việt Nam, hai nhân viên Hồng Thập Tự với trách nhiệm chọn người, và tôi cùng lên đường tới hoả ngục Pulau Bidong. Mùi hôi thối ngột ngạt, vì chỉ có 4 cầu tiêu, nhung nhúc người chen lấn nhau đến ngộp thở, cái nóng nung người và thấp thoáng sau những sườn tầu của người tỵ nạn là đoàn tầu có gắn đại bác của Mã Lai.
Ba giờ trên tầu tới đảo, ba giờ để trở về, chỉ còn hai giờ trên đảo, vì không người nước ngoài nào được tá túc qua đêm. Làm thế nào cho xong việc với thời giờ eo hẹp như vậy? Chúng tôi có ý định lựa lấy những trường hợp không có hy vọng, những kẻ không ai muốn nhận: gia đình đông người, trẻ em không người đi kèm, những người không biết tiếng Âu Mỹ, những người không có thân nhân ở ngoại quốc, những người già và người bệnh. Holmer Pabel và tôi quyết định lẩn vào đám đông và ở lại âm thầm quan sát tổ chức tự phát rất chu đáo. Không bao giờ tôi quên được những ngày trên đảo tử thần này.
Người tỵ nạn cố tạo dễ dãi cho chúng tôi, họ chia sẻ với chúng tôi phần ăn thiếu thốn của họ. Chúng tôi khám phá ra nhiều gia đình không được ghi đủ mặt trong sổ của chúng tôi. Vì thế khi rời đảo vào ngày 7.8., trực chỉ trại tiếp cư, chúng tôi mang theo 274, chứ không phải chỉ 250 người. Ông Orwin Runde, người sau này sẽ là thị trưởng, lúc đó có trách nhiệm giao tiếp với chúng tôi ở Hamburg, cũng đồng ý với con số thặng dư này.
Ngày 13.8.1979, khi tầu Cap Anamur ra khơi vớt người ở biển Đông, thì máy bay chở những người tỵ nạn thứ nhất của chúng tôi cất cánh rời Kuala Lumpur, hai ngày sau đó một nhóm 274 người khác, thêm một em bé chào đời trên đường vượt biên, đã được cứu thoát. Nhưng có một điều còn quan trọng hơn thế nữa: chúng tôi đã phá đổ bức tường cản. Chính phủ liên bang quyết định nhận thêm thuyền nhân tỵ nạn. 40.000 người từ Việt Nam, đa số gốc Hoa, đã tìm được quê hương thứ hai trên nước Đức. Thời đó có kẻ bi quan cằn nhằn: „50 năm nữa bọn đó cũng không hội nhập được“. Một lầm lẫn lớn! Suốt 30 năm qua họ cần cù và âm thầm làm việc để vươn lên, ngày nay hầu hết họ có nhà riêng hay phòng ốc riêng, trợ cấp xã hội là một từ gở đối với họ. Họ rèn con cái tới khi chúng về khoe điểm nhất, điểm nhì, tỷ lệ tốt nghiệp trung học của con em Việt Nam cao hơn của học sinh Đức. Các em hồi đó còn thơ dại, nhất là các em thuộc thế hệ tiếp nối, ngày nay xử dụng tiếng Đức lưu loát. Câu truyện thuyền nhân tỵ nạn là câu truyện của thành công.
Chúng tôi đang ngồi trong căn nhà của Van Si An, một triệu phú ở Sài Gòn thời xưa. Ông Van sống bằng nghề lái xe buýt tại Hamburg. Ba người con của ông đều tốt nghiệp đại học. Hai người là dược sĩ, người con thứ ba tốt nghiệp ngành thương mại, bốn đứa cháu nô đùa trong căn phòng. Gia đình ông Van dấn thân trong các công tác thiện nguyện, cậu con trai Van Huy Tam tham gia tích cực trong lãnh vực chính trị cộng đồng và dùng giờ nghỉ để giúp giải quyết khó khăn hội nhập ở trường học. „Chúng tôi muốn đền đáp những gì chúng tôi đã nhận được“. Ngồi cùng bàn còn có ông Gerhard Katsch, ngoại bát tuần. 30 năm trước ông giúp gia đình họ Van thích nghi với quê hương mới, ngày nay gia đình nhà Van đáp trả, khi ông cần tới họ.
Chúng tôi còn giữ liên lạc với những người tỵ nạn của chúng tôi, có những người đã thành bạn thân. Trong nhà tôi treo một bức trướng với nét chữ như phượng múa rồng bay do một người tỵ nạn phóng bút tặng. Hàng chữ nổi bật, có liên quan tới câu truyện thuyền nhân tỵ nạn: „ Họ đã tạo cho chúng tôi cơ may sống sót. Ghi ơn báo Die Zeit“.
Giới thiệu bà Gabriele Venzky, tác gỉa bài phóng sự
Chính bà cũng từng là người tỵ nạn. Năm 1945, lúc sắp ngưng tiếng súng, gia đình bà từ miền tây xứ Phổ và từ Berlin đã trôi dạt về Oldenburg „với hai bàn tay trắng“. Lúc đó cô bé sinh năm 1939 không có giầy dép gì, nên được quân đội Anh cho một đôi giầy gỗ. Lớn lên bà học ngành sử chuyên về Đông Âu, văn hoá Slave và Hán học, được mời dậy ở đại học Stanford, viết cho báo Stuttgarter Zeitung, từ 1967 giữ chân ký giả báo Frankfurter Allgemeine Zeitung và từ 1971 viết cho báo Die Zeit.
Cảnh cơ cực của thuyền nhân tỵ nạn biến bàn tay cầm bút thành bàn tay hành động. Gabriele không coi đó là cuộc giằng co vai trò. „Cảnh cơ cực của thuyền nhân tỵ nạn vượt quá sức chịu đựng của chúng tôi“. Là ký giả bà mới chỉ quan sát những biến cố ở Phi châu hay Á châu. Nay bà dấn thân nhập cuộc. “Phải làm cho bằng được. Chúng tôi muốn tranh đấu phá đổ bức tường cản việc nhận người tỵ nạn. Và chúng tôi đã thành công“.
Trần Hoành
Dịch theo nguyên văn trên báo Die Zeit, số 34, ra ngày 13.8.2009, với sự đồng ý của tác giả và toà soạn.
Tài liệu 2
Lời tuyên bố về người tỵ nạn Việt Nam của hồng y Joseph Ratzinger, tổng giám mục giáo phận München và Freising
Mấy tuần qua những hình ảnh hãi hùng về người tỵ nạn Việt Nam đập vào mắt chúng ta và chúng ta chứng kiến cảnh họ bị hất hủi khắp nơi; đó là sự sụp đổ thê thảm của tình người. Cứu người gặp nạn trên biển vốn là một đòi hỏi căn bản của tình đồng loại. Trong trường hợp người tỵ nạn Việt Nam nguyên tắc này xem ra không còn giá trị.
Nhưng tạ ơn Chuá, trong thời gian qua đã có những biến chuyển tốt đẹp hơn. Ở Âu châu, trong đó có quốc gia chúng ta, cánh cửa ít ra đã hé mở cho những con người bị hất hủi. Tôi chân thành cảm ơn những ai đã mở vòng tay, sẵn sàng đón tiếp người tỵ nạn và những ai đã tranh đấu để mở ra những cánh cửa. Tuy nhiên vấn đề chưa chấm dứt ở đây.
Nếu phải đương đầu với làn sóng tỵ nạn tiếp tục tràn tới, chúng ta có thể thấm mệt, nại lý do dễ hiểu rằng gánh nặng đã quá đủ, để đóng cửa lại.
Vậy lúc này chúng ta nên nhớ: Sau thế chiến, giữa lúc nhà cửa tan nát, cơ nghiệp tiêu tan, từng triệu người phải rời bỏ quê hương đã được đón tiếp với vòng tay mở rộng, mặc dù đôi khi đâu đó có lời ta thán. Đó là một điểm son của lịch sử chúng ta thời hậu chiến. Thời đó cũng có thể nại lý do dễ hiểu để từ chối, rằng cơ nghiệp chúng ta bị tiêu hủy hết rồi, với hai bàn tay trắng lấy gì mà chia sẻ. Nhưng những cánh cửa đã mở ra. Có những người lúc đó nhìn người tỵ nạn như mối đe dọa, cạnh tranh cuộc sống của họ. Họ đã lầm. Ngày nay ta biết rõ, sở dĩ nền kinh tế hồi sinh mãnh liệt và thế hệ thứ nhất sau chiến tranh không hề bị chao đảo, vì những người tỵ nạn không phải là hiểm họa cạnh tranh, nhưng họ đã đem đến sức sống giữa đống tro tàn và góp phần xây dựng tương lai tươi đẹp cho đất nước. Ngược lại chúng ta chứng kiến cảnh tượng người tỵ nạn Palestina tại Cận Đông: họ không tìm đâu ra nơi nương tựa. Nơi nào con người được đón nhận, ở đó có sức sống, niềm hy vọng và tình yêu. Ở đâu con người bị hất hủi, ở đó nọc độc lan tràn. Và chúng ta thấy nọc độc này không phải chỉ tác hại vùng Cận Đông tới tận gốc rễ, nhưng còn làm lung lay cả thế giới, vì chúng ta cùng sống trong một thế giới. Nếu trong cảnh điêu tàn chúng ta đã có thể chia sẻ, mà nay sống trong đất nước giầu có, chúng ta lại từ chối, thì đó là một vết nhơ nhục nhã.
Trần Hoành
dịch nguyên bản lời tuyên bố qua thư đồng ý ngày 16.9.2009 của Dr. Peter Pfister, giám đốc ngân khố và thư viện giáo phận München-Freising. Tài liệu đã được phổ biến trên Ordinariatskorrespondenz, ngày 4.1.1979, lưu trữ tại Archiv des Erzbistums München und Freising.