Việt Nam phải mạnh mẽ đối với các nước thượng nguồn Mekong dù đó là nước nào!

  RFA|

Dòng Mekong dài hơn 4.300 km, xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Laos, Thailand, Kampuchia và Việt Nam.

Mới đây, các tổ chức dân sự ở Thái Lan cảnh báo 8 đập thủy điện trên lãnh thổ Trung Quốc giữ nước lại là nguyên nhân khiến mực nước sông Mekong xuống thấp kỷ lục. Các nhà hoạt động bảo vệ môi trường còn gởi kiến  nghị lên Ủy Ban Nhân Quyển NHCR của Thái Lan yêu cầu rà soát lại những dự án  thủy điện sẽ được xây thêm trên dòng Mekong.

Ban Việt Ngữ có cuộc phỏng vấn với ông Brian Eyler, tác giả cuốn The Last Days of Mighty Mekong, tạm dịch Những Ngày Cuối Của Dòng Mekong Vĩ Đại. Ông Brian Eyler là giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung Tâm Stimson ở Washington DC. Tháng trước ông từng có mặt trong các cuộc họp của MRC Ủy Hội Sông Mekong ở Thái Lan, Lào và Việt Nam.

***

Thanh Trúc: Thưa ông Brian Eyler, Mekong Freedom Network của Thái Lan mới đây cho biết 8 đập thủy điện của Trung Quốc giữ lại khoảng 40 tỷ mét khối nước khiến mực nước sông Mekong xuống đến mức kỷ lục trong vòng 100 năm qua. Thưa ông nghĩ sao về cảnh báo này?

Ông Brian Eyler: Tôi đọc thấy thông báo 8 con đập trên phần lãnh thổ Trung Quốc ở thượng nguồn Mekong gây hạn hạn nên phải nhanh chóng kiểm chứng một số dữ liệu. Đúng là hiện đang xảy ra tình trạng hạn hán nặng nề tại khu vực Mekong. Đó là hậu quả của nhiều tác nhân gộp lại. Hoạt động đầu tiên của tôi với tư cách là người đang làm việc để cổ xúy cho những phương cách phát triển thông minh hơn cho khu vực Mekong có thể thay thế cách  xây dựng những đập thủy điện như hiện tại thì trước hết tôi nhắc lại là có đến 11 con đập trên phần sông Mekong chảy qua Trung Quốc đã hoàn tất. Mọi người cần được cập nhật bản đồ của tất cả những đập đó cũng như thông tin liên quan. Tổng cộng tất cả những đập đó có thể giữ lại hơn 40 tỷ mét khối nước; tuy nhiên do trong thời điểm hạn hán số lượng nước trữ lại đó có thể ít hơn. Dẫu thế, việc trữ nước ở các đập như vậy đều có thể góp phần làm ảnh hưởng đến hạ nguồn.

Nhưng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hạn hán khốc liệt ở khu vực Mekong.

Thanh Trúc: Trong đánh giá mới đây của ông thì  có rất nhiều khả năng mực nước sông vào ngày 19/7/2019 là thấp nhất từ trước đến nay, ít nhất là trong một thế kỷ qua. Các đập thủy điện ở Trung Quốc đã xây dựng và vận hành từ nhiều năm, tại sao đến năm nay mực nước mới xuống thấp đến mức kỷ lục như thế, liệu có nhân tố ảnh hưởng nào khác không?

Ông Brian Eyler: Tôi xin có một phân tích nhanh; hãy xem những hình ảnh chụp từ vệ tinh đợt hạn hán được cho là tồi tệ nhất lịch sử hồi tháng Tư 2016 rồi so sánh với những dữ kiện trong tháng Bảy 2019 này tôi thấy mực nước sông Mekong tại khu Tam Giác Vàng xem ra còn thấp hơn cả mực nước thấp của vụ hạn hán lịch sử năm 2016.

Những tác nhân cộng hưởng gây nên tình trạng hạn hán như hiện nay được trình bày theo thứ tự tác động. Thứ nhất hiện tượng khí hậu El Nino ảnh hưởng đến khu vực xét về lượng mưa trong mùa khô chuyển sang mùa mưa. Điều quan trọng cần lưu ý là vào tháng Năm, tháng Sáu mỗi năm thì khu vực Mekong chuyển từ mùa khô hay rất khô sang mùa mưa cực nhiều. Tác nhân El Nino làm mùa khô kéo dài ra.

Biến đổi khí hậu cũng là tác nhân ảnh hưởng đến thời gian ngắn hay dài của mưa mùa. Đã có tiên đoán là tình trạng biến đổi khí hậu khiến mùa mưa ngày càng ngắn đi mỗi năm, sự ngắn đi này được thấy rõ trong năm nay và tác động của nó trong tương lai cần được nghiên cứu kỹ hơn. Về phần các đập thủy điện tích tụ nước trên thượng nguồn Mekong thì đập Xayabury ở mạn Bắc nước Lào đang vận hành thử nghiệm và đã giữ lại một lượng nước lớn cũng phần nào góp sức hạ thấp dòng nước. Tác nhân tiếp là những đập thủy điện lớn của Trung Quốc. Đập tác động nhiều đến hạ nguồn mà chúng ta xem xét đến là đập Cảnh Hồng. Việc xả nước của đập này tác động đến dòng chảy xuống hạ nguồn.

Sau hết, với hơn 60 đập thủy điện đã hoàn tất ở Lào trên các chi lưu của dòng Mekong. Ngoài ra còn hơn 60 đập khác nữa đang được xây dựng. Tất cả những tác động như thế cùng gộp lại tạo đợt hạn hán gây hại nhiều nhất cho những cộng đồng dân cư sống dọc Sông Mekong ở Lào, Thái, Kampuchia và Việt Nam.

Thanh Trúc: Thế nhưng người ta vẫn tiếp tục cho rằng các đập thủy điện khổng lồ ở Trung Quốc là thủ phạm chính làm cạn dòng Mekong trong mùa nắng nóng. Theo ông các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành tra sao, và mức độ ảnh hưởng của chúng như thế nào đối với các nước hạ du?

Ông Brian Eyler: Hãy nói về những đập thủy điện của Trung Quốc trước khi đề cập đến các đập nói chung. Hệ thống thủy điện của Trung Quốc là những đập lớn, thâu tóm lượng nước khổng lồ của dòng Mekong. Hệ thống thủy điện Xayabury của Lào ở phía dưới cũng lớn không kém. Còn những đập trên các chi lưu thì nhỏ hơn. Tất cả những đập thủy điện này gây tác động đáng kể nếu không được vận hành phù hợp. Như vào mấy tuần qua, đập Cảnh Hồng không xả nước hay xả nước ít hơn nó thường thực hiện vào mùa mưa. Điều này có thể do nhu cầu nước của đập này được ưu tiên hơn nhu cầu của dưới hạ lưu. Nhà máy có thể thu lợi từ việc phát điện phục vụ các cộng đồng và thành phố quanh khu vực nơi đông đúc dân cư mà ước tính lên đến chừng 600 ngàn đến 800 ngàn và tăng rất nhanh. Tuy nhiên tôi không chắc mấy về con số dân này. Do đó thật không may vì nhu cầu của vùng đập này gây tác hại đến cho nơi khác. Điều này cũng tương tự như những đập thủy điện dưới hạ nguồn.

Trong thời điểm khô hạn thiếu nước này, các đập này phải duy trì chức năng phát điện, nếu không họ mất tiền. Do vậy mỗi đập thủy điện đều hành xử theo cách không xem xét đến nhu cầu của những đập ở dưới hạ nguồn dòng sông, có nghĩa là họ giữ nước lại.

Tác động tích hợp của tất cả: đập Cảnh Hồng giữ nước, đập Xayaburi thử nghiệm vận hành cũng giữ nước, cộng với hơn 60 đập ở Lào, một đập ở Kampuchia, cũng như những con đập ở thượng nguồn trung phần Việt Nam, Thái Lan; tất cả gộp lại gây tác động lớn đến dòng chảy hạ nguồn nước và thực sự làm trầm trọng thêm các vấn đề trong thời kỳ hạn hán..

Thanh Trúc: Thưa ông Brian Eyler, năm 2016 Việt Nam đã phải đối diện một trận hạn hán nghiêm trọng và lịch sử. Theo ông tình hình hạn hán Việt Nam năm 2019 này và những năm tới nữa sẽ như thế nào khi các đập lớn ở Trung Quốc và Lào vận hành ráo riết  và còn nhiều chục con đập khác đã lên kế hoạch xây dựng?

Ông Brian Eyler: Tôi nghĩ cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để có thể đoan chắc về những tác động tạo nên hiệu ứng đáng nói hiện nay là El Nino cộng với việc Xayaburi của Lào chạy thử nghiệm cộng thêm sự giữ nước lại của đập Cảnh Hồng phía Trung Quốc.

Đối với tác động mưa mùa, chúng ta biết tiểu vùng Mekong đang chuyển từ khí hậu mùa khô sang khí hậu mùa mưa lẽ ra phải bắt đầu từ cuối tháng Năm đầu tháng Sáu. Đáng tiếc và đáng quan ngại là mùa mưa tính đến lúc này vẫn chưa xảy ra. Còn nhớ cùng  thời kỳ này năm ngoái  Mekong không thiếu nước vì những cơn bảo nhiệt đới liên tục khiến Lào bị vỡ đập vì  lượng nước tích tụ quá nhiều trong các hồ chứa. Ngoài ra còn những nguyên nhân khác dẫn đến vỡ đập, tuy nhiên vào năm ngoài lượng nước quá nhiều. Số liệu cho thấy như thế. Và phổ dữ liệu rất lớn từ năm này sang năm khác khiến khó có thể quyết định về tác động.

Ủy Hội Sông Mekong thì vẫn phải liên tục theo dõi và tiếp tục nghiên cứu về những tác động của các đập trên dòng chính Mekong và cả trên các chi lưu. Đáng nói là theo dự kiến khoảng 500  đập sẽ được xây lên trong tương lai. 500 con đập là điều khó có thể tưởng tượng trên dòng sông Mekong này. Không ai rõ tác động nào sẽ đến; nhưng thật là đáng sợ.

Thanh Trúc: Ông nghĩ Việt Nam phải làm gì hầu giảm bớt tác động tai hại từ những đập thủy điện thượng nguồn?

Ông Brian Eyler: Phải chăng cơ hội để Việt Nam tự mình có thể làm gì xem ra không có mấy. Đồng Bằng Sông Cửu Long là khu vực sản xuất nông nghiệp trọng yếu của Việt Nam. Cách để giảm thiểu tác động từ thượng nguồn là trữ nước trong mùa mưa cho mùa khô. Cứ nhìn những con đập đồ sộ của Trung Quốc, nhìn khoảng 300 con đập đã và đang sắp xây ở Lào trong tương lai.

Việt Nam cần làm việc với cả Lào, Kampuchia, Trung Quốc trong hợp tác xúc tiến phương cách thay thế có thể chuyển đổi tương lai sản xuất thủy điện sang các nguồn điện khác; cũng như bàn bạc với các quốc gia thượng nguồn về những vấn đề như đòi hỏi các quốc gia thượng nguồn đừng tích nước mà phải xả nước xuống hạ nguồn trong thời gian khô hạn để lưu lượng dòng chảy được tự nhiên như bình thường. Đó là thông điệp duy nhất mà Việt Nam và những quốc gia hạ nguồn cần nói với nước thượng nguồn dù đó là nước nào.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn ông Brian Eyler về cuộc phòng vấn này.