Nguyễn Hạnh – Luật Khoa
Tối nay (23.7.2021), 18 vận động viên đại diện cho Việt Nam sẽ ra mắt khán giả thế giới tại Thế vận hội Tokyo 2020. Bạn có biết vào 57 năm trước, cũng tại Nhật Bản, 16 người Việt Nam đã tranh tài tại Thế vận hội Mùa hè Tokyo 1964? Tất cả họ đến từ miền Nam Việt Nam.
Hai giờ chiều ngày 10/10/1964, tại sân vận động Olympic, Tokyo, quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa nền vàng ba sọc đỏ dẫn bước 16 vận động viên Việt Nam đóng bộ com-lê đen bước đi trước tiếng reo hò của hàng triệu khán giả. [1]
Khi đất nước vẫn ngập trong nội chiến với miền Bắc, 16 người đó thuộc một trong những thế hệ người Việt Nam đầu tiên thi đấu thể thao ở đẳng cấp quốc tế với điều kiện tập luyện rất thiếu thốn.
Bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt, người miền Nam đã tranh tài tại giải thể thao danh giá nhất hành tinh từ năm 1952 tại Thế vận hội Helsinki, Phần Lan liên tục cho đến năm 1972 tại Thế vận hội Munich tại Tây Đức.
Trong suốt thời gian này, miền Bắc đã không tham gia Thế vận hội, mãi cho đến năm 1980. [2]
Những vận động viên miền Nam đã làm điều đó như thế nào? Câu chuyện của họ là một phần lịch sử không thể chối cãi của nền thể thao Việt Nam. Sau năm 1975, lịch sử này đã bị chính trị làm cho mờ nhạt. Đây là lúc làm sống lại câu chuyện về những con người đầu tiên đã đưa Việt Nam ra thế giới bằng ý chí và nghị lực thể thao.
Miền Nam từng tranh tài ở thế vận hội như thế nào?
Tranh tài ở thế vận hội khi đó không đơn giản là đất nước ghi danh để bạn tham gia. Bạn phải là nhà vô địch hoặc có thứ hạng cao trong khu vực. Các vận động viên Việt Nam Cộng hòa, hay thời đó người ta gọi họ là các lực sĩ, cũng không phải ngoại lệ.
Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam được thành lập vào ngày 25/11/1951 và được Ủy ban Olympic Quốc tế công nhận. Một năm sau, Việt Nam bắt đầu thi đấu ở thế vận hội. [3]
Năm 1952, miền Nam tham gia thế vận hội thể thao đầu tiên của mình tại Helsinki, Phần Lan với 8 vận động viên ở 5 bộ môn: điền kinh, boxing, đấu kiếm, đua xe đạp đường trường và bơi lội. [4]
Cua-rơ Bùi Văn Hoàng (áo trắng) và cua-rơ Trương Kim Hùng trong một buổi tập tại Đà Lạt vào năm 1968.
Cả hai cùng tham gia Thế vận hội Thành phố Mexico 1968. Ảnh: Bettmann/CORBIS.
Năm 1956, Việt Nam thi đấu bộ môn đua xe đạp lòng chảo với hai cua-rơ Lê Văn Phước (27 tuổi) và Nguyễn Văn Nhiêu (26 tuổi). [5]
Thế vận hội Tokyo 1964 đánh dấu Việt Nam lần đầu tranh tài tại môn Judo với ba võ sĩ Nguyễn Văn Bình (25 tuổi), Thuc Thuan Thai (39 tuổi), và Lê Bả Thành (30 tuổi). [6] Đây cũng là lần miền Nam có số vận động viên tham gia thế vận hội đông nhất với 16 người.
Võ sĩ Judo Nguyễn Văn Bình bên trái thi đấu với võ sĩ người Nga Aron Bogolubov tại Thế vận hội Tokyo 1964. Ảnh: Black Belt.
Vận động viên chạy bộ Nguyễn Văn Lý đang thi đấu nội dung Marathon (42km) tại Olympic Tokyo vào chiều ngày 21/10/1964.
Trước đó, anh đã thi đấu nội dung 5.000 mét. Ảnh: Olympics.
Năm 1968, các xạ thủ Việt Nam lần đầu tranh tài môn bắn súng tại Thế vận hội Mexico. [7] Trung tá quân đội Vũ Văn Danh (42 tuổi) thi đấu nội dung súng ngắn bắn nhanh 25 mét, Trung tá cảnh sát Hồ Minh Thu (39 tuổi) và Dương Văn Dan (31 tuổi) thi đấu ở nội dung súng ngắn 50 mét.
Thế vận hội Mexico cũng đánh dấu lần đầu tiên phụ nữ miền Nam bắt đầu thi đấu ở Olympic.
Cô Hoàng Thị Hương là nữ xạ thủ Việt Nam đầu tiên thi đấu ở thế vận hội. Cô học bắn súng khá muộn từ người chồng quân nhân của mình. Cô thi đấu tại thế vận hội sau cùng mà miền Nam tham gia, vào năm 1972 tại Tây Đức. Người ta gọi cô là Annie Oakley của miền Nam Việt Nam vì tài năng bắn súng làm kinh ngạc các quý ông (Annie Oakley là xạ thủ nổi tiếng tại Mỹ vào cuối thế kỷ 19).
Xạ thủ Hoàng Thị Hương: Phụ nữ cũng bắn súng giỏi
Vào tháng 8/1972, xạ thủ Hoàng Thị Hương còn cách ngày thi đấu tại Tây Đức chưa đầy hai tháng. Cô dành bốn tiếng mỗi ngày tập luyện tại trường bắn.
Đó là thời điểm hãng tin AP thực hiện một bài viết về cô. Nên có nhiều phụ nữ tham gia môn bắn súng hơn nữa, cô Hương nêu ý kiến trong bài báo, “vì đây là bộ môn mà phụ nữ có thể tranh tài ngang hàng (về các nội dung thi đấu) với cánh đàn ông”. [8]
Tại trường bắn, người ta thấy cô tập luyện với khẩu súng lục do chính tay cô gọt dũa báng súng sao cho thật vừa vặn với lòng bàn tay. Cô mang theo các con của mình khi tập luyện. Chính những đứa con, chứ không phải thế vận hội, mới là lý do ban đầu đưa cô đến với môn bắn súng.
Xạ thủ Hoàng Thị Hương cùng chồng, Trung tá quân đội Vũ Văn Danh, tập luyện chuẩn bị cho Olympics 1972. Ảnh: AP.
Xạ thủ Hoàng Thị Hương có sáu đứa con. Cô học bắn súng vào năm 1965 từ người chồng quân nhân cũng là xạ thủ thế vận hội – Trung tá quân đội Vũ Văn Danh – khi gia đình sống tại một đồn lính trong vùng chiến sự tại Huế. Trong bối cảnh như vậy, Trung tá Danh đã dạy vợ bắn súng để đề phòng quân Việt Cộng.
Kỹ năng bắn súng của cô lần đầu hữu dụng vào năm 1968 trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Cô bảo vệ sáu đứa con của mình với khẩu súng đã lên sẵn đạn.
Xạ thủ Hoàng Thị Hương cùng chồng và các con tại trường bắn ở Sài Gon vào ngày 13/8/1972. Cậu bé Dương đứng ngoài cùng được bắt đầu được mẹ mình dạy bắn súng. Ảnh: AP/Koichiro Morita.
Năm 1969, cô tham gia một cuộc thi bắn súng với 45 nam quân nhân cốt để giải khuây, nhưng cuối cùng đã hạ hết các tay súng và giành huy chương vàng. Kể từ đó, cô đại diện miền Nam Việt Nam tại các cuộc thi bắn súng quốc tế và giành huy chương vàng Đông Nam Á vào năm 1971.
Xạ thủ Hoàng Thị Hương và Hồ Minh Thu tại Lễ khai mạc Thế vận hội mùa hè Munich năm 1972 cũng là thế vận hội sau cùng mà Việt Nam Cộng hòa tham dự. Ảnh: Youtube.
Tháng 10/1972, cô thi đấu nội dung súng ngắn 50 mét, xếp hạng 56/59 xạ thủ. [9]
Xạ thủ Hoàng Thị Hương không phải là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thi đấu tại thế vận hội. Có một vận động viên khác đã ghi tên mình vào lịch sử đó.
Kình ngư Nguyễn Minh Tâm: Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tham gia thế vận hội
Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thi đấu tại thế vận hội là kình ngư Nguyễn Minh Tâm. [10] Cô thi đấu lần đầu ở bộ môn bơi lội vào năm 18 tuổi tại Thế vận hội Mexico năm 1968.
Ngoài cô ra, còn có kình ngư Nguyễn Thị Mỹ Liên, nhưng chỉ có Tâm được công nhận là phụ nữ đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa tham gia thế vận hội.
Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa với hai vận động viên bơi lội nữ tại Lễ khai mạc Thế vận hội Mexico năm 1968. Ảnh: The Asahi Shimbun.
Hai kình ngư đại diện cho Việt Nam tại Thế vận hội Mexico 1968 là Nguyễn Minh Tâm và Nguyễn Thị Mỹ Liên. Ảnh: IOC.
Kình ngư Nguyễn Minh Tâm sinh ngày 26/8/1950. Cô sinh ra trong một gia đình giàu có tại Sài Gòn. [11] Cô là thành viên của câu lạc bộ thể thao sang trọng dành cho giới nhà giàu Sài Gòn có tên là Cercle Sportif, nơi có hồ bơi đẹp nhất thành phố. (Nơi này bị chính quyền tịch thu sau năm 1975, hiện là Cung Văn hóa Lao động TP. HCM.) [12]
Tại Thế vận hội Mexico 1968, Nguyễn Minh Tâm thi đấu ở hai nội dung bơi tự do 100 mét và 200 mét. Ở nội dung thứ nhất, cô xếp hạng 53/61 vận động viên với thời gian 1 phút 09. [13] Ở nội dung thứ nhì, cô không được công nhận thành tích cùng với 7 vận động viên khác. [14]
Nguyễn Minh Tâm không tham gia thế vận hội sau cùng của miền Nam vào năm 1972 tại Tây Đức. Năm đó, phái đoàn thể thao miền Nam Việt Nam chỉ tham gia môn bắn súng với hai xạ thủ.
Trong sáu thế vận hội mà miền Nam tham gia, có sáu vận động viên thi đấu liên tục hai kỳ là Lê Văn Phước (đua xe đạp đường trường), Trần Văn Xuân (đấu kiếm), Phan Huu Dong (bơi lội), Hồ Minh Thu (bắn súng), và Nguyễn Văn Lý (điền Kinh).
Đoàn thể thao miền Nam không giành được huy chương nào trong sáu kỳ tham gia thế vận hội. Tranh tài tại châu Á, miền Nam Việt Nam có một số gương mặt nổi bật như Hồ Minh Thu giành huy chương đồng bộ môn bắn súng vào năm 1970 tại Bangkok; [15] Trần Gia Thu giành huy chương đồng môn đua xe đạp đường trường năm 1966 tại Bangkok; [16] Ngô Thành Liêm và Trần Văn Nên giành huy chương đồng môn đua xe đạp đường trường vào năm 1958 tại Tokyo. [17] [18]
Miền Nam gặp không ít khó khăn khi tham gia các thế vận hội hay các giải đấu lớn. Vấn đề không nằm ở tài năng của các vận động viên mà ở khía cạnh tài chính.
Thể thao miền Nam thi đấu trong khó khăn
Nếu trở về thời kỳ đó, bạn có thể sẽ thấy khó chịu khi đất nước đang ngập trong đau khổ của chiến tranh, chết chóc, mà lại có người cứ tập luyện thể thao để thi đấu quốc tế – một việc rất tốn kém.
Đối với một đất nước không có truyền thống thể thao, việc các vận động viên miền Nam đạt đến tiêu chuẩn thi đấu tại thế vận hội đã là một nỗ lực đáng được ghi nhận. Báo chí quốc tế đã ghi nhận họ tập luyện trong một điều kiện thiếu thốn nhưng không bao giờ từ bỏ hy vọng.
Một bộ tem lấy chủ đề thể dục – thể thao vào giai đoạn 1965 – 1966, thời Việt Nam Cộng hòa. Ảnh: hipstamps.com.
Tháng 8/1960, các quan chức Ủy ban Olympic Quốc gia miền Nam thông báo phải cắt số vận động viên sẽ tham gia Olympic tại Rome, Italy từ 5 người xuống còn 3 người vì lý do tài chính. [19]
Tháng 4/1969, Hiệp hội Quần vợt Việt Nam thông báo hủy tham gia giải quần vợt Davis Cup tại Tokyo diễn ra vào cuối tháng cũng vì lý do về tài chính. [20] Ngoài ra, tay vợt ngôi sao của đội có tên Lưu Hoàng Đức lúc đó đã mất tích ở Hồng Kông.
Năm 1968, 11 vận động viên miền Nam lên đường thi đấu tại Thế vận hội Rome, Italy nhưng chính phủ chỉ tài trợ vé máy bay, các chi phí khác vận động viên phải tự túc.
Trước Thế vận hội Rome, Russ Whitman, huấn luyện viên cho các vận động viên, nói với báo chí rằng họ hầu như không có chỗ tập luyện, các sân vận động của thành phố đã trở thành các khu tị nạn vì cuộc tấn công Mậu Thân. [21]
Khu vực Chợ lớn bị đánh bom nặng nề vào tháng 6/1968. Ảnh: Bettmann/CORBIS.
Để thi đấu chuyên nghiệp, vận động viên cần giữ nhịp độ tập luyện liên tục. Tuy nhiên, việc đó là quá sức trong tình trạng chiến tranh tại miền Nam.
Russ lấy ví dụ rằng dân chúng từng bị yêu cầu ở nhà ít nhất trong 40 ngày khi xảy ra cuộc tấn công Mậu Thân. Không ai có thể giữ được thân hình tối ưu để thi đấu trong điều kiện như vậy.
“Ngay lúc này chúng tôi không có thời gian và tiền bạc cho thể thao”, Trung tá Vũ Văn Danh nói vào năm 1972, “khi hòa bình đến chúng tôi sẽ chơi tốt hơn nữa”. [22]
Tuy nhiên, hòa bình vào tháng 4/1975 đã vượt xa những gì Trung tá Danh có thể hình dung.
.
Việt Nam tại thế vận hội sau 1975
Trong khi miền Nam tham dự sáu kỳ thế vận hội liên tục và Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tham gia từ năm 1952, chính quyền miền Bắc Việt Nam đã không tham gia. [23] [24]
Năm 1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định thành lập Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam. [25] Mãi đến năm 1980 thì ủy ban này mới được Ủy ban Olympic Quốc tế công nhận.
Vì vậy, Việt Nam đã bỏ lỡ Thế vận hội Montreal vào năm 1976 tại Canada.
Năm 1980, các vận động Việt Nam trở lại thi đấu tại Thế vận hội tại Liên Xô với 22 vận động viên.
Việt Nam tiếp tục bỏ lỡ một kỳ Olympics nữa vào năm 1984 sau khi Liên Xô tẩy chay Thế vận hội mùa hè Los Angeles, Mỹ. [26] Không chỉ có Việt Nam, các nước cộng sản như Bulgaria, Đông Đức, Mông Cổ và Tiệp Khắc và Lào cũng tuyên bố không tham gia. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tham gia. [27]
Đến nay, Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam vẫn không ghi rõ trong phần giới thiệu trên websites rằng Việt Nam Cộng hòa đã đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các thế vận hội từ năm 1952. [28]
Việt Nam giành được huy chương thế vận hội đầu tiên vào năm 2000. Người mang về huy chương bạc năm đó là võ sĩ Taekwondo nữ Trần Hiếu Ngân. [29]./.